SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
Trường Trung Học Phổ Thông Đông Sơn 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh hứng thú trong
học tập môn GDCD cho học sinh lớp 12 THPT
Người thực hiện: Th.s Trần Thị Hồng
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Tổ Sử - Địa – GDCD
Trường THPT Đông sơn 1
Thanh Hoá, Năm học 2011 - 2012
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1
Bộ môn giáo dục công dân ở trường THPT có vai trò và ý nghĩa rất
quan trọng. Đó là một trong những môn học góp phần tạo nên nội dung dạy
học, giáo dục trên toàn diện. Việc hình thành và giáo dục thường xuyên
phương pháp luận khoa học, đạo đức và pháp luật cho học sinh do tất cả các
môn học, các hình thức, giáo dục của nhà trường thực hiện. Song, chỉ có môn
giáo dục công dân mới có thể giáo dục trực tiếp cho học sinh những tri thức
theo một hệ thống xác định, toàn diện. Đặc biệt, môn giáo dục công dân ở
lớp 12 chủ yếu giúp học sinh hiểu về pháp luật, sống theo pháp luật, biết
được những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Vì vậy, kiến thức môn giáo dục công dân ở lớp 12 tương đối
khô khan, nhiều khái niệm, khó học, khó nhớ.
Mặt khác, thực tế dạy học môn giáo dục công dân hiện nay cho thấy,
phương pháp dạy học chủ yếu là lối truyền thụ một chiều, chưa phát huy
được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Với phương pháp
dạy học như vậy, sẽ không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ môn học và làm
giảm sút vị trí của môn học.
Từ những yêu cầu và thực trạng trên đã thôi thúc tôi cần phải có sự thay
đổi về phương pháp dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh, và đó
cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh
hứng thú trong học tập môn GDCD cho học sinh lớp 12
THPT”.
2
II. NỘI DUNG.
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ TRONG
HỌC TẬP.
1.1. Phương pháp tạo hứng thú trong học tập là gì?
Hứng thú trong học tập phải là điều đầu tiên mà giáo viên cần đem tới
cho học sinh trong quá trình dẫn dắt học sinh tìm hiểu những kiến thức bổ
ích. Tạo hứng thú trong học tập là tập hợp nhiều phương pháp nhằm tạo ra sự
hưng phấn trong tư duy, trong nhận thức theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học.
1.2. Đặc điểm của phương pháp tạo hứng thú trong học tập.
- Phương pháp tạo hứng thú trong học tập là một hệ thống các phương pháp
trong đó giáo viên dẫn dắt, tạo được sự hứng khởi ở người học, có tác dụng
tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học.
- Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có những nét cơ bản là tạo cho
người học tự tìm tòi khoa học mà trong đó tư duy, độc lập sáng tạo vừa là
phương tiện vừa là mục đích của quá trình dạy học.
- Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có yêu cầu cao đối với người dạy
và người học, giúp học sinh nắm chắc kiến thức, nhớ lâu.
- Phương pháp tạo hứng thú trong học tập có thể áp dụng rộng rãi cho nhiều
môn học, nhiều dạng bài học ở những mức độ khác nhau.
1.3. Một số phương pháp tạo hứng thú trong học tập.
Tạo hứng thú trong học tập là một hệ thống các phương pháp nhằm tạo
sự hưng phấn, phấn khích trong tư duy để từ đó phát huy tính tích cực, tự
giác, độc lập và sáng tạo trong học tập của học sinh. Trong khuôn khổ sáng
kiến kinh nghiệm này tôi không thể nêu lên tất cả các phương pháp, mà chỉ
nêu một số phương pháp đặc trưng nhất, phù hợp nhất với giảng dạy môn
giáo dục công dân lớp 12, đó là các phương pháp sau:
- Sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động.
- Kể những câu chuyện gần gũi trong cuộc sống.
- Phương pháp xử lý tình huống kết hợp với tiểu phẩm.
3
1.4. Vị trí, vai trò của phương pháp tạo hứng thú trong học tập trong
dạy học giáo dục công dân lớp 12.
- Vị trí và nhiệm vụ của môn giáo dục công dân lớp 12.
+ Vị trí: Cùng với môn học khác, môn giáo dục công dân lớp 12 góp phần
đào tạo ra những con người lao động mới, có tri thức khoa học, có đạo đức,
có năng lực hoạt động thực tiễn, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, có ý thức
trách nhiệm đối với cộng đồng, với gia đình và với chính bản thân mình.
Môn giáo dục công dân lớp 12 góp phần hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện cho học sinh.
+ Nhiệm vụ: Môn giáo dục công dân lớp 12 có nhiệm vụ giáo dục trực tiếp
cho học sinh kiến thúc về pháp luật một cách tương đối có hệ thống, toàn
diện, giúp học sinh hiểu rõ bản chất và vai trò của pháp luật đối với sự phát
triển của công dân, đất nước và nhân loại; hiểu rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 12 ở trường THPT.
Quá trình dạy học về bản chất là quá trình nhận thức của học sinh. Quá
trình nhận thức của học sinh về cơ bản diễn ra theo quy luật nhận thức là: “
Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực
khách quan”. ( V.I Lênin, toàn tập, tập 29 trang 152 – 153)
Đối với học sinh lớp 12 bậc PTTH ở vào lứa tuổi 17, 18 các em đã
tương đối trưởng thành về mặt nhận thức. Đặc điểm tâm sinh lý của các em
là thích những gì mới có liên hệ thực tế, kiến thức được tiếp thu phải mang
đầy màu sắc và có tính lung linh ước mơ. Bên cạnh đó, hoạt động lại phải tạo
được môi trường để các em tự khẳng định mình. Đặc trưng nổi bật của các
em là: yếu tố về niềm tin, ý thức về đạo đức không chỉ thể hiện ở khối lượng
kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu ở tính tích cực độc lập tư duy, thái độ
đối với công việc, với những định hướng giá trị tình cảm, những hứng thú
học tập của học sinh. Vì vậy, đối với học sinh lớp 12 ở trường THPT giáo
viên cần phát huy tính tích cực nhận thức, tránh áp đặt trong giáo dục. Bởi vì,
4
đối với các em, không dễ gì các em chấp nhận ngay những lời khẳng định
của Thầy mà các em thường đặt ra câu hỏi: nó có thật đúng hay không? Nếu
đúng thì đúng ở điểm nào? Vì ngoài học ở trường ra, các em đã có sự
nhận thức trong cuộc sống thực tế xung quanh mình. Nếu giáo viên buộc học
sinh chấp nhận ngay những điều mà mình giáo dục qua nội dung bài giảng
thì tức là bắt học sinh tiếp thu một cách thụ động, giờ học sẽ tẻ nhạt, khô
cứng, không gây được hứng thú cho học sinh.
- Vai trò của phương pháp tạo hứng thú trong việc dạy học môn giáo dục
công dân lớp 12.
Tạo hứng thú trong học tập sẽ giúp người học tham gia vào các hoạt
động học tập ở mức độ cao. Người học không học thụ động, chỉ nghe thầy
giảng và truyền đạt kiến thức mà học tập tích cực bằng hành động của chính
mình.
Những trí thức trong môn giáo dục công dân lớp 12 chủ yếu là những
nội dung cơ bản của pháp luật nên rất khô khan, khó nhớ, khó dung nạp. Vì
vậy, tạo hứng thú trong học tập sẽ giúp học sinh đỡ mệt mỏi, nhàm chán, học
sinh sẽ phấn khởi tham gia vào hoạt động như là một quá trình tự học, tự đào
tạo.
Nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa mức độ lưu giữ thông tin của
học sinh với các phương pháp dạy học như sau:
Bảng 1.1. Mối quan hệ giữa mức độ lưu giữ thông tin của học sinh đối
với các phương pháp dạy học:
Phương pháp Độ lưu trữ thông tin
Nghe thuyết trình 5%
Đọc 10%
Nghe nhìn 20%
Trình diễn 30%
Nhóm thảo luận 50%
Thực hành bằng cách làm thực tế 75%
Xử lý tình huống kết hợp với tiểu phẩm 90%
5
Nguồn: Theo nghiên cứu được tiến hành tại phòng đào tạo quốc gia (54-129)
Như vậy: Những phương pháp như thực hành bằng cách làm thực tế,
đặc biệt là phương pháp để học sinh tự xử lý tình huống sẽ rất có hiệu quả
với sự lưu trữ thông tin của học sinh.
Tạo hứng thú trong học tập môn giáo dục công dân lớp 12 sẽ khuyến
khích lòng say mê, tính tự giác, chủ động trong học tập của người học, giúp
người học phát triển các kỹ năng tư duy và kỹ năng giao tiếp cơ bản, đó cũng
là những kỹ năng cần thiết để người học trở thành người lao động có hiệu
quả, có khả năng học suốt đời trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
2. THỰC TRẠNG VỀ DẠY VÀ HỌC MÔN GDCD LỚP 12 .
2.1. Thực trạng về học tập môn giáo dục công dân lớp 12.
Qua kết quả kiểm tra, thi cử:
Kết quả điểm tổng kết kỳ I năm học 2011 – 2012 của tổng số 247 em
học sinh khối 12 đạt được như sau:
Bảng 2.1:
Xếp loại môn GDCD học kỳ I năm học 2011 – 2012 của 6 lớp 12.
Xếp loại Tiêu chuẩn phân loại Số lượng học sinh Tỉ lệ %
Loại giỏi Từ 8.0 trở lên 3 1,2
Loại khá Từ 6.5 đến 7.9 150 60,7
Loại trung bình Từ 5.0 đến 6.4 89 36,0
Loại yếu kém Dưới 5.0 5 2,0
Qua bảng xếp loại học tập môn giáo dục công dân ở lớp 12 ở Trường
THPT Đông Sơn 1 ta thấy:
- Số học sinh đạt loại giỏi trong học tập môn giáo dục công dân rất ít chỉ có
1,2%.
- Số học sinh xếp loại trung bình môn giáo dục công dân cò tương đối nhiều,
chiếm 36%
- Đặc biệt số học sinh xếp loại yếu, kém trong môn giáo dục công dân vẫn
còn, chiếm 2%.
6
- Mức độ hứng thú học tập môn giáo dục công dân.
Bảng 2.2: Điều tra mức độ hứng thú học tập môn GDCD
Số học HS
được điều
tra
Có thích học môn GDCD Không thích học môn GDCD
Không
trả lời
Vì
môn
học
bổ
ích,
cần
thiết
Vì thầy
giảng
rất hấp
dẫn
Lí
do
khác
Cộng tỉ
lệ
(%)
Vì
khó
học,
khó
nhớ
Vì thầy
giảng
không
hấp
dẫn
Lí
do
khác
Cộng tỉ
lệ
(%)
Lớp 12A7:
40 HS
10 5 0 15=37,5 20 5 0 25= 62,5
Lớp 12A8:
42 HS 11 4 1 16=38 21 3 2 26= 62
Lớp 12A9:
39 HS 13 3 0 16 =41 15 3 5 23 =59
Lớp12A10:
40 HS 14 4 0 18 =45 16 4 2 22 =55
Lớp12A11:
37 HS 12 2 0 14 =37,8 14 3 6 23 = 62,2
Lớp12A12:
49 HS 13 4 1 18=36,7 20 4 7 31 =63,3
Tổng:247 97 = 39% 150 = 60,7%
Qua kết quả điều tra, chúng ta nhận thấy:
Có 39% học sinh cảm thấy thích học môn giáo dục công dân. Trong số
này có 22% số học sinh thích học môn GDCD vì lí do giáo viên giảng bài
hấp dẫn.
Có 60,7% số học sinh không thích học môn GDCD . Trong số này có
22/150 = 14,6% cho rằng vì giáo viên giảng bài khong hấp dẫn và có
106/150 = 70% học sinh cho rằng vì môn GDCD lớp 12 khó học, khó nhớ.
7
Như vậy: Qua kết quả điều tra thu được và qua trò chuyện, tâm sự với
học sinh, tôi nhận thấy:
- Đa số học sinh chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
trong việc học tập môn GDCD, nhiều học sinh cho rằng đó chỉ là môn học
phụ, học cũng được, không học cũng được.
- Đa số học sinh còn chưa hứng thú trong việc học tập môn GDCD, chiếm
60,7%. Thậm chí còn có một số học sinh chán học môn này.
- Có hai nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng học sinh không thích học
môn GDCD là do nội dung môn học khó học, khó nhớ và do thầy giảng bài
không hấp dẫn.
Do nhận thức chưa đúng vị trí, vai trò của môn GDCD và do giáo viên
giảng bài không hấp dẫn lại thêm nội dung môn học khó học, khó nhớ dẫn
đến một thực trạng phổ biến là học sinh chưa thích học môn GDCD và do
vậy kết quả xếp loại học tập cũng chưa cao. Đa số học sinh trường THPT
Đông Sơn 1 chỉ xếp loại khá và trung bình, chiếm 96,7% số học sinh.
2.2. Thực trạng việc dạy học của giáo viên.
Đi sâu tìm hiểu về các phương pháp dạy học của giáo viên môn GDCD
tôi nhận thấy còn nhiều hạn chế sau:
Thứ nhất: Giáo viên chưa chú ý đến việc tìm hiểu thật kỹ nội dung để
từ đó lựa chọn phương pháp phù hợp. Việc lựa chọn phương pháp tùy tiện,
không có cơ sở khoa học, chưa thấm nhuần tư tưởng. Phương pháp là hình
thức vận động của nội dung việc sử dụng các phương pháp không theo một
quy trình chặt chẽ, trên cơ sở khoa học. Với nội dung có thể vận dụng.
Phương pháp dạy học tích cực như trực quan, thảo luận, xử lý tình huống, kết
hợp tiểu phẩm nhưng phần lớn giáo viên vẫn chỉ sử dụng phương pháp
thuyết trình là chủ yếu.
Thứ hai: Giáo viên chuẩn bị bài lên lớp còn sơ sài, chưa đầu tư thời
gian, công sức và tâm huyết vào khâu chuẩn bị này nên việc áp dụng các
phương pháp để tạo hứng thú cho học sinh còn chưa được thường xuyên.
Thứ ba: Qua việc dự giờ của một số giáo viên, tôi nhận thấy:
8
Về cấu trúc của giờ học, đa số giáo viên đều làm theo một khuôn mẫu,
một trình tự nhất định ( gọi là các bước lên lớp), ổn định tổ chức ( hỏi xem có
em nào vắng mặt không?), kiểm tra bài cũ ( Từ 1 đến 2 em), sau đó thầy
giảng bài mới theo trình tự nội dung sách giáo khoa, cuối cùng là củng cố,
dặn dò. Với phương pháp làm việc như vậy, làm cho học sinh khi bước vào
đầu giờ học đã biết thầy làm những gì. Đó là điều khô cứng, máy móc, làm
cho học sinh thiếu hứng thú trong học tập, vì các em không thấy điều gì mới
lạ, mà những điều mới lạ mới kích thích nhận thức, mới thu hút sự chú ý của
các em.
Những hạn chế trên đã không tạo ra được sự hứng thú trong học tập,
ảnh hưởng đến tính tích cực nhận thức của học sinh. Và do đó giảm chất
lượng học tập bộ môn.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định: Vì sao chất lượng giáo dục chưa
tốt. Đó là vì trình độ của giáo viên chưa đủ tốt để dạy tốt Ngoài ra, còn
nhiều nguyên nhân khác nhau nữa, nhưng phải thấy cái chủ yếu, cái có tác
dụng quyết định nhất vẫn là đội ngũ giáo viên chưa đủ trình độ về mọi mặt:
Kiến thức, phương pháp, kinh nghiệm và lòng nhiệt tình yêu nghê.
3. CÁCH THỰC HIỆN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD.
3.1. Sử dụng những hình ảnh trực quan sinh động.
Bước 1: Chuẩn bị.
- Giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy và các sách hướng dẫn giảng
dạy.
- Giáo viên chuẩn bị những hình ảnh trực quan sẽ đưa vào bài học cho phù
hợp với nội dung.
Để có hình ảnh, giáo viên hãy truy cập mạng Internet sưu tầm hình ảnh trên
các trang báo, liên hệ với tòa soạn báo tuổi trẻ, báo an ninh để xin hình ảnh
tư liệu. Giáo viên có thể tự chụp những hình ảnh về cuộc sống đời thường.
Bước 2: Trình diễn các hình ảnh trực quan.
- Giáo viên phải nắm chắc kỹ thuật trình diễn.
9
Nếu là tranh ảnh minh họa bằng giấy thì đơn giản hơn, nhưng với những
hình ảnh sử dụng ở máy tính thì giáo viên nắm chắc khâu kỹ thuật để trình
chiếu.
- Khi trình diễn các hình ảnh trực quan, giáo viên nên kết hợp với các câu hỏi
kèm theo để học sinh vừa quan sát vừa suy nghĩ tìm tòi kiến thức ẩn chứa
trong đó.
Bước 3: Học sinh xem hình ảnh trực quan và suy nghĩ trả lời:
- Giáo viên phải dành một khoảng thời gian nhất định để học sinh cả lớp có
thể tiếp cận được với các hình ảnh trực quan.
- Khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên hãy tỏ ra hài lòng đối với các câu trả
lời của các em và luôn luôn khen ngợi các câu trả lời đúng. Học sinh sẽ cảm
thấy tự tin hơn khi giáo viên cười hay có lời khen. Nếu câu trả lời bị sai, giáo
viên nên nêu ra lý do tại sao lại sai ( mà không vứt bỏ câu trả lời này), sau đó
đặt câu hỏi khác để đưa học sinh trở lại đúng hướng.
Bước 4: Kết luận
Giáo viên phải biết thu về những hình ảnh trực quan đúng lúc và biết kết
luận về những hình ảnh đã đưa ra, thống nhất lại nội dung (chốt lại vấn đề).
Đây là giai đoạn cuối rất quan trọng để học sinh căn cứ vào đó điều chỉnh, bổ
sung thêm kiến thức mà mình đã suy nghĩ.
3.2. Kể những câu chuyện gần gũi trong cuộc sống.
Bước 1: Chuẩn bị.
- Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy.
- Giáo viên chuẩn bị sẵn sàng những câu chuyện mà mình sẽ kể.
Những câu chuyện minh họa cho bài giảng pháp luật rất nhiều. Giáo
viên có thể sưu tầm trên mạng, trên sách báo, đặc biệt là báo tuổi trẻ, báo an
ninh. Những câu chuyện mà giáo viên được chứng kiến trong trường lớp,
trong cuộc sống.
Bước 2: Giáo viên kể chuyện minh họa cho học sinh nghe.
- Giáo viên có thể đọc một câu chuyện trong báo đã chuẩn bị hoặc tự kể bằng
ngôn ngữ của mình.
10
Ví dụ:
- Trong bài 2: Thực hiện pháp luật – SGK lớp 12 ở mục: Các loại vi phạm
pháp luật và trách nhiệm pháp lý. Giáo viên có thể kể những câu chuyện có
thật về hành vi vi phạm hình sự như hành vi xâm phạm tính mạng ( vụ án Lê
Văn Luyện); những vi phạm hành chính như những câu chuyện về buôn bán
hàng giả; điều khiển giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông.
- Trong bài 6, bài 7, bài 8: có rất nhiều câu chuyện, nhiều tình huống đời thật
giáo viên có thể kể cho học sinh nghe. Đó là những câu chuyện về quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
Bước 3: Kết luận.
Qua những câu chuyện đã kể, giáo viên phải biết cùng học sinh nhận
xét, chốt lại vấn đề đó chính là những nội dung bài học mà giáo viên cần
chuyền tải đến học sinh.
3.3. Phương pháp xử lý tình huống kết hợp với tiểu phẩm.
Đây là một phương pháp yêu cầu nhiều thời gian và công sức của giáo
viên và học sinh, nhưng nếu chuẩn bị tốt thì hiệu quả của phương pháp này
rất cao gây được hứng thú cao độ cho học sinh, vì ở học sinh lớp 12 các em
rất thích được trình diễn, được tự khẳng định mình. Đây là phương pháp “
sân khấu” hóa giờ học, trong đó học sinh hóa vai vào các nhân vật trong một
tình huống cụ thể. Tình huống ở đây là một kịch bản nhỏ do giáo viên hoặc
chính học sinh soạn sẵn.
Bước 1: Chuẩn bị.
- Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị một giáo án
thật tốt. Phải nghiên cứu kỹ nội dung để lựa chọn những tình huống có thể
xây dựng được một kịch bản nhỏ.
Kịch bản này, theo tôi giáo viên nên phác thảo ý tưởng và phần mở đầu,
phần còn lại nên để học sinh tự thảo luận trong nhóm và xây dựng tiếp, có
như vậy mới phát huy được cao độ óc sáng tạo và tính tự khẳng định mình
của học sinh.
Ví dụ:
11
Khi dạy học bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật ở mục 2. Công
dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý.
- Nội dung của phần này là giúp học sinh hiểu rõ: Công dân dù ở địa vị nào
làm bất cứ nghề gì khi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý
theo quy định của pháp luật. Khi công dân vi phạm pháp luật với tính chất và
mức độ vi phạm như nhau, trong một hoàn cảnh như nhau thì từ người giữ vị
trí quan trọng trong bộ máy nhà nước cho đến người lao động bình thường
đều phải chịu trách nhiệm pháp lí như nhau, không phân biệt đối xử.
- Với nội dung như trên, giáo viên có thể xây dựng một tiểu phẩm nhỏ như
sau:
Nhân vật:
Công an
Công dân 1: là người lao động bình thường
Công dân 2 là cháu của một cán bộ cấp tỉnh.
+ Nội dung kịch bản: Cả 2 công dân đều vượt đèn đỏ ở Ngã tư Phú Sơn và bị
công an mời về bốt điều khiển ở đó để giải quyết. Công an đã làm đúng
nhiệm vụ của mình và yêu cầu cả 2 công dân phải nộp tiền phạt vì vi phạm
luật an toàn giao thông.
Tình huống xảy ra là: Công dân 1 nộp phạt, còn công dân 2 không nộp
phạt, gọi điện cho chú là cán bộ cấp tỉnh để xin không bị phạt, người chú đó
gọi điện lại cho công an.
+ Người chú đó nói gì với công an?
+ Công an đó đã xử lý như thế nào?
- Phần nội dung còn lại đó giáo viên chia lớp thành 2 tổ, mỗi tổ tự thảo luận,
đưa ra phương án giải quyết của công an và sau đó tự cử 3 bạn lên diễn toàn
bộ tiểu phẩm.
Với nội dung tiểu phẩm này, giáo viên nên chuẩn bị mượn trước một bộ
quần áo công an, một còi để học sinh diễn.
- Hoặc cũng với nội dung bài học trên giáo viên có thể xây dựng một kịch
bản có nội dung Tòa án nhân dân xét xử vụ án Lương Cao Khải, nguyên phó
12
vụ 2 Thanh tra chính phủ và đồng phạm liên quan 4 dự án của tổng công ty
dầu khí Việt Nam, Lương Cao Khải bị phạt 17 năm tù giam,
Bước 2: Xử lý tình huống và diễn tiểu phẩm.
Giáo viên cung cấp các thông tin để học sinh hiểu nội dung của tình
huống và chia lớp thành 2 nhóm để các em tự diễn theo sáng tạo của mỗi
nhóm.
Ví dụ:
Ở tình huống đã nêu các em rất hào hứng khi được tự diễn và còn rất
sáng tạo trong xử lý tình huống diễn xuất vai công an. (ở lớp đã thực nghiệm,
học sinh diễn vai công an đã nói rất rõ ràng và dứt khoát với ông chú của
công dân 2 là: “ Anh ạ, anh ấy (người vi phạm – công dân 2) là cháu của anh
còn tôi, đang làm nhiệm vụ và tôi là cháu Bác Hồ!” sau đó cúp máy và vẫn
yêu cầu người vi phạm nộp phạt giống công dân 1.)
Bước 3. Kết luận.
- Sau khi các tổ diễn xuất để xử lý tình huống xong giáo viên phải tổ chức
cho lớp thảo luận nhanh và đánh giá cách giải quyết tình huống mà học sinh
đã thực hiện.
- Cuối cùng học sinh phải hiểu được nội dung của bài học thông qua tiểu
phẩm một cách rõ ràng, tường tận. Các em sẽ có niềm vui của sự tự mình
khám phá, tự mình thể hiện.
4. HIỆU QUẢ.
Trong năm học 2011 – 2012 tôi được nhà trường phân công giảng dạy
11 lớp, trong đó có 6 lớp 12 với 247 học sinh. Vì vậy, tôi đã có nhiều điều
kiện để làm thực nghiệm và có lớp để đối chứng kết quả.
- Với những lớp đã được vận dụng một số phương pháp tạo hứng thú trong
học tập cho học sinh, kết quả thu được rất khả quan.
+ Học sinh học tập với không khí sôi nổi, hào hứng, tình trạng chán học, thụ
động không còn nhiều đa số các em đều tham gia tích cực vào những hoạt
động mà giáo viên đưa ra.
13
+ Kết quả học tập cũng thu được tốt hơn, tất nhiên giáo viên phải có phương
pháp kiểm tra, đánh giá theo tình thần đổi mới.
+ Bản thân chính giáo viên cũng thấy vui hơn, yêu nghề và yêu học sinh hơn
vì được gần gũi, được cùng nhau chia sẻ trong các câu chuyện, các tình
huống của bài học.
4.1. Tiến hành thực nghiệm.
Đối tượng thực nghiệm: Lớp 12A9, 12A10, 12A11
Nội dung thực nghiệm:
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ
Lớp đối chứng: 12A7, 12A8, 12A12
4.2. Kết quả thực nghiệm.
- Kết quả xếp loại học kỳ I của 3 lớp thực nghiệm cao hơn 3 lớp đối chứng.
Cụ thể: ở lớp thực nghiệm có 3 học sinh được xếp loại giỏi môn GDCD,
không có học sinh xếp loại yếu kém, số học sinh xếp loại khá chiếm hơn
70%.
Ở các lớp đối chứng, không có học sinh nào xếp loại giỏi, vẫn còn 5 em
xếp loại yếu kém và số học sinh xếp loại khá chỉ chiếm 50%.
Đặc biệt, sang học kỳ II của năm học 2011 – 2012, ở các lớp thực
nghiệm, kết quả bài kiểm tra 15 phút và bài kiểm tra 1 tiết đều rất cao.
Cụ thể: Ở lớp 12A9 bài kiểm tra 1 tiết có 28/39 học sinh được điểm từ 8
-> 10, không có học sinh bị điểm dưới trung bình.
Trong khi đó, ở lớp đối chứng như 12A8, cũng bài kiểm tra 1 tiết,
không có học sinh nào được điểm 8 trở lên, ở bài kiểm tra 15 phút vẫn còn
8/42 học sinh bị điểm dưới trung bình.
Như vậy: Sau khi thực nghiệm và có kiểm tra, đánh giá kết quả, so sánh
với lớp đối chứng và so sánh kết quả của lớp thực nghiệm trước và sau khi
vận dụng phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh, kết quả đã chứng
minh được tính hiệu quả của việc vận dụng một số phương pháp nhằm gây
14
hứng thú học tập cho học sinh. Tính hiệu quả không chỉ thể hiện ở kết quả
điểm số các bài kiểm tra cao hơn mà còn thể hiện ở việc người học dễ dàng
nắm vững kiến thức đã được học, khắc sâu kiến thức trong trí nhớ vì những
kiến thức này chủ yếu là do người học đã tích cực, chủ động, sáng tạo, và có
hứng thú trong quá trình học tập. Vận dụng một số phương pháp tạo hứng
thú vào giảng dạy còn giúp học sinh rèn luyện được một số kỹ năng sống cơ
bản như hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện quan điểm từ đó người học
có thái độ yêu mến, thích học môn GDCD.
5. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG.
Để vận dụng được một số phương pháp gây hứng thú học tập vào dạy
môn GDCD lớp 12 cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là tất cả các
yếu tố tham gia vào quá trình dạy học, ở đây tôi chỉ nêu ra những điều kiện
thật cần thiết đối với giáo viên, học sinh, chương trình, SGK và thiết bị dạy
học.
5.1. Đối với giáo viên.
Để vận dụng tốt các phương pháp gây hứng thú cho người học môn
GDCD, điều kiện không thể thiếu được và vô cùng quan trọng đối với giáo
viên đó là việc chuẩn bị giáo án. Nếu giáo án được chuẩn bị kỹ càng, được
đầu tư nhiều công sức thì sẽ quyết định phần lớn đến hiệu quả của giờ dạy
học. Nếu giáo án chuẩn bị sơ sài thì khi lên lớp giáo viên dạy sẽ khó hấp dẫn,
không gây được hứng thú học tập cho học sinh.
Muốn vận dụng được phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh
thì giáo viên soạn giáo án phải thể hiện được rõ ràng từng nội dung đơn vị
kiến thức của bài học tương ứng với nó là từng hoạt động của giáo viên và
hoạt động của học sinh.
5.2. Đối với học sinh.
Để vận dụng tốt phương pháp gây hứng thú học tập cho học sinh thì
chính học sinh phải có ý thức học tập một cách tự giác, tích cực và sáng tạo.
Sẽ không thể vận dụng được tốt nếu học sinh học tập một cách thụ động,
giáo viên bảo như thế nào thì miễn cưỡng làm theo mà không động não,
15
không suy nghĩ. Bản chất của quá trình dạy học là biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo, quá trình truyền thụ kiến thức của giáo viên thành
quá trình tự học của học sinh. Học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức, phải
có nhu cầu muốn tìm hiểu, tìm tòi những kiến thức mới.
Xét đến cùng, học sinh mới là chủ thể của quá trình tiếp nhận kiến thức
mới.
5.3. Chương trình và SGK.
Từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục đào tạo đã có công văn về điều
chỉnh nội dung dạy học theo hướng tinh giảm các nội dung, để giáo viên và
học sinh dành thời gian cho các nội dung khác. Đây là điều kiện rất thuận lợi
để giáo viên và học sinh có nhiều thời gian hơn cho việc áp dụng một số
phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh như đã trình bày.
5.4. Thiết bị dạy học.
Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được khi vận dụng những
phương pháp dạy học tích cực. Khi giáo viên muốn trình chiếu các hình ảnh
để phục vụ bài giảng nhất thiết phải có máy chiếu, những phương tiện này
hiện nay ở trường THPT Đông Sơn 1 chỉ có ở một số phòng học, thường là
dành cho các buổi thao giảng, còn ở tất cả các phòng học bình thường đều
không có, điều này là một khó khăn lớn khi giáo viên muốn vận dụng
phương pháp dạy học có sử dụng phương tiện, thiết bị dạy học.
16
III. KẾT LUẬN.
Tạo hứng thú học tập cho học sinh nói chung và trong môn GDCD, nói
riêng là việc làm mang lại ý nghĩa và hiệu quả cao trong công tác giảng dạy.
Những hình ảnh thuyết phục, những tiểu phẩm hay, những câu chuyện pháp
luật gần gũi với cuộc sống sẽ mang lại cho học sinh không khí học tập vui vẻ,
sôi nổi và để lại trong tâm trí các em nhiều đáng nhớ, độ lưu giữ thông tin
cao và lâu. Trong thực tế dạy học của mình, tôi đã cố gắng để làm cho bài
giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn và học sinh do đó học tập cũng hứng khởi
hơn, kết quả học tập cũng được nâng cao hơn.
Việc vận dụng được một số phương pháp dạy học nhằm tạo ra hứng thú
học tập cho học sinh, cũng không phải là khó khăn lắm đối với giáo viên, chỉ
cần chúng ta yêu nghề, yêu học sinh và đầu tư thời gian, công sức vào là có
thể làm được.
Do thời gian và khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên sáng kiến kinh
nghiệm này còn những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô và các bạn đọc để chất lượng dạy học ở trường THPT nói
17
chung và bộ môn GDCD nói riêng ngày càng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu
đào tạo con người mới trong thời đại ngày nay.
18