Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm giúp học sinh nhanh thuộc các bài học thuộc lòng trong phân môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.8 KB, 11 trang )



Sáng kiến kinh nghiệm
Một số kinh nghiệm giúp học sinh
nhanh thuộc các bài học thuộc lòng
trong phân môn tập đọc lớp

I - Lý do chọn đề tài:
1. Nhận thức :
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học (trẻ từ 6 - 11 - 12 tuổi, sự học, việc học của các em không thể
thoát li khỏi người thầy (cô). Cô giáo tiểu học giữ vai trò chủ đạo trong giáo dục học
sinh tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đâù cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học trung học cơ sở ?
Theo quy định có tính nguyên tắc như "Học sinh là nhân vật trung tâm trong giờ học tập vui
chơi, rèn luyện (ở trên lớp và ngoài giờ lên lớp) hoạt động theo hướng dẫn của giáo viên. Phát huy
tính chủ động tích cực của từng học sinh, của tập thể học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục".


Phương pháp dạy học phụ thuộc vào nội dung cụ thể của bài học, tiết học dành
cho học sinh. Ví dụ.
Dạy Toán khác với dạy Tập đọc hoặc dạy Tự nhiên xã hội.
Trong dạy Toán thì tiết dạy về kiến thức mới khác với tiết luyện tập để
hình thành một loại kỹ năng cụ thể nào đó.
Bản thân tôi chỉ dám mạnh dạn nêu một số kinh nghiệm về tiết dạy bộ
môn Tập đọc trong đó là Tập đọc - Học thuộc lòng.
2. Đặc thù của tiết học thuộc lòng trong phân môn Tập đọc:
Tập đọc là một phân môn quan trọng có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học.
Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên với một người đi học. "Đọc" giúp trẻ
chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để
các em học tập các môn học khác.


Giáo viên dạy tiết Tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học vì nó
liên quan mật thiết với một số vấn đề như : chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ
điệu : vấn đề nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa
học) vấn đề về dấu câu, các kiểu câu (thuộc ngữ pháp học) và những kiến
thức về phong cách học (văn bản được đọc thuộc dạng phong cách nào).
Trong quá trình dạy Tập đọc, giáo viên phải so sánh phân biệt để học sinh
đọc đúng cụ thể như phát âm đúng cả âm lẫn thanh, phân biệt dấu hỏi - ngã.
Các cặp phụ âm đầu như : ch/tr ; s/x ; l/n ; v/d các cặp phụ âm cuối : n/t
; ng/c
Đọc đúng còn là đúng về ý nghĩa, nội dung của từ, của câu, của đoạn.
Việc nắm được ý nghĩa của từ, câu, đoạn bài còn giúp cho cách đọc đúng
không khô khan, người dạy phải tạo được sự cộng hưởng cảm xúc giữa học
sinh và tác phẩm. Giọng đọc mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi bài mang một sắc thái
riêng. Định ra giọng đọc là kết quả của quá trình tìm hiểu và cảm thụ bài. Bên
cạnh đó những hiểu biết về ngữ pháp cũng giúp người giáo viên dạy tốt phân
môn Tập đọc. Ví dụ như những quy định ngắt nghỉ hơi theo dấu câu : dấu
chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy cách đọc, tốc độ đọc các kiểu câu. Thông
thường kết thúc câu hỏi phải lên giọng. Nhưng kết thúc câu kể phải hạ giọng.
Các câu đơn đặc biệt tốc độ đọc nhanh vì lượng thông tin nhiều dồn nén. Với
câu dài, đọc tốc độ giãn ra làm cho người đọc, người nghe có thời gian để suy
nghĩ.
Đọc một đoạn văn có nhiều câu đơn, nhịp sẽ dồn dập, khác nhịp điệu
chậm rãi trong đoạn tả cảnh.
Thực tế, học sinh khó tự mình có thể đọc đúng, đọc diễn cảm được. Vì
vậy giáo viên phải là người dẫn dắt học sinh tiếp xúc với tác phẩm hướng dẫn,
gợi ý và làm mẫu cho các em. Không phải lúc nào cũng ngắt giọng khi chấm
câu, xuống dòng. Việc nhấn giọng ngắt giọng còn tuỳ theo cảm xúc nội tại
củabài văn. Có khi đọc liền khi ý hai câu thơ liên quan với nhau hay đọc vắt
sang dòng sau :
Việc dạy tập đọc không thể không dựa trên lý thuyết về văn bản, những

tiêu chuẩn để phân tích, đánh giá một bài đọc, nói chung cũng như lý thuyết để
phân tích đánh giá các tác phẩm văn chương nói riêng. Việc hình thành kỹ
năng đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm cho học sinh phải dựa trên những tiêu
chuẩn đánh giá một văn bản, tính chính xác và tính thẩm mỹ dựa trên những
đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại và các
đặc điểm về thể loại của tác phẩm văn chương dùng làm ngữ điệu đọc ở Tiểu
học.
Chẳng hạn để dạy học sinh đọc thơ có kết quả, giáo viên cần nắm những
nét đặc trưng của thơ, dòng thơ, nhịp thơ, thể thơ, văn thơ. Giáo viên cần lưu ý
khai thác các đặc điểm riêng của các thể thơ để dạy học sinh có kết quả cao.
Ví dụ: Ở bài "Mẹ" TV2 tập 1.
Lặng rồi / cả tiếng con ve //
Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi //
Nhà em / vẫn tiếng ạ ơi //
Kẽo cà tiếng võng / mẹ ngồi mẹ ru //
Đoạn thơ tha thiết tình cảm của mẹ với con. Mẹ thương yêu, dồn tình
thương, hy sinh giấc ngủ, mặc cho nóng bực, khó chịu để ru cho con ngủ. Mẹ
cần mẫn, tần tảo và mẹ thật cao quý trong tâm hồn trẻ thơ. Mẹ là "ngọn gió của
con suốt đời".
Với những bài Tập đọc là truyện ngụ ngôn truyền thuyết, giáo viên cần
khai thác chức năng giáo dục cho học sinh ví dụ bài tập đọc "Câu chuyện bó
đũa" cần hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu qua cuộc đối thoại giữa ông
già và bốn người con, chú ý lời căn dặn cuối bài đọc với giọng khuyên dăn, dứt
khoát, dõng dạc. Nhấn mạnh ở các từ ngữ như "hợp quần", "đùm bọc" để khắc
sâu cho học sinh giá trị giáo dục của truyện. Với những bài tập đọc như thế có
thể cho học sinh sắm vai để đọc, các em sẽ hoà mình vào tác phẩm và thể hiện
tốt hơn.
Riêng với những bài học thuộc lòng, văn bản để lưu giữ lại những tri thức
là việc làm rất cần thiết ở bậc Tiểu học. Những tri thức được lưu giữ lại trong
chương trình là những bài văn; bài thơ có giá trị; nên học thuộc lòng sẽ giúp

cho các em tích luỹ văn chương bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học
sinh và gây hứng thú đối với môn học.
Trong thực tiễn dạy môn Tiếng việt ở bậc Tiểu học, dạy học thuộc lòng
không được coi là phân môn riêng biệt mà chỉ được coi như là một yêu cầu,
một bài tập đặc biệt của giờ Tập đọc và được gọi chung là phân môn Tập đọc -
Học thuộc lòng. Từ đó cách dạy Tập đọc và Học thuộc lòng na ná như nhau,
không tạo được nét đặc thù riêng biệt cho mỗi loại hình do vậy chưa đáp ứng
được yêu cầu cơ bản cần thiết của giờ HTL. Mà theo nhận thức của tôi, giờ
HTL ngoài mục đích lưu giữ những tri thức cần thiết thì trên hết nhằm rèn
luyện trí nhớ hình thành phương pháp ghi nhớ cho học sinh.
Do vậy, mỗi tiết học thuộc lòng, người giáo viên sau khi giúp học sinh
hiểu bài, đọc được bài, cần giúp học sinh chỉ ra được những dấu hiệu để ghi
nhớ bài một cách nhanh nhất. Những dấu hiệu chung nhất ở bài học thuộc lòng
gồm : các ý của bài, thể loại thơ, điệp từ, điệp ngữ, cách gieo vần, mối liên kết
giữa câu thơ, khổ thơ và có thể cả những dấu hiệu ghi nhớ máy móc nhưng có
tác dụng giúp học sinh tái hiện được văn bản.
Thời gian luyện đọc trong tiết Tập đọc được thay bằng thời gian luyện
khả năng ghi nhớ của học sinh trong tiết HTL, dưới hình thức hỏi đáp hoặc tổ
chức trò chơi. Mỗi câu trả lời đúng của học sinh ở phần này phải được giáo
viên kịp thời khen và cho điểm để học sinh phấn khởi. Khuyến khích học sinh
nói lên cách ghi nhớ của mình giúp học sinh khác học như vậy. Kết thúc tiết
học 100% học sinh thuộc một đoạn hoặc một số nhóm câu, một số học sinh
thuộc cả bài tại lớp.
Với cách dạy Học thuộc lòng như vậy, sẽ hình thành được cho học sinh
phương pháp ghi nhớ khoa học mà sau này học lên cấp trên không ai giúp các
em những điều như vậy.
Minh hoạ qua bài dạy ở lớp 2.
Bài Chú bé liên lạc
Giáo viên nêu xuất xứ bài thơ : bài thơ ca ngợi hình ảnh một thiếu nhi
dũng cảm trong khi làm nhiệm vụ cách mạng, hình ảnh thiếu nhi rất đáng yêu

và hồn nhiên.
Bài thơ của nhà thơ Tố Hữu viết theo thể thơ tự do, 4 chữ.
4 dòng thơ đầu là những nét tả hình dáng của chú bé liên lạc thật đáng yêu, thật
nhỏ bé, thật vui tươi hồn nhiên nhí nhảnh, nhanh nhẹn :

Chú bé / liên lạc
Cái xắc / xinh xinh
Cái chân / thoăn thoắt
Cái đầu / nghênh nghênh
4 dòng thơ tiếp tác giả tả được phong cách hồn nhiên, trẻ trung của một thiếu nhi
đang ở tuổi chơi, tuổi ăn, tuổi lớn.
Ca nô / đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con / chim chích
Nhảy trên đường vàng
Ta thấy hành ảnh một em bé đáng yêu, đáng quý biết bao. Chú ý đọc vắt
dòng ở 4 câu thơ của khổ thơ 2.
Sang khổ thơ 3, hình ảnh chú bé rất gan dạ. Bất chấp sự gian khổ, khó
khăn, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ cao cả mà tổ chức giao cho.
Coi thường hiểm nguy, bất chấp hy sinh đó chính là phẩm chất vô cùng cao
quý của những chiến sĩ cách mạng. Những con người vô cùng giàu lòng yêu nước.
Những con người họ luôn biết đặt tình yêu đất nước, yêu tổ quốc lên trên cả cuộc
sống của mình.
Vụt qua / mặt trận
Đạn bay / vèo vèo
Thư đề / thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo ?
Có những lúc hình ảnh chú bé liên lạc lại thật bình thản, gần gũi biết bao khi
bước trên những con đường quê quen thuộc, với những ruộng lúa đang trổ bông,
với những bộ trang phục, chiếc mũ ca lô, chú bé liên lạc lại vui vẻ, say mê với

công việc mà cách mạng giao cho.
"Đường quê vắng vẻ
Lúa trổ đòng đòng
Ca lô chú bé
Nhấp nhô trên đồng"
Qua bài học thuộc lòng, giống như một bài văn tả hình dáng tích cách của
em Thiếu nhi dũng cảm, bài văn còn giáo dục cho học sinh thấy : hình ảnh đẹp
đẽ, cao quý của con người biết đặt quyền lợi tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi
cá nhân.
Sau khi chia bài học thuộc lòng thành các khổ thơ, nêu ý nghĩa của từng
khổ thơ, giúp các em dễ nhớ, nhớ có thứ tự và nhanh thuộc lòng bài thơ.
Trên đây là một số ý kiến của bản thân tôi qua quá trình thực tế làm
nhiệm vụ giảng dạy ở lớp 2.
Đây mới chỉ là ý kiến của cá nhân tôi, mong được sự giúp đỡ và muốn
được học tập nhiều hơn nữa từ các đồng nghiệp để vốn kinh nghiệm của tôi
ngày càng được nhiều thêm.



×