Một số kinh nghiệm giảng dạy giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống thông
qua bộ môn giáo dục công
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài:
Một trong những nguyên lí giáo dục cơ bản của đất nước chúng ta là giáo
dục con người toàn diện. Nhiệm vụ của hệ thống giáo dục Việt Nam là đào tạo,
bồi dưỡng học sinh cả đức lẫn tài. Học sinh đến trường không chỉ để học chữ,
hay chỉ để trag bị cho mình vốn tri thức cần thiết cho hành trang nghề nghiệp
mai sau mà còn để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối sống và hình thành nên
những phẩm chất tốt đẹp, tiêu biểu cho con người Việt Nam.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội phát triển đầy biến động, tất cả lĩnh vực
phát triển như vũ bão và cuộc sống thay đổi nhanh chóng như hiện nay thì có
q nhiều thách thức địi hỏi học sinh cần đối mặt tích cực và hiệu quả. Từ đó,
bên cạnh nhiệm vụ rèn đức, luyện tài, việc rèn luyện, bồi dưỡng cho các em kỹ
năng đương đầu và vượt qua thử thách trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với
ngành giáo dục. Thực tế là nội dung giáo dục kỹ năng sống là một trong năm nội
dung của phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” giai
đoạn 2008 – 2013 do Bộ giáo dục phát động theo chỉ thị số 40/2008/CT –
BGDDT ban hành ngày 20 tháng 07 năm 2008 và từ năm học 2009 – 2010, Bộ
giáo dục và Đào tạo cũng đã đưa giáo dục kỹ năng sống vào nhiệm vụ năm học.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ở một số nơi còn mang
nặng dạy “ chữ” nhẹ về dạy “ người”, cịn nặng về biện pháp xử lí kỷ luật hơn
tìm biện pháp ngăn chặn. Trong nhà trường một số thầy cơ chưa thể hiện hết
trách nhiệm của mình trong việc giáo dục định hướng cho học sinh.
Thực tế hiện nay một bộ phận lớn học sinh còn thiếu hiểu biết về pháp
luật, đạo đức, lối sống. Đặc biệt kỹ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối
sống có văn hóa và chưa biết đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động,
chưa nhận thức được việc phạm tội, vi phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua
địi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng, rèn luyện, sống buông thả
theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em gia đình có hồn cảnh kinh tế khá nhưng
thiếu ý chí vươn lên, tự bng thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm
pháp luật, đạo đức, gây ra gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Hiện nay tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống
ích kỉ, vơ tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và bản thân đang là cản trở lớn cho
sự phát triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến khơng ít các bậc làm cha, làm
mẹ phải phiền lịng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng
học sinh này trong một xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các
em sẽ rất năng động, tự tin khi được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh
hoạt, học tập.
Mặt khác là tình trạng bạo lực học đường ngày càng tăng và có dấu hiệu
lan rộng làm cho học sinh lo lắng làm thế nào để bảo vệ mình an tồn khi đi học
từ nhà đến trường khi bắt gặp nhóm đối tượng xấu rình rập, ức hiếp những học
sinh ngoan hiền…một bộ phận không nhỏ học sinh có cuộc sống khép kín với
thực tại, ln đắm mình vào thế giới ảo của Internet, thế giới game…, mà đã
quên đi hoặc đánh mất những cơ hội giao lưu bạn bè, thể hiện khả năng tiềm ẩn
của mình trước đám đơng và ngồi xã hội.
Mơn Giáo dục cơng dân có vai trị quan trọng trong việc giáo dục cho học
sinh ý thức, hành vi người công dân, phát triển tâm lực và nhân cách con người
toàn diện. Tuy nhiên, trong thực tế khi xét về phương diện nào đó thì vai trị của
mơn học này chưa được nhìn nhận một cách đúng đắn như nó vốn có. Các em đa
số chú tâm, dành nhiều thời gian cho những môn học mà tới đây các em sẽ thi
tốt nghiệp và thi đại học. Môn giáo dục công dân thường bị các em coi nhẹ, “
học đối phó”. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần tích cực đổi mới nội dung, phương
pháp dạy và học là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
của học sinh; Mặt khác góp phần vào việc đào tạo nguồn nhân lực và những
cơng dân mới có tính năng động, sáng tạo, thích ứng với cuộc sống, có phẩm
chất và năng lực để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay và phù hợp với xu thế chung của thời đại.
2
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của bộ môn giáo dục công dân
trong việc giáo dục và hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, trong thời gian qua
nhà trường đã tạo mọi cơ hội cho việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà
trường, bằng tình thương và trách nhiệm đã từng bước uốn nắn kịp thời để các
em hồn thiện hơn.
Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận
thanh niên học sinh hiện nay như: bạo lực học đường, tình trạng sống bng thả,
thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội…vì thế cần phải có sự quan
tâm nhiều hơn nữa từ phía gia đình, nhà trường và xã hội.
Với phạm vi đề tài tôi xin mạnh dạn trình bày là ứng dụng một số phương
pháp dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài cụ
thể trong môn giáo dục cơng dân lớp 10. Trong q trình giảng dạy một số bài
với hy vọng trao đổi với đồng nghiệp một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân
trong thời gian đứng lớp vừa qua, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy
của bộ môn giáo dục công dân trong nhà trường và thực hiện mục tiêu chung
của nền giáo dục đào tạo nước nhà. Đó cũng chính là lí do tôi chọn viết đề tài
này: “ Một số kinh nghiệm giảng dạy giúp học sinh nâng cao kỹ năng sống
thông qua bộ môn giáo dục công”.
2. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số bài cụ thể trong môn giáo dục công dân lớp 10.
- Độ tuổi học sinh trung học phổ thơng là độ tuổi các em có nhiều biến
động về tâm, sinh lý và cần có những kỹ năng sống cơ bản.
- Vận dụng một số kĩ thuật dạy học mới trong dạy học nhằm tích hợp kỹ
năng sống mà trọng tâm là ứng dụng vào giảng dạy nhằm giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông.
3. Mục đích, nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
3.1. Mục đích:
Qua tìm hiểu, nghiên cứu từ thực tế những tiết dạy môn học giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông Lê Lợi, với đề tài này tôi xin đề xuất sử
dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm mục đích biến hành vi từ
3
chương trình kiến thức đã học trong chương trình thành hành động cụ thể đi vào
cuộc sống của cá nhân một cách có hiệu quả thơng qua các bài dạy cụ thể trên
lớp.
Giúp học sinh có kiến thức, thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành
mạnh để hành động một cách tích cực và phù hợp trong cuộc sống, luôn yêu đời
và biết làm chủ cuộc sống của mình.
3.2. Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu, nghiên cứu tâm lí năng lực ứng dụng kỹ năng sống của học
sinh trung học phổ thơng trong giai đoạn hiên nay.
- Tìm hiểu, khảo sát việc sử dụng các phương pháp học tập tích cực nhằm
tích hợp kỹ năng sống vào chương trình giáo dục công dân.
- Rút ra một số kinh nghiệm từ giải pháp thực hiện tích hợp kỹ năng sống
qua quá trình giảng dạy.
- Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là giúp giải quyết những nhu cầu và
thách thức của bản thân mỗi người trong cuộc sống sao cho hiệu quả.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu về độ tuổi, giới tính khi tích hợp kỹ năng sống vào giảng
dạy một số bài trong chương trình giáo dục cơng dân lớp 10, cụ thể:
Bài 3: Vận động là khuynh hướng tất yếu của thế giới vật chất.
Bài 11: Nghĩa vụ.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tư duy, động não.
- Phương pháp thuyết trình, diễn giải.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp điều tra, khảo sát.
- Phương pháp đóng vai.
- Phương pháp giải quyết tình huống…
5. Ý nghĩa đề tài:
5.1. Ý nghĩa lí luận:
4
Phương pháp dạy học là một số giúp các em có kỹ năng vững vàng trước
khóa khăn, thử thách. Biết ứng xử giải quyết những tinh huống khó khăn, thử
thách khi gặp phải; biết ứng xử, giải quyết vấn đề phức tạp cả về mặt lí luận lẫn
thực tiễn. Vì thế, việc ứng dụng nhiều phương pháp dạy học bằng cách nào đó
có thể tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào chương trình giảng dạy là vấn đề mà
hiện nay nhiều giáo viên cịn băn khoăn, lúng túng. Vì vậy, muốn đạt được hiệu
quả của việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống đòi hỏi người dạy phải kết hợp linh
hoạt, hợp lí những phương pháp nào có khả năng làm cho người nhận kiến thức
phải thật sự hứng thú, lơi cuốn như đang đắm mình trong mơi trường thực của
cuộc sống thực tế diễn ra trước mắt. Đồng thời, việc tích hợp kỹ năng sống phải
được diễn ra liên tục trong những tiết dạy tiếp theo, làm sao cho học sinh tích tụ
lại kiến thức theo kiểu mưa dầm thấm lâu thì kỹ năng sống của các em hình
thành. Do đó, việc sử dụng phương pháp nào lồng ghép vào mục nào trong bài
dạy có ý nghĩa quyết định rất lớn đến chất lượng của học sinh, góp phần nâng
cao hiệu quả giáo dục tri thức cũng như giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Đề xuất việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực nhằm tăng
cường việc tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong chương trình
Giáo dục công dân lớp 10.
6. Bố cục của sáng kiến kinh nghiệm
A. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
2. Đối tượng nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của đề tài.
B. Phần nội dung
Chương I. Thực tiễn tích hợp kỹ năng sống vào một số bài trong môn giáo
dục công dân lớp10
5
Chương II. Thực tiễn áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm tích
hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ môn giáo dục công dân lớp
10.
Chương III. Một số kinh nghiệm và hiệu quả khi ứng dụng phương pháp
dạy học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài trong bộ
môn giáo dục công dân lớp 10.
C. Kết luận, kiến nghị.
D. Lời cảm ơn.
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
THỰC TIỄN TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO GIẢNG DẠY MỘT SỐ
BÀI CỤ THỂ TRONG BỘ MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
1. Thực trạng khi tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy bộ môn giáo
dục công dân trong trường trung học phổ thơng hiện nay:
Mơn giáo dục cơng dân có vị trí và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
trường Trung học phổ thơng đối với việc hình thành và phát triển nhân cách, góp
phần tạo xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân là những chủ nhân tương lai
của đất nước. Song vấn đề thực tế hiện nay mà bất cứ ai cũng nhìn thấy rõ khi
nó đã và đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, đó là một bộ phận thanh thiếu
niên nói chung và hoc sinh trung học phổ thơng nói riêng đang xuống cấp về
mặt đạo đức, có lối sống bng thả, chạy theo thị hiếu tầm thường mà ít hoặc
6
không quan tâm tu dưỡng đạo đức dẫn đến vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết,
thiếu kỹ năng ứng phó trước những lơi cuốn mà mặt trái của xã hội để lại.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn bất cập vì từ
trước tới nay bộ mơn vẫn bị xem nhẹ, coi đó là mơn học phụ, có vai trị thứ yếu
và mờ nhạt trong nhà trường, việc giảng dạy thường diễn ra một cách khơ khan,
nặng nề, đơn điệu ít gây hứng thú cho học sinh. Chính vì thế mà chất lượng và
hiệu quả giảng dạy còn thấp, chưa mang lại hiệu quả giáo dục, đặc biệt học sinh
chưa thấy được điều bổ ích rõ rệt, việc học tập chưa gắn với thực tiễn nhất là
những thay đổi nhanh chóng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày.
Từ những thách thức và yêu cầu cấp bách trên thì việc đưa kỹ năng sống
vào giảng dạy là hết sức cần thiết và bổ ích, góp phần quan trọng to lớn vào sự
hình thành nhân cách cũng như kỹ năng sống cho học sinh. Có nhiều nguyên
nhân dẫn tới thực trạng trên, trong đó có nguyên nhân chủ yếu sau đây:
* Về phía xã hội:
Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại chất lượng cuộc
sống tốt hơn. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ đó đã kèm theo mặt trái tiêu cực
ngồi xã hội, tác động khơng nhỏ đến suy nghĩ, hành động của học sinh cộng
với sự phối hợp chưa đồng bộ của một số ngành chức năng. Ta dễ dàng quan sát
thấy hàng loạt quán internet mọc khắp mọi nơi hoạt động không tuân thủ theo
giờ giấc, thiếu sự kiểm soát của các cơ quan chức năng, xuất hiện nhiều loại
sách, tranh ảnh mang nội dung khiêu dâm, đồi trụy, băng đĩa hình tràn ngập thị
trường với những nội dung tương tự bày bán công khai. Xuất hiện nhiều trị chơi
game online, đồ chơi trẻ em mang tính bạo lực và nhiều tệ nạn xã hội khác.
Những sân chơi lành mạnh cịn rất ít, sự phục hồi giá trị văn hóa truyền thống ở
nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức, cho thấy việc việc quản lí và xử lí
chưa nghiêm là vấn đề đáng lo ngại và báo động trong xã hội hiện nay.
* Về phía nhà trường:
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông, những năm gần đây Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều cải
cách và đổi mới trong giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của giáo
7
dục. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, lấy học sinh làm trung tâm, xây
dựng phong trào “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được các thầy
cô giáo và các em học sinh hưởng ứng tích cực. Bằng tình thương và trách
nhiệm vì học sinh, những năm qua đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình tiên
tiến học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có nhiều thầy cơ giáo
ngồi việc truyền đạt tri thức cịn giúp đỡ các em có hồn cảnh khó khăn biết tự
mình vươn lên trong học tập, trong cuộc sống…điều đó đã làm giảm đáng kể
tình trạng nêu trên.
Tuy nhiên tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống, tình hình tội phạm
và bạo lực học đường đã và đang diễn ra theo chiều hướng khó kiểm soát. Đây
là điều trăn trở gây lo lắng và bức xúc trong toàn xã hội, đặc biệt là những người
mang trọng trách cao cả trong sự nghiệp “trồng người”.
* Về phía gia đình:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế theo đó là hàng loạt
những khó khăn và thách thức, nhiều bậc phụ huynh phải lao động kiếm tiền,
ngồi việc phục vụ cuộc sống gia đình, chăm sóc cho con cái học hành và nhiều
vấn đề phải lo lắng khác với thời kì bão giá như hiện nay. Nhưng có lẽ điều mà
các bậc phụ huynh trăn trở nhất là trẻ thiếu kỹ năng sống, thiếu tính tự lập, sống
ích kỷ, vơ tâm, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã họi làm cho khơng
ít các bậc phụ huynh phải phiền lịng.
Trước tình hình phức tạp diễn ra trong cuộc sống nhiều bậc phụ huynh chỉ
lo kiếm tiền thật nhiều mà ít quan tâm đến việc học tập và giáo dục con cái. Vì
họ cho rằng, như thế sẽ giúp cho con cái họ có cuộc sống sung túc, đầy đủ thì
con mình sẽ có điều kiện phát triển năng động. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân khiến cho nhiều phụ huynh phải ngậm ngùi hối tiếc khi con mình
trượt dài và đắm mình với thế giới ảo game online, quan hệ với bạn bè xấu lao
vào tệ nạn xã hội đến khi phát hiện ra thì đã q muộn màng.
Bên cạnh đó vẫn có nhiều bậc phụ huynh đã quan tâm, tạo điều kiện cho
con trau dồi kỹ năng sống thông qua việc giáo dục tại gia đình, qua các trung
8
tâm, các tổ chức xã hội…Đó là dấu hiệu tích cực cho thấy phụ huynh khơng cịn
phó mặc việc giáo dục con em cho nhà trường như trước nữa.
Trước một xã hội ngày càng phát triển nhưng đầy phức tạp, một số phụ
huynh lại lo âu và vội vàng tách con mình ra khỏi mơi trường xung quanh, đưa
con mình vào mơi trường gị bó nhất định càng khiến cho việc tiếp xúc, trải
nghiệm cuộc sống chỉ là những thứ sẵn có khiến chúng khơng thể thích nghi với
những thay đổi và khi xảy ra những tình huống thật sự ngoài đời sẽ phản ứng
theo bản năng một cách tiêu cực.
Khi những việc đáng tiếc xảy ra, điều đầu tiên mà người ta nhắc tới là sự
giáo dục lỏng lẻo của nhà trường rồi mới tới trách nhiệm của gia đình. Nhưng
bài học đầu đời về học ăn, học nói, học cách đối nhân xử thế lại bắt nguồn từ
trong gia đình, từ cách cha mẹ cư xử với con cái, với những người xung quanh,
giá trị sống trong mỗi gia đình là kỹ năng sống đầu tiên của mỗi cá nhân trước
khi bước ra môi trường xã hội.
* Về phía bản thân học sinh:
Hiện nay gia đình, xã hội đem đến khá nhiều điều kiện thuận lợi cho lớp
trẻ. Phần lớn các em đã biết tận dụng những lợi thế nhất định mà gia đình và xã
hội tạo cho để tập trung cho việc học tập, tìm tịi, khám phá tri thức để tự khẳng
định mình. Bên cạnh đó, có rất nhiều gương học sinh nghèo hiếu học, biết cách
tự lập cho riêng mình lập được những thành tích cao trong học tập và rèn luyện
được nhà trường và xã hội tuyên dương.
Hiện nay vẫn còn một bộ phận học sinh ham chơi, đua địi, chạy theo
những thói hư, tật xấu, điển hình thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh
mẽ những hành vi bạo lực trong học sinh, những hình ảnh và vụ việc vi phạm
pháp luật của một số học sinh đã thật sự gây tiếng chuông cảnh báo về sự xuống
cấp đạo đức của giới trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, gây chấn động đến các các
ngành chức năng có liên quan phải quan tâm nhiều hơn nữa đến đạo đức, lối
sống của học sinh hiện nay.
2. Nguyên nhân thực trạng trên:
9
- Thiếu định hướng từ gia đình, do cha mẹ thiếu quan tâm, cha mẹ li hơn
hoặc gia đình bất hịa…
- Thiếu các khu vui chơi, giải trí cơng cộng thích hợp với độ tuổi, việc
tiếp thu các nền văn hóa từ nhiều quốc gia trên thế giới thiếu kiểm soát.
- Một số trường học chưa chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh, cơ sở tổ chức Đồn trong nhà trường cịn mang tính bề nổi, chưa có
những hoạt động thu hút Đồn viên thanh niên tham gia.
- Do bản thân học sinh chưa chủ động học tập, do một số thầy cô giáo quá
nghiêm khắc sẽ làm cho học sinh bị áp lực, căng thẳng.
- Phần lớn nhiều trường học, nhiều bậc phụ huynh và ngay cả chính học
sinh đang cịn xem nhẹ vai trị của bộ môn học giáo dục công dân trong nhà
trường nên việc học cịn mang tính chất đối phó.
- Do ảnh hưởng của điều kiện hồn cảnh gia đình và tác động của môi
trường xã hội như: phim ảnh, Internet, các trị chơi game online…
3. Cơ sở lí luận của việc ứng dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực
nhằm tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào bộ mơn Giáo dục công dân.
3.1. Khái niệm kỹ năng sống:
Kỹ năng sống (KNS) là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những
nhu cầu và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
Thuật ngữ Kỹ năng sống bắt đầu xuất hiện trong nhà trường phổ thông
Việt nam từ những năm 1995-1996, thông qua dự án “ Giáo dục kỹ năng sống
để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/ AIDS dành cho thanh thiếu niên trong
và ngoài nhà trường”, do Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc ( UNICEF) phối hợp với
Bộ giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Hội Chữ thập đỏ Việt nam thực hiện.
(*) Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), kĩ năng sống là hành vi có khả
năng thích ứng và tích cực, giúp cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu
cầu và thách thức cuộc sống hàng ngày.
(*) Theo UNICEF, kỹ năng sống là cách tiếp cận giúp thay đổi hay hình
thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng và tiếp thu kiến
thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
10
(*) Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), kỹ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết gồm
các kỹ năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải
quyết vấn đề, nhận thức được hậu quả…học làm người gồm các khả năng cá
nhân như: Ứng phó với căng thẳng, kìm chế cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…học
để sống với người khác gồm cá kỹ năng xã hội: giao tiếp, thương lượng, tự
khẳng định, hợp tác làm việc theo nhóm. Học để làm gồm các kĩ năng thực hiện
công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
(*) Tài liệu giáo dục kỹ năng sống trong môn giáo dục công dân của Bộ
giáo dục và Đào tạo – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
3.3 Cơ sở thực tiễn:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và thời buổi cơ chế thị trường như hiện
nay thì việc tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy trong bộ môn giáo dục công
dân là hết sức cần cấp bách, vì lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng đang hình
thành những giá trị sống với những ước mơ, hồi bão ln tìm tịi khám phá…
nhưng lại thiếu hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội, thiếu kỹ năng sống nên dễ
bị lơi kéo, kích động có những hành vi tiêu cực, bạo lực, sống ích kỉ, thực dụng
và rơi vào phạm tội: đua xe, nghiện hút, chích ma túy, khơng vâng lời cha mẹ,
thậm chí hành hung cha mẹ…
Vì vậy, việc tích hợp kỹ năng sống vào mơn giáo dục cơng dân chính là
rèn luyện hành vi có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và tổ quốc.
Giúp các em có khả năng ứng phó tích cực, trước tình huống của cuộc sống
nhằm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với những người xung quanh, chủ động an
tồn, hài hịa và lịch sự.
Phương pháp học kỹ năng sống : thảo luận nhóm, tự suy nghĩ và đưa ra
quyết định, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng nhận thức biết tự trọng và tự tin
vào bản thân, biết ứng phó với căng thẳng và kiềm chế cảm xúc, biết giải quyết
những mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, đóng vai, trị chơi, thư giản…là phù
hợp với đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường; hơn thế nữa mục
11
đích cao nhất của việc tích hợp vào bộ mơn là làm thế giúp người học thay đổi
hành vi theo hướng tích cực vào mơi trường sống “thật” một cách có hiệu quả.
3.4 Những ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng phương pháp dạy
học tích cực nhằm tích hợp kỹ năng sống vào bộ môn giáo dục công dân.
- Ưu điểm:
+ Giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực để lồng
ghép (cần nói thêm là chọn một vài phương pháp phù hợp với nội dung kiến
thức cần tích hợp cho từng đề mục chứ không phải tất cả phương pháp đều áp
dụng vào đó).
+ Giáo viên dễ dàng đưa vào tích hợp nhiều kỹ năng sống với những vấn
đề nóng bỏng mà xã hội đang quan tâm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên không
nên ôm đồm quá nhiều nội dung vào 1 tiết học sẽ làm cho người tiếp nhận gặp
khó khăn và ảnh hưởng đến nội dung chính của bài học.
+ Người trình bày chủ động về thời gian trình bày theo nội dung chuẩn bị
trước hoặc yêu cầu học sinh chuẩn bị.
+ Do đặc thù của bộ môn giáo dục công dân nên việc giáo dục kỹ năng
sống là gần gũi, thích hợp từ trong chương trình bày dạy gắn liền với liên kết
thực tế cuộc sống.
- Hạn chế:
+ Đây là chương trình mời được triển khai vào tháng 11 năm 2010 nên
việc vận dụng tích hợp vào mục nào của bài dạy, sử dụng phương pháp gì cho
phù hợp thì vấn đề lung túng là không thể tránh khỏi.
+ Thời gian tích hợp kỹ năng sống khoảng 5->8 phút, giáo viên dễ bị cuốn
theo những vấn đề học sinh quan tâm về kỹ năng sống của mình ở một số trường
hợp cụ thể nhất định
+ Một số giáo viên kỹ năng sống của bản thân chưa nhiều.
+ Học sinh chỉ thích ứng tích cực với mơn học này nhưng chưa có được
liên hệ với những mơn học khác và ngồi xã hội.
3.5 Cách tiến hành:
12
Giáo viên có thể sử nhiều phương pháp khác nhau làm thế nào chọn
phương pháp phù hợp để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Căn cứ vào nội dung nội dung cụ thể của từng đề mục lồng ghép, giáo
viên có thể chuẩn bị tài liệu và nội dung cần tích hợp, có thể giao câu hỏi hoặc
những nội dung liên quan cho học sinh về nhà chuẩn bị trước (đóng vai, thuyết
trình, thảo luận nhóm...)
Chuẩn bị những vật dụng và tài liệu liên quan như: ( bảng phụ, bài báo,
giấy ruki, bút lông, phim ảnh minh họa…)
3.6 Yêu cầu sư phạm:
Có nhiều phương pháp để có thể vận dụng vào trong tích hợp kỹ năng
sống của từng bài, từng đề mục khác nhau, cho nên giáo viên cần vận dụng một
cách sáng tạo tùy theo chủ đề đó.
Quá trình tích hợp cần diễn ra một cách nhẹ nhàng vừa khơng gây áp lực
cho học sinh vừa có thể truyền tải được kỹ năng sống mà không làm mất đi nội
dung chính của bài dạy.
CHƯƠNG II:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
NHẰM TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO BỘ MÔN GDCD 10
Lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng là lứa tuổi đang có sự thay đổi
mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần, chính vì có sự biến động về mặt tâm- sinh- lý
nên các em rất năng động, ln tìm tịi, khám phá, có những ước mơ và hồi bão
lớn. Vì thế, độ tuổi này có những em rất ngoan biết vượt lên số phận, nhưng có
những học sinh rất khó dạy bảo, khơng muốn ai chỉ trích nói đến mình ngay cả
lời dạy bảo của cha mẹ, học sinh cho là lạc hậu, ln đề cao cái tơi của mình rất
lớn, quan niệm sống bng thả, tầm thường, lố bịch, ln đua địi học theo
những thị hiếu mà các em cho rằng đó là cái mốt, thời thượng của một xã hội
phát triển đem lại. Khơng phủ nhận hồn tồn cách tiếp cận của học sinh hiện
nay, tuy nhiên các em cần thích ứng như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực xã
hội, văn hóa đó phải được mọi người cơng nhận và hưởng ứng.
13
Trước những hành vi phản ứng tích cực và tiêu cực của lứa tuổi này
chứng tỏ các em thiếu kiến thức xã hội nên dễ dàng bị lôi kéo vào những lối
sống thiếu lành mạnh, thói quen sống bng thả chính là ngun nhân đem đến
hậu quả khó lường. Nói cách khác là các em thiếu kỹ năng sống trước những
thách thức và thay đổi nhanh chóng của hệ quả xã hội phát triển để lại hiện nay.
Bài 1: Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng:
Chọn mục 1- b/ Thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. ( Để tích
hợp)
- Phương pháp:
+ Đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp tìm hiểu qua mẫu truyện và giải quyết bài tập.
- Bước 1: Cho đại diện học sinh đứng dậy đọc mẫu truyện “ Thần trụ trời”
- Bước 2: giáo viên đặt câu hỏi từ mẫu truyện trên.
? Em hãy chỉ ra đâu là yếu tố duy vật và duy tâm trong truyện thần thoại “
Thần trụ trời”?
- Bước 3: Học sinh cả lớp suy nghĩ trả lời, cả lớp bổ sung, nhận xét.
- Giáo viên: Nhận xét, kết luận.
=> Kỹ năng sống: Thông qua câu truyện trên, giáo viên chỉ cho học sinh
biết nhận xét, hiểu được thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, từ đó
cảm nhận được thế giới quan duy vật là cần thiết, giúp hỗ trợ các môn học khác.
- Giáo viên cho học sinh làm bài tập để nhấn mạnh thêm yếu tố duy vật.
Bài tập: ( Bài tập 4, phần câu hỏi và bài tập, trang 11- Sách giáo khoa
Giáo dục công dân lớp 10): Em hãy giải thích câu tục ngữ sau: “ Sống chết có
mệnh, giàu sang do trời” ( Khổng Tử)
- Sau khi học sinh đưa ra những ý kiến khác nhau, giáo viên chốt lại đặt
câu hỏi cho học sinh làm rõ vấn đề. Con người sinh ra ai không muốn giàu sang,
sung túc mà không cần lao động? Giáo dục kỹ năng sống ở đây là cho học sinh
thấy được muốn giàu có phải lao động sản xuất, làm ra của cải vật chất phục vụ
cho bản thân, gia đình và xã hội. Biết yêu lao động, biết quý trọng công sức lao
động. Biết đấu tranh chống lại tư tưởng duy tâm làm cho con người lười biếng
14
chỉ biết hưởng thụ mà không lao động, tránh tư tưởng , “ Ngồi mát, ăn bát
vàng”, “ Ngồi gốc cây chờ sung rụng”.
Bài 3: Vận động là khuynh hướng tất yếu của thế giới vật chất.
Chọn mục 2- Thế giới vật chất luôn luôn phát triển.
Ở mục 1 , giáo viên đã làm rõ các hình thức vận động cơ bản của sự vật,
hiện tượng. Mục này giáo viên làm rõ thế nào là phát triển trong tự nhên, xã hội
và tư duy.
- Phương pháp: kích thích tư duy, động não.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên: cho học sinh lấy ví dụ về vận động của sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy?
- Sau khi học sinh lấy ví dụ xong, giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh suy
nghĩ, động não.
? Từ các hình thức vận động trên, những vận động nào nói lên sự phát
triển?
? Vận động và phát triển có mối quan hệ với nhau không?
- Học sinh: cả lớp suy nghĩ, phát biểu
- Giáo viên: liệt kê tất cả các ý kiến của học sinh lên bảng phụ.
- Cả lớp bổ sung, nhận xét.
- Giáo viên: kết luận.
Vận động và phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, bất kì sự vật,
hiện tượng nào cũng vận động, khơng có vận động thì khơng thể phát triển được.
Vậy có ý kiến cho rằng mọi sự vận động đều được xem là phát triển đúng
hay sai?
Giáo viên đặt thêm câu hỏi để tích hợp kỹ năng sống.
? Để lên được lớp 10, các em có trải qua q trình vận động khơng? Vậy
có được xem là phát triển? Từ lớp 1->9 có lúc nào gặp khó khăn, thụt lùi?
? Em quan sát cây nhãn ở trường (ở nhà), chăm sóc từ nhỏ, đến lớn rồi ra
hoa, kết trái? Sự lớn lên của cây có được gọi là sự vận động và phát triển khơng?
Vì sao?
15
=> Từ những câu hỏi nêu trên giáo viên chỉ cho học sinh hiểu thế nào là
phát triển, từ đó giúp học sinh có kỹ năng và thái độ ln phải vận động không
ngừng để đem lại kết quả cao nhất trong học tập, lao động…biết vận động theo
chiều hướng đi lên (mặc dù có lúc khúc khuỷu, quanh co) nhưng với ý chí vươn
lên nhất định đến một lúc nào đó ta có thể làm giàu cho bản thân, gia đình và xã
hội.
Kỹ năng sống: loại bỏ tư tưởng bảo thủ không biết cầu tiến, lười vận
động…
Vận động trong học tập bằng cách làm bài và học bài đầy đủ trước khi
đến lớp.
Sắp xếp thời gian học tập, giải lao hợp lí.
Thực hiện tốt nội quy trường, lớp.
Vận động thể dục thể thao lành mạnh, không tham gia vào những trị chơi
vơ bổ để có sức khỏe tốt phục vụ cho việc học. tập.
Vận động trong gia đình: phụ giúp cha mẹ lúc rảnh rỗi bằng những hành
động cụ thể: nấu cơm, giặt đồ, giúp đỡ em học tập…
Vận động xã hội bằng cách: tích cực tham gia các hoạt động trong nhà
trường, đoàn trường, và các hoạt động xã hội khác. ( Hiến máu cứu người, ủng
hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, giúp đỡ bạn khi gặp hoạn nạn, khó khăn…)
Bài 10: Quan niệm về đạo đức.
Tích hợp mục 1-b/ Phân biệt giữa đạo đức, pháp luật và phong tục tập
qn.
- Phương pháp: Tình huống, đóng vai.
- Giáo viên: Giao tình huống cho học sinh khi kết thúc tiết dạy bài 9,
chuẩn bị 4 nội dung giao về cho 4 tổ thực hiện ( Giáo viên gợi ý trước nội dung
nào học sinh thắc mắc). Khi dạy bài 10 cho học sinh tiến hành tại lớp như sau.
* Cách tiến hành:
Tổ 1: Đóng vai ( Giúp người gặp hoạn nạn, gặp khó khăn khi qua đường:
người già, người tàn tật, trẻ em…)
16
Tổ 2: Đóng vai ( Hành vi vi phạm đạo đức: Con bất hiếu với ơng bà cha
mẹ…)
Tổ 3: Đóng vai ( Hành vi vi phạm pháp luật của học sinh hiện nay: An
tồn giao thơng, bạo lực trong học đường…)
Tổ 4: Đóng vai ( Hành vi mê tín dị đoan, bói tốn…)
- Học sinh: 4 tổ lên thực hiện, cả lớp trao đổi, bổ sung nhận xét.
- Giáo viên: nhận xét, kết luận và rút ra kỹ năng sống cho học sinh qua
phương pháp đóng vai trên.
Qua đó giúp học sinh nhận biết và hiểu đạo đức, pháp luật và phong tục
tập quán, các em có thể tự rút ra điểm giống nhau đều là điều chỉnh hành vi của
con người cho phù hợp với cộng đồng và xã hội. Từ đó, điều chỉnh hành vi của
bản thân theo hướng tích cực:
Kỹ năng tự tin thể hiện mình trước tập thể, học sinh có thể bọc lộ khả
năng cá tính của mình thơng qua vai diễn.
Biết giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn, biết quan tâm chia sẻ với mọi
người xung quanh một cách tự nguyện. ( Giúp bạn trong lớp nhà có hồn cảnh
đặc biệt khó khăn, giúp người khi gặp hoạn nạn, nhường ghế cho người phụ nữ
mang thai khi đi xe bus từ nhà tới trường…).
Có khả năng tự đánh giá năng lực của bản thân làm sao cho phù hợp với
cộng đồng, xã hội. Biết được cái nào cần thực hiện, việc gì nên tránh và hướng
dẫn mọi người không vi phạm đạo đức, pháp luật và phong tục tập quán tốt đẹp.
Có ý thức giữ gìn phong tục tập quán tốt đẹp, đấu tranh loại bỏ những thói
hư tật xấu trong bản thân: Đi xe gắn máy đội mũ bảo hiểm, không đèo 3, khơng
dàn hàng ngang trên đường, khơng nói tục chửi thề, không cãi lời cha mẹ… đấu
tranh loại bỏ những hủ tục: Bói tốn, cờ bạc, mê tín dị đoan: Đi lễ cầu xin được
học giỏi trong khi đó khơng chịu học bài, đi lễ cầu xin cho giầu có, nhiều của cải
nhưng lại lười lao động…
Bài 11: Nghĩa vụ.
1-a/ Khái niệm nghĩa vụ:
- Phương pháp: Động não, so sánh.
17
- Giáo viên: đưa ra bài tập tình huống cho học sinh so sánh, sau đó cho
học sinh bài tập để làm rõ khái niệm nghĩa vụ. Từ đó liên hệ nghĩa vụ của bản
thân đối với bản thân, gia đình và xã hội.
* Cách tiến hành:
- Bước 1: Em hãy so sánh điểm giống và khác nhau giữa hành động cha
mẹ nuôi con và vật nuôi ở nhà nuôi con?
- Bước 2: Đưa ra câu hỏi hoặc bài tập có tình huống cho học sinh giải
thích.
Bài tập: Trong xã hội hiện nay có một số người sống theo kiểu “ Đèn nhà
ai, nhà ấy rạng”. Em có suy nghĩ và nhận xét gì? Em có đồng tình với kiểu sống
của một số người như trên khơng? Vì sao?
- Bước 4: Nhận xét, kết luận và rút ra kỹ năng sống cho học sinh.
=>Kỹ năng sống :
Giúp học sinh hiểu được nghĩa vụ là gì, xác định được nghĩa vụ của bản
thân cần phải làm gì?
Trong gia đình làm con, học sinh phải biết nghĩa vụ kính trọng, vâng lời
ơng bà cha mẹ, chăm sóc và phụng dưỡng khi cha mẹ già yếu, biết phụ giúp gia
đình những cơng việc phù hợp với bản thân, sức khỏe…
Trong nhà trường, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người học sinh như:
đóng học phí, làm bài và học bài trước khi đến lớp, biết vâng lời thầy cô, thực
hiện tốt nội quy nhà trường, lớp học…
Ngồi xã hội, có ý thức tham gia những hoạt động chung của xã hội như:
bảo vệ mơi trường, tham gia tình nguyện mùa hè xanh, giúp đỡ những người
không may mắn trong cuộc sống, tham gia nghĩa vụ quân sự khi đủ tuổi, vận
động những người xung quanh cùng thực hiện để góp phần xây dựng một xã hội
văn minh, phát triển.
Qua những bài tập và ví dụ trên sẽ giúp học sinh có kỹ năng phân tích,
đánh giá nghĩa vụ của bản thân vận dụng vào trong thực tế cuộc sống. Rèn luyện
ý thức và thói quen sống tích cực, biết quan tâm đến người khác và cộng đồng.
Phê phán những người thiếu ý thức nghĩa vụ đối với bản thân, gia đình và xã hội
18
như quan điểm sống : “ Đèn nhà ai, nhà ấy rạng”, lối sống ích kỷ. Đấu tranh với
tư tưởng né tránh trong xã hội, thiếu trách nhiệm và không quan tâm tới những
người xung quanh, như: thấy người gặp nạn không giúp đỡ, thấy người khác
vứt xác động vật ra đường không tố cáo, không nhường chỗ ngồi cho phụ nữ
mang thai và người già, người tàn tật…Từ đó, mỗi cá nhân học sinh có thể tự
giác thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, ngoài ra còn tạo ra sức lan
tỏa , tuyên truyền nêu gương cho những người khác cùng thực hiện theo và nhân
rộng hơn trong cộng đồng xã hội.
Tích hợp kỹ năng sống vào giảng dạy một số bài cụ thể trong môn giáo dục
công dân lớp 10, qua bài kiểm tra đã thu được kết quả cụ thể sau:
Khi chưa tích hợp kỹ năng sống vào bài dạy:
Liên hệ và ứng dụng
Stt
Lớp
Sĩ số
Không liên hệ và ứng
được vào thực tiễn
dụng được vào thực
Số lượng
1
10A1
46
32/46
2
10A2
48
32/48
3
10A3
47
33/47
4
10A4
46
30/46
5
10A5
46
35/46
6
10A6
47
32/47
7
10A7
46
29/46
8
10A8
47
31/47
9
10A9
47
30/47
10
10A10
45
28/45
11
10A11
47
29/47
Sau khi tích hợp kỹ năng sống vào bài dạy:
Tỉ lệ %
69,6%
66,7%
70,2%
65,2%
76,1%
68,1%
63,1%
65,9%
63,9%
62,2%
61,7%
Liên hệ và ứng dụng
tiễn
Số lượng Tỉ lệ %
14/46
30,4%
16/48
33,3%
14/47
29,8%
16/46
34,8%
11/46
23,9%
15/47
31,9%
17/46
36,9%
16/47
34,1%
17/47
36,1%
17/45
37,8%
18/47
38,3%
Không liên hệ và ứng
19
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Lớp
10A1
10A2
10A3
10A4
10A5
10A6
10A7
10A8
10A9
10A10
10A11
Sĩ số
46
48
47
46
46
47
46
47
47
45
47
được vào thực tiễn
Số lượng
45/46
45/48
45/47
44/46
45/46
45/47
44/47
45/47
44/47
43/45
44/47
Tỉ lệ %
97,8%
93,4%
95,7%
95,7%
97,8%
95,7%
93,6%
95,7%
93,6%
95,6%
93,6%
dụng được vào thực
tiễn
Số lượng Tỉ lệ %
1/46
2,2%
3/48
6,6%
2/47
4,3%
2/46
4,3%
1/46
2,2%
2/47
4,3%
3/47
6,4%
2/47
4,3%
3/47
6,4%
2/45
4,4%
3/47
6,4%
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ HIỆU QUẢ KHI ỨNG DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM TÍCH HỢP KỸ NĂNG SỐNG VÀO
GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI TRONG BỘ MÔN GDCD LỚP 10
Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy bộ mơn, giúp học sinh có cách nhìn
nhận đúng đắn về vai trị của bộ mơn giáo dục công dân trong nhà trường. Giáo
viên phải là người có lịng nhiệt huyết, biết lựa chọn và kết hợp tốt các phương
pháp dạy học và kiểm tra đánh giá…có nhiều phương pháp, trong đó có phương
pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trung học phổ thông. Việc tích hợp kĩ
năng sống vào trong chương trình phải diễn ra một cách nhẹ nhàng, thoải mái
tránh gây áp lực về tâm lí, điểm số thì việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh
mới đem lại hiệu quả thiết thực.
Kỹ năng sống không phải là bộ môn học thuộc bà là có thể vượt qua mà
địi hỏi cả một quá trình, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hiện nay là
hết sức cần thiết đòi hỏi phải có một mơi trường thật mới có thể trải nghiệm. Gia
đình chính là mơi trường thật thu nhỏ, bên cạnh đó cịn có trường học và xã hội
để khi trải nghiệm qua các em có thể rút ra bài học cho cá nhân, biết tự mình lựa
chọn dựa trên tích cách, đặc điểm và phản ứng của từng người. Nếu chỉ vận
dụng lí thuyết thì chỉ như nét chấm phá mờ nhạt trong tư duy của các em, học
20
sinh chỉ có thể phản ứng tích cực với bộ mơn này nhưng chưa có sự tác động
đến bộ mơn khác cũng như ngoài xã hội.
Khi truyền đạt nội dung bài học, người dạy phải làm thế nào vận dụng
những kiến thức biến thành kỹ năng sống về những tình huống xảy ra trong cuộc
sống, giúp học sinh tìm cách đối diện và đương đầu với những khó khăn, biết
cách tự mình vượt qua cũng như biết cách phịng chống những mâu thuẫn, xung
đột bạo lực giữa người với người.
Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức của người học, bản than người dạy cũng
không ngừng trao đồi đạo đức, lối sống vì hình ảnh của giáo viên cũng là nhân
tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kỹ năng sống cho học sinh.
Vấn đề quan trọng không kém để hình thành kỹ năng sống cho học sinh là
mối liên hệ giữa phụ huynh với nhà trường, mối liên hệ giữa thầy và trò là mối
liên hệ cần thiết trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, vì chỉ có giáo
viên nào thì biết học sinh của lớp đó, phụ huynh chỉ biết giáo viên chủ nhiệm
của con mình như vậy sẽ thiếu đi mơi trường trao đổi xung quanh vì thế kỹ năng
sống của học sinh cũng bị thu hẹp.
Thơng qua chương trình giáo dục cơng dân giáo viên có thể tích hợp kỹ
năng sống tùy vào nội dung và kiểu bài khác nhau, có thể lựa chọn nhiều
phương pháp để tích hợp kỹ năng sống phù hợp nhằm thu hút sự tị mị, hiếu kì,
kích thích sự hứng thú của người học. Giáo viên chú ý hệ thống câu hỏi không
quá dài, không quá ngắn cần nhiều câu hỏi gợi mở và liên hệ thực tiễn gần gũi
với cuộc sống, sinh hoạt và học tập của các em. Thơng qua đó sẽ làm thay đổi
nhận thức của học sinh về môn học đồng thời học sinh sẽ có thái độ tích cực hơn
trong học tập và trong cuộc sống.
21
C. PHẦN KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ.
* KẾT LUẬN:
Như đã trình bày ở trên, nếu như nhìn vào điểm số sẽ thấy rõ kết quả của
môn học giáo dục công dân rất cao, nếu đánh giá về hành vi và thái độ của học
sinh về kỹ năng sống vận dụng vào cuộc sống thì chưa đạt kết quả như mong
muốn. Thời gian gần đây dư luận xã hội lên án mạnh mẽ về hành vi bạo lực
trong học sinh , mọi người không khỏi ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh hờ hững
của những người xung quanh đứng nhìn. Câu chuyện về về giáo dục đạo đức lối
sống cho học sinh cho tới nay không phải là vấn đề mới đưa vào. Tuy nhiên việc
thiếu ý thức và cách hành xử của một bộ phận học sinh nêu trên phải làm cho
những ngành giáo dục phải có cách nhìn nhận mới hơn trong một xã hội đầy
năng động nhưng không kém phần phức tạp như hiện nay. Điều đó sẽ đặt ra
trách nhiệm nặng nề hơn cho những người làm công tác giáo dục mà người thầy
là con thuyền định hướng cho cả một thế hệ trong tương lai.
Nhìn nhận một cách thực tế hiện nay học sinh thiếu kỹ năng sống một
cách báo động, học sinh thiếu kiến thức, suy nghĩ nông cạn, lối sống thực dụng,
thiếu hiểu biết để đối phó với những nảy sinh diễn ra hằng ngày trong cuộc
sống. Muốn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần nhiều yếu tố phối hợp như:
gia đình, nhà trường, xã hội…mà cốt lõi bản chất của từng cá nhân học sinh,
trong đó:
Gia đình phải giáo dục tình thương u, định hướng cho con mình tránh
xa những biểu hiện tiêu cực trong xã hội, biết lắng nghe khi con cần chia sẻ,
giúp đỡ…
Nhà trường cần quan tâm rèn luyện kỹ năng sống ngồi dạy chữ, ln
quan tâm đến đời sống tâm tư nguyện vọng của các em để có hướng giáo dục kỹ
năng sống cho phù hợp.
Việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống một mặt hướng người học đáp ứng
nhu cầu, tạo ra năng lực đáp ứng trước những thử thách của cuộc sống và nâng
cao chất lượng cuộc sống cá nhân. Mặt khác tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào
bộ môn giáo dục công dân sẽ tạo ra sự tương tác, đề cao tính chủ động của học
22
góp phần tích cực tới mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, giữa thầy và trị…
Qua đó các em sẽ thấy mình cùng được tham gia giải quyết các vấn đề liên quan
đến cuộc sống của bản thân, các em sẽ biểu hiện tích cực hơn trong lao động,
học tập góp phần nâng cao chất lượng đạo đức và kỹ năng sống của các em ngày
càng được hoàn thiện.
Có nhiều phương pháp tích cực trong giảng dạy, kỹ năng sống cũng là
một phương pháp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực trong học tập. Tuy
nhiên việc tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào bộ môn giáo dục công dân không
phải là để giải quyết tất cả những tồn tại nêu trên, tuy nhiên sự chủ động tích
hợp vào bộ mơn này sẽ phần nào hạn chế tính tiêu cực, cùng với giáo dục tồn
diện trong nhà trường sẽ giúp cho học sinh có những kỹ năng sống vững vàng
khi bước đời.
* KIẾN NGHỊ:
Cần tăng cường thảo luận chuyên đề về giáo dục kỹ năng sống cho giáo
viên có thể chia sẽ trao đổi kinh nghiệm.
Mở các lớp tập huấn về giáo dục kỹ năng sống cho bộ môn giáo dục công
dân.
Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Xuất phát từ thực tiễn trên, với tâm huyết nghề nghiệp, trong quá trình
giảng dạy bản thân tơi ln tìm tịi, học hỏi vận dụng những phương pháp phù
hợp nhằm giúp học sinh hứng thú với bộ mơn từ đó học sinh có thể tiếp thu bài
học một cách tốt nhất. Vấn đề quan trọng làm thế nào từ khái niệm, lí thuyết
giáo viên áp dụng tích hợp giáo dục kỹ năng sống vào thực tiễn. Tích hợp kỹ
năng sống mới được lồng ghép vào bộ mơn giáo dục cơng dân, trong q trình
giảng dạy bản thân tơi gặp khơng ít khó khăn vì kinh nghiệm bản thân cịn hạn
chế. Vì vậy những thiếu sót là khơng thể tránh khỏi, tuy nhiên với một người
đứng lớp đặc biệt môn giáo dục công dân chưa được người học và xã hội quan
tâm đúng mức thì việc giúp học sinh có kỹ năng sống là vấn đề cần thiết hiện
23
nay nhằm góp phần đào tạo con người phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hóahiện đại hóa đất nước.
D. LỜI CẢM ƠN
Đề tài này đúc kết từ những trải nghiệm của bản thân, do đó khơng thể
tránh khỏi những hạn chế. Tơi rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của
đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, đặc biệt là những thơng tin phản
hồi từ phía học sinh để đề tài này hồn thiện hơn.
Tơi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn,
bạn bè đồng nghiệp và các học sinh trong thời gian qua đã nhiệt tình quan tâm,
hưởng ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
24
XÁC NHẬN
Thanh hóa, ngày 16 tháng 5 năm 2013
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết
Đỗ Thị Phương
25