Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Hiệu trưởng quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học Trương Công Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.63 KB, 39 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trải qua bốn ngàn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo,
chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, hun đúc nên truyền thống đoàn
kết nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân tộc và xây dựng nền văn hiến Việt
Nam. Trong những năm gần đây, cùng với công cuộc đổi mới của đất nước, sự
nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển không ngừng và được Đảng, Nhà nước
quan tâm xem đó là một trong những vấn đề quan trọng để tiến hành “Công
nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước”. Luật giáo dục của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu: “ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển”. Và cũng đề ra mục tiêu giáo dục Việt Nam ghi rõ trong điều 2 Luật giáo
dục- Năm 2005 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 là: “ Mục tiêu giáo
dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri
thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”.
- Để đạt được mục tiêu giáo dục, trường tiểu học cần thực hiện hoạt động giáo
dục. Cùng với việc dạy trên lớp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt
động hết sức quan trọng và vô cùng cần thiết trong nhà trường phổ thông nói
chung và trường tiểu học nói riêng . Nếu nhà trường chỉ thực hiện hoạt động dạy
học các bộ môn văn hoá trên lớp thì nhiệm vụ dạy người sẽ không hoàn thành,
vì học sinh sẽ thiếu môi trường hoạt động và giao tiếp, hạn chế về tình huống
thực tế Các em hầu như không có điều kiện để trải nghiệm những kiến thức đã
học vào thực tế. Vì vậy, việc nhà trường tổ chức các hoạt động, các mối quan hệ
khác nhau vào thời gian ngoài giờ lên lớp là điều kiện quan trọng để hình thành
thái độ, rèn luyện hành vi, kĩ năng xã hội cho học sinh. Vì vậy, hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp có vị trí rất quan trọng trong việc thực hiện vụ dạy người
trong các nhà trường hiện nay.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nâng cao chất lượng giáo dục toàn


diện.Vì thế, nhà trường không những cần dạy đủ các môn mà còn phải tổ chức
các hoạt động ngoài giờ lên lớp theo qui định về chương trình giáo dục, bảo đảm
các yêu cầu về giáo dục chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giáo dục
truyền thống nhà trường; đạo đức, lối sống lành mạnh; giáo dục thể chất; giáo
dục thẩm mĩ; giáo dục hướng nghiệp; giáo dục trật tự an toàn giao thông và giáo
dục pháp luật; giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, tội phạm ma tuý,
HIV/AIDS, phòng chống dịch bệnh; giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp làm cho học sinh bổ sung và hoàn
thiện những tri thức đã học trên lớp, giúp các em khắc sâu kiến thức đã học, góp
phần giáo dục đồng bộ về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ. Giúp các em có
nền tảng vững chắc để học lên các lớp trên hoặc có vốn kiến thức để đi vào cuộc
sống lao động.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp các em nhận thức, định hướng
đúng đắn, chủ động, sáng tạo, biết hợp tác để không bị “hụt hẫng” là một điều
cực kỳ quan trọng để các em bước vào cuộc sống; biết yêu tập thể, ghét lối sống
ích kỉ, coi lao động là nghĩa vụ vinh quang của mình thông qua hoạt động hàng
ngày, giúp các em giảm căng thẳng trong học tập, tạo cho các em có tính tự tin
trong giao tiếp, đồng thời tạo cho các em tâm thế thoải mái, sẵn sàng hoạt động,
học tập. Từ đó kết hợp với hoạt động trên lớp thúc đẩy các em học tập đạt kết
quả cao.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là cơ hội hợp tác giữa các lực lượng
trong và ngoài nhà trường, là điều kiện, là phương tiện để phát huy sức mạnh
của cộng đồng cùng tham gia vào quá trình giáo dục của nhà trường.
Qua thực tế, hoạt động dạy học trên lớp được tiến hành công phu, bài bản
và đạt nhiều kết quả khả quan; còn hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bị đa số
giáo viên xem nhẹ, tổ chức thực hiện chỉ là hình thức cho có phong trào dẫn đến
chất lượng và hiệu quả chưa cao.
Xuất phát từ thực tế trên, bản thân tôi rất trăn trở, suy nghĩ và nhận thấy
người hiệu trưởng phải coi trọng việc quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp hơn
nữa như việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho hoạt động này. Thường xuyên

động viên, nhắc nhở, đôn đốc mọi người tham gia thực hiện. Đặc biệt là khâu
kiểm tra đánh giá phải được tiến hành đều đặn và chặt chẽ để kịp thời phát hiện
những vướng mắc hạn chế mà sớm điều chỉnh và khắc phục, nhằm đưa hoạt
động vào đúng mục đích, quỹ đạo, kế hoạch mà nhà trường đã đề ra.
Tôi cũng nhận thấy công tác quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trường tiểu học Trương Công Định là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan
trọng góp phần quyết định sự phát triển vững mạnh toàn diện của nhà trường.
Hơn nữa, qua thời gian học tập ở lớp cán bộ quản lý, được các thầy cô ở
trường cán bộ quản lý giáo dục truyền đạt, trang bị cho tôi những kiến thức kinh
nghiệm quí báu, hệ thống lý luận sắc bén về vai trò quan trọng của hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp trong trường phổ thông. Chính vì những lý do cần
thiết trên cùng với sự tâm đắc của bản thân về nội dung này nên tôi quyết định
chọn đề tài: “ Hiệu trưởng quản lý hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu
học Trương Công Định năm học 2010- 2011” làm bài tổng thu hoạch.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Mong muốn của bản thân tôi nghiên cứu đề tài, để cải thiện tình hình quản
lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường Tiểu học Trương Công Định,
Thành phố Vũng Tàu - năm học 2010- 2011.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Xây dựng cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của đề tài.
- Tìm hiểu và phân tích thực trạng biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp của hiệu trưởng trường Tiểu học Trương Công Định- Thành
phố Vũng Tàu năm học 2010- 2011.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của hiệu trưởng trường Tiểu học Trương Công Định- Thành phố Vũng Tàu Năm
học 2010- 2011.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Trong nhà trường phổ thông tổ chức nhiều hoạt động với các hình thức tổ
chức, nội dung khác nhau, nhằm trang bị kiến thức, giáo dục đạo đức cho học
sinh. Trong đó không thể không kể đến hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đã

góp phần không nhỏ đến việc hình thành, hoàn thiện nhân cách học sinh. Do
điều kiện về thời gian và khả năng nghiên cứu có hạn nên chỉ nghiên cứu một số
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của hiệu trưởng trường
Tiểu học Trương Công Định- Thành phố Vũng Tàu năm học 2010- 2011.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp chuyên gia:
Trao đổi, học hỏi các chuyên gia ngành giáo dục của Thành phố, của tỉnh,
của trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo về công tác quản lý hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp.
2. Phương pháp quan sát:
Quan sát các hoạt động liên quan đến hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của học sinh, giáo viên.
3. Phương pháp hỏi đáp:
Trao đổi trực tiếp với các thầy cô giáo, các em học sinh trong nhà trường về
những vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài.
4. Phương pháp lý thuyết:
5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
6. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm:
PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I : CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
A . CƠ SỞ PHÁP LÝ:
Cơng tác quản lý hoạt động GDNGLL dựa trên cơ sở pháp lý sau:
- Luật giáo dục Tiểu học, điều 2 qui định chung: “ Giáo dục tiểu học là bậc
nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển
tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất của các em, nhằm hình thành cơ
sở ban đầu cho sự phát triển tồn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
- Chủ đề năm học do Bộ giáo dục và sở giáo dục hướng dẫn từ đầu năm học: “
Tiếp tục đổi mới cơng tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
- Kế hoạch năm học của nhà trường.

- Quá trình giáo dục trong Nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, để
đạt được mục tiêu giáo dục trường tiểu học cần thực hiện hoạt động giáo dục,
trong Điều lệ Trường tiểu học, điều 26 ghi rõ :
1. Hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trên lớp và hoạt động
ngoài giờ lên lớp nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng
năng khiếu, giúp đỡ học sinh yếu kém phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý,
lứa tuổi học sinh tiểu học .
2. Hoạt động giáo dục trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy
các môn học bắt buộc và tự chọn.
3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động giáo dục
ngoại khoá, hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, tham quan du lòch, giao
lưu văn hoá; hoạt động bảo vệ môi trường; lao động công ích và các hoạt
động xã hội khác.”
Điều 19, Điều lệ Trường tiểu học ghi rõ: “. . . Tổng phụ trách Đội có nhiệm
vụ tổ chức, quản lý các hoạt động của Đội Thiếu Niên và Sao Nhi Đồng ở nhà
trường và tổ chức quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.”
B. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
Ngày nay, từ thực tiễn xu thế phát triển của thời đại nói chung, sự
nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo nói riêng mà đặc biệt đáp ứng mục tiêu
giáo dục Tiểu học thì hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là hoạt động hết
sức cần thiết, là cơ hội để học sinh thực hành các chuẩn mực, hành vi đạo
đúc đã học, củng cố và bổ sung nhận thức tình cảm, niềm tin về các chuẩn
mực hành vi đạo đức cho học sinh. Nhưng thực tế như đã nói hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp chưa đi vào chiều sâu. Mặt khác việc phối hợp các lực
lượng ngoài Nhà trường chưa chặt chẽ dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức
thực hiện. Hiện nay, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp còn bò xem nhẹ,
làm qua loa, hình thức đơn điệu, trùng lặp, ít hấp dẫn.
Cho nên, người cán bộ quản lý trường tiểu học cần phải nhận thức đầy
đủ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, từ đó có biện
pháp quản lý khoa học và phù hợp với thực tế . Để làm được điều này người

cán bộ quản lý cần nghiên cứu sâu cơ sở lý luận của hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp.
C. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Một số khái niệm :
- Hoạt động GDNGLL là những hoạt động giáo dục được thực hiện ngồi thời
gian học tập, nhằm lơi cuốn đơng đảo học sinh tham gia để mở rộng hiểu biết,
tạo khơng khí vui tươi, lành manh, tạo cơ hội để học sinh rèn luyện thói quen
sống trong cộng đống và phát huy tối đa năng lực và sở thích của từng cá nhân.
- Hoạt động GDNGLL là một mặt hoạt động giáo dục cơ bản được thực hiện
một cách có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm góp phần hình thành nhân
cách học sinh theo mục tiêu đào tạo, đáp ứng những u cầu đa dạng của xã hội.
- Hiệu trưởng trường tiểu học là người chòu trách nhiệm tổ chức, quản lý
các hoạt động và chất lïng giáo dục của nhà trường Hiệu trưởng do Chủ tòch
Uỷ ban nhân dân huyện bổ nhiệm đối với trường tiểu học công lập, công
nhận đối với trường tiểu học tư thục theo đề nghò của Trưởng phòng giáo dục
và đào tạo. Nhiệm kì của Hiệu trưởng trường công lập là 5 năm; hết nhiệm
kì, Hiệu trưởng được luân chuyển đến một trường khác lân cận hoặc theo yêu
cầu điều động. Hiệu trưởng chỉ được giao quản lý một trường tiểu học. ( Điều
17, Điều lệ trường tiểu học )
Quản lý: Là hoạt động, tác động có đònh hướng có chủ đích của chủ thể
quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục
đích của tổ chức .
Hoạt động: Tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ
nhằm một mục đích nhất đònh trong đời sống xã hội. (Từ điển Tiếng Việt –
Xuất bản năm 1998 )
Giáo dục: Hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của mọt đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần
dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. (Từ điển Tiếng
Việt – Xuất bản năm 1998)
Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là tác động có mục đích,

có tổ chức, có kế hoạch lên toàn bộ quá trình dó của nhà quản lý nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục đã được xác đònh.
“Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: là những hoạt động được tổ
chức ngoài giờ học của các môn học trên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết
với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động của học
sinh.”
2. Một số vấn đề chung của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp :
a. Vò trí của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp :
- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một bộ phận của hoạt động
dạy học- giáo dục trong Nhà trường: Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp có
môt vò trí rất quan trọng. Bởi, theo tâm lý học hiện đại nhân cách của học
sinh được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động phong phú và đa
dạng. Trong lúc đó hoạt động giáo dục trên lớp, học sinh chủ yếu tiến hành
hoạt động học tập, giao tiếp giữa học sinh và học sinh; giữa học sinh và giáo
viên. Các loại hình hoạt động khác như vui chơi, lao động, công tác xã hội,
giao tiếp với các tầng lớp khác ( văn nghệ só, bộ đội . . . ) hầu như không
được tổ chức. Như vậy, chỉ giáo dục các em thông qua hoạt động giáo dục
trên lớp là chưa đủ mà cần mở rộng phạm vi bốn bức tường lớp học để các
em tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là đòi hỏi tất yếu của quá trình
giáo dục: Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thực sự là cần thiết,
là đòi hỏi tất yếu của quá trình giáo dục và không có gì thay thế được. Học
tập là hoạt động chủ đạo của học sinh tiểu học nhưng các em còn có nhu cầu
tham gia các hoạt động khác, nhu cầu giao tiếp với người xung quanh. Do đó
tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là còn nhằm thoả mãn các
nhu cầu của trẻ.
b. Nhiệm vụ của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
+ Nhiệm vụ củng cố tăng cường nhận thức.
+ Nhiệm vụ bồi dưỡng hệ thống thái độ.

+ Nhiệm vụ hình thành hệ thống kĩ năng, hành vi.
Nhiệm vụ củng cố, tăng cường nhận thức góp phần phát triển năng lực trí
tuệ, năng lực tư duy và hình thành thế giới quan khoa học. Thái độ, tình cảm
được hình thành dựa trên cơ sở, nền tảng của thế giới quan và niềm tin của con
người. Nhiệm vụ này thực hiện tốt sẽ có tác dụng tốt, có tính chất quyết định đối
với sự hình thành thái độ, tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ
và hoạt động xã hội.
Nhận thức, ý nghĩ của con người được thể hiện, bộc lộ qua thái độ, tình
cảm. Thái độ, tình cảm được biểu hiện ở hành vi. Thông qua các hoạt động sống
hằng ngày tạo thành các kĩ năng, thói quen phù hợp với các giá trị của cuộc
sống. Hệ thống thái độ, hành vi, kĩ năng, thói quen được hình thành trở thành
phương tiện, công cụ hữu hiệu nhất cho việc bổ sung, tăng cường nhận thức, mở
rộng tầm hiểu biết ở mức độ cao và sâu sắc hơn. Sự kết hợp giữa kiến thức, tình
cảm, niềm tin, và biểu lộ ở thói quen và hành vi lối sống của con người trong
mọi mối quan hệ xã hội chính là thước đo, là hiệu quả của hoạt động giáo dục.
Ba nhiệm vụ này có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết, bổ sung lẫn nhau và làm
tiền đề cho nhau.
1. Nhiệm vụ củng cố tăng cường nhận thức:
Tri thức là kết quả của nhận thức hiện thực được kiểm tra bằng thực tiễn và
được phản ánh ở tư duy con người. Tri thức cũng giúp người học hiểu được thế
giới xung quanh, biết cách cư xử đúng đắn với mọi người, biết cách tiến hành
công việc trong lao động, trong học tập, trong hoạt động nghệ thuật, trong rèn
luyện sức khoẻ v.v…
Vì thế, làm bất cứ một việc gì, dù đơn giản đến đâu chăng nữa thì tri thức
vẫn là cơ sở đầu tiên để xác định mục đích, nắm bắt một cách chính xác, cụ thể,
rõ ràng, trình tự hành động, và thao tác của công việc… Với ý nghĩa đó, tổ chức
HĐGDNGLL trước hết phải nhằm giúp học sinh tiểu học củng cố các tri thức
của các bộ môn đã học ở trên lớp. Đồng thời bổ sung thêm những tri thức về tự
nhiên, xã hội, về con người mà trong bài học trên lớp chưa có điều kiện mở
rộng. Chính từ những hoạt động đa dạng, phong phú này mà các em có nhiều cơ

hội tiếp xúc với khoa học kĩ thuật công nghệ mới, văn hóa nghệ thuật, thể thao,
lao động, hoạt động xã hội, nền kinh tế tri thức và kinh tế thị trường… Từ đó trẻ
em có điều kiện tìm hiểu các phát minh mới nhất của khoa học kĩ thuật công
nghệ, các thành quả của lao động sáng tạo, những nét tinh t văn hố của các
nước trên thế giới cùng với các nét văn hố độc đáo của các dân tộc trên đất
nước Việt Nam.
2. Nhiệm vụ bồi dưỡng thái độ, tình cảm :
Tri thức là cơ sở, là nền tảng, là cội nguồn để hình thành niềm tin. Tri thức,
thái độ và niềm tin là những thành phần cơ bản của ý thức con người nói chung
và trẻ em tiểu học nói riêng. Ý thức lại được tơi rèn trong hoạt động, chẳng hạn
như việc tham gia vào các HĐGDNGLL sẽ làm bộc lộ hứng thú, sở trường,
năng lực của các em, đồng thời thể hiện lòng tự tin, tự trọng, tơn trọng bạn bè và
mọi người kể cả các em nhỏ tuổi hơn mình.
Trong lao động, học tập, vui chơi, thể thao, văn nghệ ở bất kì nơi nào các
em cũng ln chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật, tơn trọng thuần
phong mĩ tục, tơn trọng chuẩn mực xã hội… Những hoạt động đó giúp trẻ phát
triển hài hồ giữa tình cảm thẩm mĩ, tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, và hoạt
động xã hội để tạo nên một nhân cách tồn diện.
Bồi dưỡng thái độ, tình cảm cho trẻ em là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
và phải thực hiện ngay từ lứa tuổi tiểu học. Sự tham gia vào các loại hình
HĐGDNGLL sẽ góp phần tạo nên sự thành cơng trong giáo dục mà các nhà giáo
đang mong đợi.
3. Nhiệm vụ hình thành hệ thống kĩ năng, hành vi:
Hệ thống kĩ năng, hành vi là điều kiện quan trọng để thực hiện hoạt động
có hiệu quả. Nói đến hoạt động là phải nói tới hành vi, kĩ năng thực hiện hoạt
động. Vậy đối với học sinh tiểu học đó là những hành vi, kĩ năng nào ?
Đó là những kĩ năng thực hiện các cơng việc lao động đơn giản, các kĩ
năng sáng tạo nghệ thuật, thực hiện các bài thể dục, các mơn thể thao, các trò
chơi, các hành vi ứng xử đối với mọi người trong gia đình, trong nhà trường và
trong xã hội. Những kĩ năng tham gia hoạt động tập thể, kĩ năng tổ chức những

hoạt động chung cùng nhau, biết phối hợp với mọi người cùng thực hiện hoạt
động chung, nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ động và kĩ năng giao tiếp với
mọi người. Dựa vào những kĩ năng, hành vi này để rèn luyện những kĩ xảo, thói
quen đạo đức bền vững và những kĩ năng tự quản trong sinh hoạt tập thể. Làm
được như vậy chúng ta đã góp phần tích cực vào cơng cuộc xây dựng chiến lược
con người cho tương lai của đất nước.
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ:
giáo dục ý thức ( tri thức, niềm tin…), giáo dục thái độ, tình cảm ( những rung
động xúc cảm và tình cảm bền vững đối với những hình tượng, những người
xung quanh …) và giáo dục hành vi, kó năng, thói quen ( thể hiện qua các mối
quan hệ, các hoạt động khác nhau ).
4. Nguyên tắc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp :
Để đạt được chất lượng và hiệu quả giáo dục mong muốn, cần tuân thủ
một số nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc về tính mục đích, kế hoạch: Bất cứ hoạt động giáo dục nào
cũng phải đạt được mục đích nhất đònh, mục đích cho cả năm học, từng học
kỳ, từng hoạt động; trong đó cần đònh hướng đa dạng của mục tiêu giáo dục
toàn diện. Kế hoạch sẽ đònh hướng và giúp cho việc tổ chức có chất lượng và
hiệu quả. Tính kế hoạch của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp sẽ đảm
bảo tính ổn đònh tương đối, tính hệ thống và tính hướng đích, không gây sự
hỗn loạn và tuỳ tiện trong tổ chức các hoạt động của nhà trường. Trên cơ sở
kế hoạch, nhà trường định ra cách tổ chức chỉ đạo, nội dung, phương tiện và qui
mơ hoạt động.
- Nguyên tắc về tính tự nguyện, tự giác tham gia hoạt động: Nếu học
sinh bắt buộc phải học tập các môn học trên lớp thì các em có quyền lựa
chọn tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp mà các em ưa thích.
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường - các nhà giáo dục phải tổ chức được
nhiều hoạt động phong phú, đa dạng; tổ chức và duy trì được nhiều nhóm
hoạt động với các chủ đề khác nhau như câu lạc bộ môn, các đội thể thao,
đội văn nghệ. Thường xun tổ chức các buổi tham quan, hoạt động văn nghê,

lao động Chỉ khi đó học sinh mới có thể tự nguyện, tự giác lựa chọn tham gia
vào các loại hình hoạt động phù hợp với hứng thú của mình.
- Nguyên tắc tính đến đặc điểm lứa tuổi và tính cá biệt của học sinh:
Mỗi lứa tuổi có đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, cá biệt có một số ít học sinh
có những biểu hiện khác biệt trong quá trình phát triển. Nhà trường, giáo
viên phải hiểu những nét đặc trưng của sự phát triển này để tổ chức hoạt
động có nội dung và hình thức đáp ứng nhu cầu và phù hợp với khả năng của
từng lứa tuổi học sinh.
- Nguyên tắc kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của thầy với tính tích cực
chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh: Tính tích cực, độc lập sáng tạo của
học sinh được coi là những tiêu chí đánh giá khả năng tham gia hoạt động
của học sinh, trình độ tự quản các hoạt động tập thể của các em. Học sinh
phải thực sự phát huy khả năng của mình, được bày tỏ ý kiến của mình cũng
như những sáng kiến nhằm giúp cho hoạt động của tập thể đạt hiệu quả.
5. Nội dung hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Những nội dung của HĐGDNGLL ở trường tiểu học :
– Phản ánh cuộc sống học tập, sinh hoạt và rèn luyện của học sinh tiểu học
ở nhà trường, gia đình và xã hội.
– Thông tin cập nhật trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội phù
hợp với nhận thức của học sinh tiểu học.
– Tạo cơ hội để học sinh tiểu học phát triển các khả năng của mình trong
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Những nội dung của HĐGDNGLL trong trường tiểu học được thể hiện ở
các loại hình hoạt động sau đây :
a) Hoạt động văn hóa – nghệ thuật:
Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong sinh
hoạt tập thể của trẻ em, nhất là học sinh ở bậc tiểu học. Hoạt động này bao gồm
nhiều thể loại khác nhau : Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, kịch câm, tấu vui, độc
tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện, vẽ…
– Tập một bài hát, điệu múa.

– Trình diễn một chương trình văn nghệ.
– Thi văn nghệ giữa các tổ học sinh.
– Tổ chức vẽ tự do hoặc vẽ theo chủ đề.
b) Hoạt động vui chơi giải trí, thể dục thể thao:
– Vui chơi giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của
các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở
trường tiểu học.
– Hoạt động này làm thoã mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học
căng thẳng.
– Góp phần rèn luyện một số phẩm chất: Tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao
tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái….
– Một số trò chơi :
+ Đứng ngồi theo lệnh (rèn khả năng tập trung).
+ Nhóm ba, nhóm bảy (rèn phản xạ nhanh, tinh thần tập thể).
+ Tập tầm vông (rèn khả năng phán đoán).
+ Chi chi chành chành (rèn phản xạ nhanh, khả năng tập trung).
+ Sáng tối (rèn phản xạ nhanh, khả năng quan sát, hài hước và cố định
động tác…).
+ Chuyền bóng tiếp sức (rèn sự khéo léo, nhanh nhẹn và sự phối hợp).
c) Hoạt động xã hội:
– Bước đầu đưa các em vào các hoạt động xã hội để giúp các em nâng cao
hiểu biết về con người, đất nước, xã hội nhằm giáo dục tình cảm đối với quê
hương đất nước, con người v.v…
– Các hình thức hoạt động : Tham gia công tác từ thiện, quỹ nhi đồng, đóng
góp ủng hộ cho nạn nhân chất độc màu da cam, làm vệ sinh sạch đẹp môi trường
v.v…
d) Hoạt động lao động công ích:
– Là một loại hình đặc trưng của HĐGDNGLL. Thông qua lao động công
ích sẽ giúp trẻ gắn với đời sống xã hội.
– Lao động công ích góp phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị của lao

động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh.
– Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như : Trực
nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp trường lớp.
e) Hoạt động tiếp cận khoa học – kĩ thuật:
– Là hoạt động giúp các em tiếp cận được những thành tựu khoa học –
công nghệ tiên tiến. Điều đó sẽ tạo cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích các
em học tập tốt hơn.
– Những hoạt động này có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh
hoạt câu lạc bộ khoa học, hội vui khoa học, tìm hiểu các danh nhân, các nhà bác
học…
Tóm lại: Ngoài 5 hoạt động đã nêu ở trên, HĐGDNGLL còn có những
hoạt động khác đa dạng, phong phú phù hợp với lứa tuổi, trình độ của trẻ em
tiểu học. Chúng ta có thể lựa chọn tuỳ theo trình độ, điều kiện cơ sở vật chất,
con người cụ thể, thời gian, không gian cho thích hợp.
Qui trình tổ chức HĐGDNGLL:
Cần tiến hành theo 4 bước sau:
- Bước 1: Đặt tên chủ đề hoạt động và xác định các yêu cầu giáo dục cần
phải đạt được.
- Bước 2: Chuẩn bị cho hoạt động.
- Bước 3: Tiến hành hoạt động.
- Bước 4: Đánh giá kết quả hoạt động và tổ chức rút kinh nghiệm.
6. Quản lý hoạt động GDNGLL:
Để quản lý tốt, chặt chẽ các hoạt động GDNGLL, người hiệu trưởng cần
phải nắm được đặc điểm tình hình nhà trường, địa phương, chi tiết từ lịch trình
diễn biến thời gian, đối tượng nhân sự, mục đích nhiệm vụ, kết quả của hoạt
động GDNGLL của những năm học trước cũng như năm học mới như thế nào
để có thể đề ra biện pháp quản lý cho phù hợp. Các biện pháp phổ biến trong
quản lý hoạt động GDNGLL là:
• Xây dựng kế hoạch và lịch hoạt động:
- Xây dựng kế hoạch năm học của HĐGDNGLL: Xác định mục tiêu quản

lý hoạt động GDNGLL. Cơ sở xác định mục tiêu. Định hướng mục tiêu
quản lý hoạt động GDNGLL.
- Xây dựng kế hoạch: Yêu cầu đối với công tác kế hoạch hoạt động
GDNGLL. Kế hoạch năm học có tính định hướng về hoạt động GDNGLL
cho một nhà trường tiểu học.
- Xây dựng lịch hoạt động thành nề nếp theo thời gian: Hàng ngày, hàng
tuần, hàng tháng, học kỳ.
• Tổ chức chỉ đạo thực hiện:
- Tổ chức lực lượng thực hiện: Thành lập ban chỉ đạo chung toàn trường
( ban GDNGLL).
- Tổ chức chỉ đạo các lực lượng giáo dục trong nhà trường: Giáo viên chủ
nhiệm lớp, với tập thể giáo viên nhà trường, với tổ chức Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, với hội cha mẹ học sinh, với các tổ chức xã hội,
các ban nghành ở địa phương.
- Xây dựng các điều kiện cho hoạt động GDNGLL: Đội ngũ giáo viên. Xây
dựng cơ sở vật chất, tài chính cho hoạt động GDNGLL.
• Kiểm tra, đánh giá hoạt động GDNGLL
- Hình thức kiểm tra: Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch hoạt động
GDNGLL của các bộ phận, các lớp học. Kiểm tra, đánh giá hiệu quả giáo
dục thông qua hoạt động của học sinh.
- Nội dung kiểm tra:
- Xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động.
- Một số phương pháp kỹ thuật kiểm tra, đánh giá: Dự một số hoạt động cụ
thể. Quan sát hoạt động của giáo viên, học sinh. Kiểm tra hồ sơ sổ sách,
sản phẩm hoạt động. Trao đổi, trò chuyện cùng học sinh, giáo viên.
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT
BIỆN PHÁP CẢI THIỆN THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
1. Đặc điểm tình hình nhà trường:
Trường Tiểu học Trương Công Định, thành phố Vũng Tàu được thành lập

vào năm 1994 (tiền thân là trường phổ thông cơ sở Trương Công Định). Gần hai
mươi năm qua trường đã phấn đấu không ngừng hoàn thành tốt chỉ tiêu, nhiệm
vụ của từng năm học. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nhà trường đang từng
bước phát triển bền vững và ngày càng trưởng thành, đã đang và sẽ trở thành
một ngôi trường có chất lượng giáo dục cao, chuyển biến mạnh mẽ, một địa chỉ
tin cậy của cha mẹ học sinh và học sinh địa phương. Kế hoạch chiến lược phát
triển nhà trường giai đoạn 2010- 2015, nhằm xác định rõ định hướng, mục tiêu
chiến lược và các giải pháp chủ yếu trong quá trình vận động và phát triển, là cơ
sở quan trọng cho các quyết sách của hội đồng trường và hoạt động của ban
giám hiệu cũng như toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh nhà
trường. Xây dựng và triển khai kế hoạch chiến lược của trường tiểu học Trương
Công Định là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện nghị quyết
của Chính phủ về đổi mới giáo dục phổ thông. Cùng với các trường trong thành
phố xây dựng ngành giáo dục Thành phố Vũng Tàu phát triển theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, hội nhập với các nước khu vực và thế
giới.
* Điểm mạnh:
Trường Tiểu học Trương Công Định nằm trên địa bàn phường 8 – một
phường gần trung tâm Thành phố Vũng Tàu. Do đặc điểm tình hình, phường 8
tập trung nhiều hộ gia đình là cán bộ công chức nhà nước hoặc những hộ buôn
bán kinh doanh lớn, có điều kiện và rất quan tâm đến việc học tập của con cái.
Số lượng trẻ đúng độ tuổi trên địa bàn để tuyển sinh vào trường vừa đủ, phù hợp
với số lượng phòng học hiện có để mở lớp theo đúng mô hình lớp học 35em/
lớp. Trường luôn được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp chính quyền, của Phòng
giáo dục trong việc trang bị những đồ dùng dạy học cần thiết phục vụ cho hoạt
động dạy học. Đặc biệt uỷ ban nhân dân phường 8 tích cực hỗ trợ nhà trường
trong việc tuyên truyền vận động để nhân dân hiểu, đưa học sinh ra lớp đúng độ
tuổi, động viên học sinh có hoàn cảnh khó khăn đi học lại; động viên kịp thời
những học sinh và giáo viên có nhiều cố gắng, đóng góp nhiều cho giáo dục của
địa phương. Một số phụ huynh của trường khá nhiệt tình, quan tâm đến việc học

tập của con em. Cơ sở vật chất được đầu tư mới khang trang , đảm bảo tốt việc
dạy và học của giáo viên và học sinh. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình với học sinh,
có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy, xây dựng khối đoàn kết nội bộ tốt.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhà trường: 57; trong đó ban
giám hiệu: 3 ; Giáo viên: 46 ; nhân viên :08 . Trình độ chuyên môn : 100% đạt
chuẩn, trong đó có 36 cán bộ- giáo viên trình độ trên chuẩn.
- Đội ngũ cán bộ, giáo viên, công nhân viên: nhiệt tình, có trách nhiệm,
yêu nghề, gắn bó với nhà trường, mong muốn nhà trường phát triển, chất lượng
chuyên môn nghiệp vụ sư phạm đa số đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Chất lượng học sinh: Năm học 2010- 2011, tổng số học sinh: 1145; tổng
số lớp: 35; xếp loại học lực: Giỏi 32,5%; Khá: 47,9%; TB: 14,8%; Xếp loại
hạnh kiểm: Thực hiện đầy đủ: 100%.
- Cơ sở vật chất: Phòng học: 28; Phòng dạy mĩ thuật: 01; Phòng dạy tin
học: 01; Phòng dạy âm nhac: 01; Phòng nghe nhìn ( dạy ngoại ngữ): 01; Phòng
thư viện: 01; Phòng thiết bị: 01 ; Phòng truyền thống: 01; Phòng y tế học đường:
01; Phòng văn thư lưu trữ: 01; Phòng họp hội đồng: 01; Phòng làm việc của ban
giám hiệu: 03; Có đầy đủ sách, thiết bị, đồ dùng dạy học hiện đại đáp ứng được
yêu cầu dạy và học trong giai đoạn hiện đại.
* Hạn chế:
- Tổ chức quản lý của Ban Giám hiệu: Chưa tham mưu với các cấp lãnh
đạo để tuyển chọn được nhiều giáo viên, cán bộ có năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm cao. Đánh giá chất lượng chuyên môn của
giáo viên còn mang tính động viên, đôi lúc chưa thực chất.
- Trình độ của giáo viên chưa thật đồng đều, nên một số lớp chất lượng
giảng dạy còn thấp.
- Một số giáo viên lớn tuổi bảo thủ ít chịu học tập, cập nhật cái mới. Một
bộ phận giáo viên thiếu sức bật, chưa phấn đấu vươn lên, bằng lòng với khả
năng, tay nghề hiện tại. Việc cải tiến phương pháp còn chậm( ở một số giáo
viên). Chưa sử dụng triệt để và có hiệu quả các thiết bị dạy học.
- Thiếu giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng làm nòng cốt ở các tổ

khối nên việc đổi mới phương pháp giảng dạy hoặc quản lý, giáo dục học sinh.
- Cơ sở vật chất bước đầu đã đáp ứng yêu cầu nhưng vẫn còn phải tiếp tục
đầu tư bổ sung nhiều mới có thể hoàn thiện.
- Một bộ phận cha mẹ học sinh vẫn còn thiếu quan tâm phối hợp với nhà
trường, còn khoán trắng cho nhà trường việc giáo dục học sinh.
Qua những đặc điểm tình hình chung của nhà trường như trên. Hiệu
trưởng trường tiểu học Trương Công Định tổ chức quản lý hoạt động GDNGLL
theo các qui định và đặc thù riêng của nhà trường.
2. Phân tích thực trạng quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
của hiệu trưởng trường tiểu học Trương Công Định- Thành phố Vũng Tàu
và đề xuất biện pháp cải thiện thực trạng:
a. Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp:
* Xây dựng kế hoạch năm học của hoạt động GDNGLL:
+ Những việc đã làm được:
- Trước khi lập kế hoạch, hiệu trưởng đã tìm hiểu, nghiên cứu xác định rõ
được mục tiêu, nhiệm vụ của hoạt động GDNGLL, từ đó mới định hướng cho
việc lập kế hoạch.
- Ngày từ đầu tháng 8, kế hoạch hoạt động NGLL đã được hiệu trưởng xây
dựng cùng với việc dự thảo kế hoạch năm học 2010- 2011 của nhà trường dựa
trên cơ sở tình hình thực tế của nhà trường như về: vị trí địa lý, cơ sở vật chất,
tài chính của nhà trường, đội ngũ giáo viên, số lượng học sinh, và đặc biệt lấy
hoạt động GDNGLL của năm học trước làm cơ sở nền tảng, dựa vào mục tiêu
phát triển toàn diện nhân cách học sinh được xác định tại điều 23 luật giáo dục,
những nhiệm vụ cấp thiết của sự nghiệp giáo dục, của đất nước, của địa phương
trong tình hình mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gia nhập khu vực
thế giới, cùng với những công văn, chỉ thị chỉ đạo của ngành, của cấp trên về
việc thực hiện hoạt động GDNGLL, đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện học
sinh về mọi mặt, tạo nguồn nhân lực đầy đủ đức, tài.
- Hiệu trưởng cũng có quan tâm đến đặc điểm tình hình của địa phương
cũng như sự quan tâm của chính quyền, an ninh trật tự, kinh tế, văn hoá xã hội

của địa phương, sự quan tâm của phụ huynh học sinh, các lực lượng xã hội đến
học sinh nhà trường như thế nào. Từ đó vạch ra phương hướng kế hoạch, lịch
hoạt động cho toàn trường, từng khối lớp, từng thời kỳ, tiến tới ổn định thành nề
nếp thường xuyên, liên tục.
- Ví dụ: Kế hoạch hoạt động GDNGLL của các khối lớp như sau:
- Khi xây dựng kế hoạch, hiệu trưởng cũng đã căn cứ vào chủ đề năm học,
hướng dẫn của ngành về hoạt động GDNGLL để lập kế hoạch cho phù hợp.
* Hiệu trưởng đã lập kế hoạch các hoạt động GDNGLL theo thời gian như
sau:
+ Hàng ngày:
- Duy trì nề nếp của trường, của đội
- Đi học chuyên cần, đúng giờ, vệ sinh sân trường, lớp học sạch sẽ.
- Xếp hàng ra vào lớp, truy bài….
- Thể dục đầu giờ, giữa giờ, múa hát tập thể…
+ Hàng tuần:
- Sinh hoạt tiết chào cờ
- Sinh hoạt tiết hoạt động tập thể: Sinh hoạt lớp, đội, sao nhi đồng.
- Phát thanh măng non.
- Sinh hoạt thể dục thể thao.
- Vệ sinh toàn trường.
+ Hàng tháng
- Sinh hoạt chủ điểm, kỉ niệm ngày lịch sử, tổ chức ngày truyền thống.
Ví dụ: Ngày 22/ 12, hiệu trưởng mời bác cựu chiến binh của phường nói
chuyện về ý nghĩa cũng như truyền thống của bộ đội ta.
- Công tác xã hội, hoạt động về nguồn, giúp đỡ học sinh nghèo.
- Ví dụ: Phong trào áo trắng tặng bạn, tập trắng tặng bạn, đi thăm và lao
động nhổ cỏ, tưới cây ở Đền thờ liệt sĩ- Thành phố Vũng Tàu…
- Tổ chức văn nghệ, thi khéo tay, vẽ tranh, thi vở sạch chữ đẹp…
- Tổ chức dã ngoại, tham quan.
- Ví dụ: Tham quan Dinh Độc Lập, bến cảng Nhà Rồng, khu du lịch Suối

Tiên…
+ Hiệu trưởng cũng đã lập kế hoạch hoạt động GDNGLL cho từng học kì:
- Tổ chức thi nghi thức đội, cắm trại
- Sơ kết thi đua.
* Những việc chưa làm được:
- Kế hoạch hoạt động GDNGLL chưa được thảo luận, bàn bạc trước tập
thể giáo viên, nhân viên, tổ chuyên môn. Vì khi lập xong kế hoạch, hiệu trưởng
phô tô phát cho mỗi giáo viên một bản để tự nghiên cứu.
- Nội dung kế hoạch đơn giản, chưa đề ra được biện pháp cụ thể, nội dung
phối hợp chưa chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm, các cá nhân và tổ chức trong
nhà trường.
- Ví dụ: Thi thuyết trình về an toàn giao thông qua báo ảnh của học sinh,
hiệu trưởng gọi vài giáo viên nòng cốt rồi hiệu trưởng tự nêu ý tưởng . Sau đó
phân công miệng cho các giáo viên làm, không có kế hoạch cụ thể cho từng bộ
phận.
- Trong xây dựng kế hoạch, chưa dự kiến kinh phí cho toàn bộ hoạt động
GDNGLL cả năm học. Trong năm tổ chức mấy hoạt động lớn? Mỗi hoạt động
cần bao nhiêu kinh phí? Mấy hoạt động nhỏ? Hết bao nhiêu kinh phí?
- Trong kế hoạch chưa tính kĩ đến các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết
bị, con người…
- Kế hoạch chỉ mang tính hình thức. Kế hoạch chưa phải là công cụ quản lý
của hiệu trưởng. Kế hoạch chưa có tính khả thi.
- Ví dụ: Trong kế hoạch năm học ( tháng 3) có đề ra : Ra báo tường về
ngày quốc tế phụ nữ. Nhưng hết tháng 3 cũng chẳng thấy tờ báo tường của lớp
nào. Hiệu trưởng cũng chẳng mấy quan tâm đến việc này. Hay trong kế hoạch
còn đề ra hoạt động như: Sưu tầm tranh ảnh về anh bộ đội, về quê hương đất
nước. Nhưng đến hết tháng 12 cũng không thấy tổng phụ trách nhắc nhở gì mà
hiệu trưởng cũng không đả động gì.
- Việc lập kế hoạch một số nội dung còn chung chung. Chưa cụ thể cho
từng cá nhân, bộ phận hiểu, nắm rõ từng vấn đề, nội dung trong kế hoạch để

thực hiện cho phù hợp, đúng đắn.
- Việc lập kế hoạch hoạt động GDNGLL tuy có dựa trên kế hoạch chung
của nhà trường, nhưng việc liên hệ, gắn kết giữa hoạt động này với các hoạt
động khác trong nhà trường như kế hoạch dạy học, kế hoạch cơ sở vật chất, đội
chưa chặt chẽ nên đôi khi còn chồng chéo, trùng lắp.
- Việc soạn thảo kế hoạch ở tháng 8 nhưng đến giữa tháng 9 mới triển khai
kế hoạch thực hiện, nên một số kế hoạch bị trễ nải, hiệu quả chưa cao.
- Ví dụ: Tháng 8, học sinh học tập nội qui nhà trường, nhưng đến tháng 9,
tổng phụ trách mới phát nội qui đến cho giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, học sinh
đã học được nửa tháng mới được học nội qui học sinh.
- Hiệu trưởng quan tâm nhiều đến các chỉ tiêu về số lượng mà quên đi với
số lượng như thế thì chất lượng phải đạt thế nào, ở mức độ nào, để có cơ sở cho
các cá nhân, bộ phận đề ra nội dung, kế hoạch hoạt động cho phù hợp.
- Trong kế hoạch hiệu trưởng chưa nêu được chỉ tiêu cần đạt cho các hoạt động.
- Ví dụ: Phong trào kế hoạch nhỏ, chỉ tiêu cần đạt là bao nhiêu? Phong trào
vở sạch chữ đẹp, chỉ tiêu cần đạt là bao nhiêu?
* Nguyên nhân:
- Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch hoạt động GDNGLL chỉ mang tính hình
thức mà không chú ý nhiều đến nội dung trong bản kế hoạch.
- Các cá nhân trong trường không biết đến việc lập bản kế hoạch hoạt động
GDNGLL.
* Đề xuất:
- Khi xây dựng xong kế hoạch hoạt động GDNGLL, hiệu trưởng cần phô tô
và phát cho các cá nhân, tổ khối để họ trao đổi bàn bạc, góp ý, bổ sung những
điều cần thiết để bản kế hoạch hoàn hảo và có sự thống nhất trong mọi hoạt
động.
- Hiệu trưởng cần xây dựng nội dung kế hoạch, biện pháp cụ thể, tránh
chung chung, sơ sài sẽ dẫn đến hiệu quả không đạt yêu cầu.
- Hiệu trưởng phải có kế hoạch đều đặn, cân đối từ đầu năm đến cuối năm.
- Đầu năm học, khi lập kế hoạch cho các hoạt động trong nhà trường nên có

sự phối hợp liên hệ gắn kết giữa các hoạt động của các cá nhân, bộ phận để
tránh sự chồng chéo, trùng lặp, không thống nhất.
- Ví dụ: Tháng 11, Các lớp ra báo tường về ngày nhà giáo Việt Nam. Đồng
thời tổ chức đêm văn nghệ chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. Tổ chức phong
trào thi đua dạy tốt, học tốt. Phong trào bông hoa điểm 10 tặng thầy cô. Tổ chức
hội khoẻ Phù Đổng. Như vậy, chỉ trong tháng 11 đã có rất nhiều hoạt động phải
thực hiện, làm cho giáo viên và học sinh xoay không kịp. Chính vì vậy, hiệu
trưởng có thể lên kế hoạch dãn ra vào các tháng để kế hoạch sẽ khả thi hơn. Như
hội khoẻ Phù Đổng có thể tổ chức vào tháng 10…
- Sau khi xây dựng kế hoạch xong, hiệu trưởng cần phải thông qua, lấy ý
kiến đóng góp của tất cả cán bộ, giáo viên, đại diện các tổ khối…Từ đó hiệu
trưởng sẽ họp ban liên tịch và thống nhất, bổ sung những điều cấn thiết, hợp lý
để bản kế hoạch hoàn hảo và có sự đồng bộ hơn.
- Hiệu trưởng cần xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, xây dựng các lực
lượng giáo dục, cơ sở vật chất, tài chính cho hoạt động GDNGLL nhằm đảm
bảo các điều kiện để thực hiện kế hoạch đã vạch ra.
- Khi xây dựng kế hoạch, hiệu trưởng cần dự kiến kinh phí cho từng hoạt
động lớn nhỏ khác nhau để các hoạt động diễn ra một cách chủ động hơn.
- Ví dụ: Hoạt động hội khoẻ Phù Đổng do Thành phố tổ chức, thuê người
luyện tập. Sau đó cử giáo viên đưa đi thi, hiệu trưởng không dự trù kinh phí.
Cần mua nước uống, đồ ăn sáng cho học sinh, hay quần áo đồng phục cho đội
bóng, hiệu trưởng phân công giáo viên mua. Giáo viên tự bỏ tiền túi ra mua. Có
khi cả nửa năm sau cũng chưa thanh toán được. Hiệu trưởng bảo: Lấy hoá đơn
đỏ về thanh toán. Nhưng bánh mì, trái cây, nước uống thì lấy đâu ra hoá đơn đỏ
chứ. Chính vì vậy, các phong trào khi giáo viên được phân công phụ trách, họ
đều từ chối hoặc không nhiệt tình vì ngại không thanh toán được tiền mình bỏ
ra.
- Hiệu trưởng nên kiểm tra ký duyệt, kiểm tra kế hoạch, nội dung hoạt động
của các bộ phận có liên quan đến hoạt động GDNGLL. Mỗi tháng ký một lần
vào đầu tháng, có điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với đặc điểm tình hình ở

từng nơi, từng lúc.
- Hiệu trưởng cần có biện pháp xử lý những trường hợp mà cá nhân, bộ
phận cố tình làm sai kế hoạch, lịch hoạt động của nhà trường đã thống nhất đề
ra, làm ảnh hưởng đến hoạt động chung của nhà trường.
- Kế hoạch phải được xây dựng trong sự phối hợp kế hoạch các bộ phận
trong trường. Chương trình hoạt động giáo dục NGLL có thể trình bày như sau:
Thời gian
Chủ điểm
giáo dục
Nội dung và hình
thức hoạt động
Mục đích
yêu cầu
Phân công
thực hiện
Điều kiện
thực hiện
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12
Tháng 01

Tháng 6,
7,8
b. Hiệu trưởng tổ chức thực hiện kế hoạch:
* Những việc đã làm được:
- Hiệu trưởng đã tổ chức được lực lượng thực hiện gồm:
- Thành lập ban chỉ đạo chung cho toàn trường gọi ban GDNGLL.
- Theo thông tư ngày 15/10/1988 của Bộ giáo dục đã qui định về việc thành

lập ban chỉ đạo hoạt động GDNGLL trong nhà trường, nên đầu năm học( trong
tháng 9). Hiệu trưởng đã chủ động thành lập ban GDNGLL vói các thành phần
gồm:
- Trưởng ban: Ông Vũ An Toàn- Hiệu trưởng.
- Phó ban: Vũ Thị Tuyết – Phó hiệu trưởng chuyên môn – Nguyễn Thị
Thuỷ - Tổng phụ trách đội.
- Thành viên: Giáo viên chủ nhiệm, khối trưởng các tổ khối.
- Hiệu trưởng đã lựa chọn được Tổng phụ trách Đội biết tổ chức hoạt động
GDNGLL.
- Hiệu trưởng đã tổ chức cho giáo viên chủ nhiệm thực hiện một số hoạt
động GDNGLL. Từ đó đã khơi dậy cho học sinh niềm yêu thích hoạt động giáo
dục NGLL.
* Những việc chưa làm được:
- Hiệu trưởng chưa huy động được các lực lượng bên ngoài nhà trường
như: Ban đại diện hội cha mẹ học sinh vào ban giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Hiệu trưởng chưa phân công trách nhiệm cho từng đối tượng một cách cụ
thể, rõ ràng nên đôi khi còn bị chồng chéo.
- Ví dụ: Phân công ai phụ trách văn nghệ? Ai phụ trách thể dục thể thao?
Ai phụ trách các phong trào do Thành phố hoặc nhà trường tổ chức? Nên đôi
khi có phong trào nào thi hiệu trưởng mới tìm người tham gia.
- Ví dụ: Trong tháng 11, trường tổ chức đêm văn nghệ chào mừng nagỳ
nhà giáo Việt Nam. Hiệu trưởng phân công cô Kim Ánh phụ trách mảng văn
nghệ, nhưng cô Ánh lại ra thi giáo viên giỏi cấp thành phố cũng vào tháng 11.
Như vậy, cô Ánh cũng khó hoàn thành cả hai nhiệm vụ một lúc…
- Giáo viên chủ nhiệm chưa được giao nhiệm vụ cụ thể thường xuyên về
việc sẽ tổ chức hoạt động GDNGLL.
* Nguyên nhân:
- Hiệu trưởng vẫn làm việc theo phương pháp cũ, khi nào cần đến hội cha
mẹ học sinh việc gì thì gọi điện nhờ giúp đỡ mà không có kế hoạch đưa họ vào
ban hoạt động ngoài giờ lên lớp ngay từ đầu năm học, để họ có thể kết hợp với

nhà trường chủ động trong công việc.
- Ví dụ: Trong tháng 9 có thi làm lồng đèn, hiệu trưởng gọi điện thoại cho
một vài phụ huynh có khả năng đến cùng làm. Đôi khi họ nể nhà trường mà làm
thôi, chứ thực chất họ cũng không thích cách làm việc như vậy.
- Hiệu trưởng chưa coi trọng hoạt động GDNGLL nên việc phân công đúng
người, đúng việc chưa chặt chẽ.
- Hiệu trưởng không tổ chức thực hiện kế hoạch này có khoa học mà chỉ
làm theo ngẫu hứng.
- Còn không ít phụ huynh không cho con em tham gia các hoạt động ngoài
giờ lên lớp, chỉ cho con tham gia giờ học chính khoá, còn thời gian còn lại phải
giúp bố mẹ làm những công việc nhà.
* Đề xuất:
- Khi xây dựng lực lượng, hiệu trưởng cần đưa đầy đủ đại diện các ban
ngành cùng tham gia vào hoạt động GDNGLL. Đặc biệt là đại diện hội cha mẹ
học sinh để họ có thể cùng với nhà trường thực hiện tốt hoạt động GDNGLL.
- Ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng cần nắm được năng lực cũng như hoàn cảnh
của giáo viên, nhân viên để có thể phân công trách nhiệm cho từng đối tượng
một cách phù hợp. Chứ không phải cứ có hoạt động nào là hiệu trưởng gọi giáo
viên rồi phân công bằng miệng công việc cho người đó.
- Ví dụ: Ai có năng khiếu về văn nghệ thì phân công phụ trách mảng văn
nghệ. Ai có năng lực về thể dục thể thao thì phụ trách về thể dục thể thao…
- Thông qua giáo viên chủ nhiệm, động viên và tổ chức nhiều hoạt động
hấp dẫn để thu hút sự tham gia của các em học sinh.
- Hiệu trưởng cần giao nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể, thường xuyên cho giáo
viên chủ nhiệm để họ thấy được tầm quan trọng của hoạt động GDNGLL.
c. Hiệu trưởng chỉ đạo các lực lượng giáo dục trong nhà trường.
+ Những việc đã làm được:
- Hiệu trưởng đã có biện pháp quản lý chỉ đạo, làm cho đội ngũ cán bộ giáo
viên, nhân viên nhiệt tình tham gia vào hoạt động GDNGLL.
- Đa số học sinh tích cực tham gia vào hoạt động GDNGLL.

- Được sự ủng hộ của các tổ chức, ban ngành, đoàn thể trong và ngoài
trường.
- Hiệu trưởng tạo mọi điều kiện để giáo viên chủ nhiệm làm tốt chức năng
của mình, đồng thời đôn đốc họ làm tốt các nhiệm vụ được giao.
- Hiệu trưởng giao cho hiệu phó chuyên môn thường xuyên kiểm tra sổ chủ
nhiệm, xem giáo viên có nắm vững đối tượng học sinh lớp mình phụ trách
không? Về đặc điểm, tính cách, năng lực, năng khiếu và thiên hướng của mỗi
em để đưa các em vào các hoạt động cho phù hợp.
- Ví dụ: Trong sổ chủ nhiệm, giáo viên cần nêu rõ xem em nào có năng
khiếu văn nghệ? Đá bóng? Cờ vua? Đá cầu? Để nhà trường có kế hoạch bồi
dưỡng ngay từ đầu năm học, chuẩn bị tốt cho các phong trào do Thành phố tổ
chức.
- Hiệu trưởng luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Đội.
- Ví dụ: Khi có các phong trào lớn như thi nghi thức đội do hội đồng Đội
thành phố tổ chức. Hiệu trưởng huy động các giáo viên tạo điều kiện cho học
sinh tập luyện. Bỏ nhiều thời gian và công sức đầu tư cho phong trào. Cho tổng
phụ trách đi học hỏi các trường bạn để có thêm kinh nghiệm về tập luyện cho
học sinh.
- Hiệu trưởng chỉ đạo tổng phụ trách đội xây dựng kế hoạch hoạt động Đội
phù hợp với kế hoạch nhà trường.
- Ví dụ: Kế hoạch tháng 11 của nhà trường là: Thi đua dạy tốt, học tốt .
Vậy tổng phụ trách phải lên kế hoạch cho học sinh thực hiện, đó là : Phong trào
bông hoa điểm 10 dành tặng thầy cô nhân ngày 20/11. Phong trào có thể thực
hiện từ đầu tháng 11 và kết thúc vào ngày 19 tháng 11. Như vậy, kế hoạch của
Đội và của nhà trường luôn đi đôi với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
- Hiệu trưởng đã biết phối hợp với hội cha mẹ học sinh. Thông qua ban
thường trực hội, phát động những chủ trương của nhà trường, huy động mọi
điều kiện về thời gian, kinh phí hỗ trợ con em tham gia tốt các hoạt động
GDNGLL.
- Ví dụ: Để tổ chức thành công đêm văn nghệ chào mừng ngày 20- 11.

Hiệu trưởng thông qua ban thường trực hội, nêu mục đích yêu cầu nội dung cần
làm, xin hỗ trợ về kinh phí. Đồng thời đề nghị cha mẹ học sinh tạo mọi điều kiện
để học sinh tập luyện các tiết mục.
+ Những việc chưa làm được:
- Hiệu trưởng chưa thường xuyên kiểm tra kế hoạch hoạt động GDNGLL
của giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy, trong kế hoạch chủ nhiệm, giáo viên còn coi
nhẹ hoạt động giáo dục NGLL.
- Hiệu trưởng chưa chỉ đạo giáo viên và tổng phụ trách đội bồi dưỡng cán
sự lớp, ban chỉ huy chi Đội, Sao nhi đồng về kĩ năng tổ chức hoạt động.
- Đối với tổ khối chuyên môn, hiệu trưởng chưa quán triệt trong khối thống
nhất về các nội dung hoạt động trong từng khối lớp. Vì vậy, các khối chưa có sự
phối hợp với nhau trong các hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng chưa chỉ đạo về việc tổ chức bồi dưỡng, huấn luyện cho ban
chỉ huy Liên đội, Chi đội, ban Cờ đỏ.
- Đối với các lực lượng khác, hiệu trưởng chưa phối hợp chặt chẽ với Đảng,
Chính quyền, Hội phụ nữ phường… Để làm tốt các hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng chưa quán triệt giáo viên nhận thức về tầm quan trọng của
hoạt động GDNGLL, chưa trang bị cho họ một số kĩ năng cần thiết.
- Hiệu trưởng chưa trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho hoạt động GDNGLL
như: còn thiếu phòng truyền thống, hệ thống loa đài thường xuyên trục trặc, còn
thiếu các loại nhạc cụ, sân chơi, bãi tập chưa đạt tiêu chuẩn để học sinh hoạt
động.
• Nguyên nhân:
- Hiệu trưởng chưa thấy được tầm quan trọng của công tác chỉ đạo hoạt
động GDNGLL.
- Theo qui định của Chương trình giáo dục phổ thông ( Ban hành kèm theo
Quyết định số 16/ 2006/ QĐ- BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục đào tạo) thì mỗi tuần giáo viên chủ nhiệm tổ chức một buổi bằng 4
tiết hoạt động GDNGLL, về mặt hình thức, giáo viên đã tiến hành soạn bài có
các hoạt động rõ ràng. Song lại không cho học sinh sinh hoạt. Giáo viên thường

bỏ qua hoạt động GDNGLL. Chỉ khi nào nhà trường thông báo có kiểm tra mới
cho học sinh xuống sân cho có mà thôi.
- Hiệu trưởng chưa quan tâm đúng mức, chưa có biện pháp chỉ đạo phù hợp
kế hoạch hoạt động GDNGLL.
- Hoạt động GDNGLL được xác định trên cơ sở kế hoạch năm học của nhà
trường, song chưa đặt ra yêu cầu cụ thể đối với công tác này và xem như các
hoạt động bình thường của Nhà trường và toàn trường chỉ hoạt động thông qua
kế hoạch của Tổng phụ trách đội được cụ thể hoá tứ kế hoạch năm học và kế
hoạch chỉ đạo của Hội đồng Đội Thành phố. Các hoạt động này được tiến hành
hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng và chủ điểm.
- Đa số giáo viên chỉ chú trọng đến hoạt động GDNGLL tiến hành thông
qua dạy các môn học bắt buộc và tự chọn. Khi lên lớp, giáo viên chuẩn bị rất tốt
bài dạy, đồ dùng dạy học, nhiệt tình giảng dạy, thực hiện đổi mới phương pháp
giảng dạy, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Nhưng họ lại
ít quan tâm đến việc tổ chức hoạt động GDNGLL.
- Còn không ít phụ huynh không nhiệt tình cho con tham gia vào các hoạt
động GDNGL, chỉ cho con tham gia vào giờ học chính khoá. Sợ con không có
thời gian học bài và làm bài ở nhà.
- Ví dụ: Mỗi lớp 5 lấy 10 em vào đội nghi thức. Cũng phải đến vài phụ
huynh đến xin cho con ra khỏi đội với nhiều lý do khác nhau. Mặc dù các em rất
thích tham gia tập luyện. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân làm cho
hoạt động GDNGLL bị ảnh hưởng.
- Hoạt động GDNGLL chưa đa dạng, chưa phong phú, chưa thật sự thu hút
được các em.
- Ví dụ: Về hoạt động múa hát tập thể, cả một năm học, các em vẫn chỉ
được tập mỗi một bài duy nhất. Múa đi, múa lại, các em dễ nhàm chán và múa
lộn xộn, không đều.
- Việc động viên, khen thưởng đối với những cá nhân, tập thể có nhiều
đóng góp cho hoạt động GDNGLL của nhà trường chưa được hiệu trưởng quan
tâm kịp thời, đúng lúc, đôi lúc bị lãng quên, đã làm giảm sự nhiệt tình, năng nổ

ở một số giáo viên, học sinh đối với việc tham gia hoạt động GDNGLL, làm cho
hiệu quả làm việc bị giảm sút.
- Do công việc của hiệu trưởng nhiều nên công tác chủ nhiệm, giảng dạy,
hiệu trưởng thường giao cho hiệu phó chuyên môn, nên đôi khi hiệu trưởng chưa
nắm được sâu sát hết tình hình hoạt động GDNGLL của nhà trường.
* Đề xuất:
- Hiệu trưởng cần chỉ đạo sát xao Ban chỉ đạo hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng cần thường xuyên kiểm tra kế hoạch hoạt động GDNGLL
của giáo viên, cần góp ý những mặt mạnh và mặt yếu để giúp giáo viên hoàn
thành nhiệm vụ một cách tốt nhất.
- Hiệu trưởng cần chỉ đạo họp giao ban hàng tháng và quản lý bằng biên
bản họp giao ban hàng tháng đó.
Hiệu trưởng cần chỉ đạo công tác tuyên truyền, vận động các lực lượng
trong và ngoài nhà trường có nhận thức đúng đắn về hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng cần chỉ đạo tổ chức tập huấn kĩ năng tổ chức hoạt động tập
thể cho giáo viên, hướng dẫn soạn tích hợp hoạt động GDNGLL vào giáo án.
- Hiệu trưởng cần chỉ đạo cho Tổng phụ trách có kế hoạch bồi dưỡng cán
sự lớp, ban chỉ huy chi Đội, Sao nhi đồng về kĩ năng tổ chức hoạt động. Mỗi
tuần một buổi, Tổng phụ trách có thể tập hợp các em để bồi dưỡng về công tác
này.
- Hiệu trưởng chỉ đạo hoạt động tổ chuyên môn thông qua Ban chỉ đạo:
+ Sinh hoạt tổ chuyên môn.
+ Tổ chức các hoạt động mẫu trong khối, trong trường.
Ví dụ: Tổ chức một số buổi sinh hoạt mẫu, sinh hoạt cuối tuần, tổ chức trò
chơi như : Quà tặng âm nhạc…
- Hiệu trưởng chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thông qua Ban chỉ đạo thực hiện
tốt nhiệm vụ tổ chức các hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng trực tiếp quản lý mọi hoạt động của GVCN lớp, giúp đỡ, đôn
đốc GVCN phải nắm vững được đối tượng học sinh của lớp mình chủ nhiệm về
hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tính cách, sở trường của mỗi học sinh thông qua lí

lịch, thăm hỏi gia đình, bạn bè, qua giảng dạy hàng ngày, qua các hoạt động văn
nghệ, thể dục thể thao… mà nắm thiên hướng, năng khiếu, điều kiện của từng
em để đưa các em vào các hoạt động phù hợp.
- Bên cạnh đó, hiệu trưởng cũng tạo điều kiện cho GVCN hoàn thành
nhiệm vụ của mình bằng cách liên hệ với các trường tổ chức tốt hoạt động
GDNGLL như trường: Trưng Vương, Hạ Long, Nguyễn Thái Học… để giao
lưu, có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, trao đổi học tập lẫn nhau.
- Hiệu trưởng nên chỉ đạo hiệu phó chuyên môn thường xuyên kiểm tra kỹ
kế hoạch hoạt động GDNGLL của giáo viên để có thể bổ sung kịp thời những
mặt hạn chế hoặc thiếu sót.
- Hiệu trưởng nên chỉ đạo các tổ, khối, chủ nhiệm sinh hoạt định kì hàng
tháng để thống nhất nội dung, hình thức hoạt động trong khối lớp, đặc biệt là
xây dựng nội dung cho tiết sinh hoạt tập thể lớp cuối tuần. Sơ kết và rút kinh
nghiệm cho tháng trước.
- Cần qui định lề lối làm việc cho cụ thể, rõ ràng trong ban GDNGLL, giữa
hiệu trưởng với bí thư chi đoàn, tổng phụ trách; giữa giáo viên chủ nhiệm với bí
thư Đoàn, tổng phụ trách trong việc tổ chức các hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng cần chỉ đạo hiệu phó chuyên môn quan tâm chú trọng đến vai
trò của tổ chức chuyên môn, giáo viên bộ môn trong việc tổ chức hoạt động
GDNGLL cho học sinh, đồng thời cũng đã trực tiếp chỉ đạo tổ, giáo viên bộ
môn trong quá trình giảng dạy, ngoài việc truyền thụ kiến thức về môn học cho
các em phải kết hợp giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, tác phong, truyền thụ những
kiến thức, kinh nghiệm sống cho các em.
- Hiệu trưởng thông qua ban chỉ đạo để phối hợp nhịp nhàng với các tổ
chức, đoàn thể trong trường như: Công đoàn, Chi đoàn giáo viên, Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh tham gia tốt vào hoạt động GDNGLL.
- Hiệu trưởng cần tích cực thông qua Ban chỉ đạo phối hợp với các lực
lượng như: Cha mẹ học sinh, trung tâm Thể dục Thể thao, các lực lượng vũ
trang, công an phường…Tham mưu với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương
làm tốt công tác giáo dục hoạt động NGLL.

×