Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNoPTNT huyện gia bình tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.25 KB, 97 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn tốt nghiệp “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc
Ninh” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn
Thanh Phương. Các số liệu trong khóa luận được sử dụng trung thực, trong bài có
sử dụng một số tài liệu tham khảo đã được nêu trong danh mục tài liệu tham khảo.
Học viên

Nguyễn Thị Lụa
i
MỤC LỤC
2.1.4.2 . Nguồn vốn điều chuyển 2
2.1.4.3. Thực trạng hoạt động cho vay 4
2.2.2 Hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNo& PTNT
huyện Gia Bình 5
ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Hoạt động huy động vốn của Agribank Gia Bình 1
giai đoạn 2012-2014 1
2.1.4.2 . Nguồn vốn điều chuyển 2
Bảng 2.2: Nguồn vốn điều chuyển tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 2
2.1.4.3. Thực trạng hoạt động cho vay 4
Bảng 2.3 Hoạt động cho vay của Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 1
2.2.2 Hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNo& PTNT
huyện Gia Bình 5
Bảng 2.5 Doanh số cho vay trung và dài hạn tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 2
Bảng 2.5 phản ánh doanh số cho vay trung dài hạn có xu hướng tăng liên tục qua các năm, từ
mức 75.621 triệu đồng năm 2012 lên 128.105 triệu đồng năm 2014 là do các doanh nghiệp
dưới đà phục hồi của nền kinh tế đã có nhu cầu mua sắm trang thiết bị, máy móc, dây chuyền
công nghệ….Tuy nhiên tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong cơ cấu cho vay có xu hướng giảm,
từ mức tỷ trọng 29,8% năm 2012 xuống còn 27,5% năm 2014 do các khoản cho vay ngắn hạn đã


có sự tăng trưởng trở lại. 3
Bảng 2.6 Doanh số cho vay trung và dài hạn theo hình thức cho vay tại NHNo &PTNT huyện Gia
Bình giai đoạn 2012-2014 3
Bảng 2.7 Doanh số thu nợ trung và dài hạn tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 5
Bảng 2.8 Doanh số thu nợ theo hình thức cho vay tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 6
Bảng 2.9 Dư nợ cho vay trung, dài hạn tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 8
Bảng 2.10: Dư nợ cụ thể theo hình thức vay tại chi nhánh NHNo & PTNT 10
Gia Bình giai đoạn 2012-2014 10
Bảng 2.11 Tình hình nợ quá hạn trung và dài hạn tại Agribank Gia Bình giai đoạn 2012-2014 .12
Bảng 2.12 Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Gia Bình giai đoạn
2012-2014 13
Bảng 2.13 Nợ quá hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Gia Bình 14
giai đoạn 2012-2014 14
Bảng 2.14 Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo & PTNT 15
Gia Bình giai đoạn 2012-2014 15
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu cho vay trung và dài hạn dự kiến năm 2015 25
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Số
TT
Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
1 CN-DV Công nghiệp – dịch vụ
2 DN Doanh nghiệp
3 DSCV Doanh số cho vay
4 GĐ - CN Gia đình- cá nhân
5 GTCG Giấy tờ có giá
6 HTX Hợp tác xã
7 NSNN Ngân sách nhà nước
8 NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
9 NHTM Ngân hàng thương mại

10 TCTD Tổ chức tín dụng
11 TD Tín dụng
12 TGTCKT Tiền gửi tổ chức kinh tế
13 TGTCTD Tiền gửi tổ chức tín dụng
iv
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất kì một quốc gia nào, nhu cầu về vốn nói chung và vốn trung, dài
hạn nói riêng cho đầu tư phát triển kinh tế là rất cần thiết bởi vai trò quan trọng của
nó. Đối với doanh nghiệp, tín dụng trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn để cải
tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đối với nền kinh tế, tín
dụng trung, dài hạn là công cụ thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội. Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) thì hoạt động
tín dụng nói chung hay hoạt động tín dụng trung, dài hạn là một trong những hoạt
động mang lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Tuy vậy, hoạt động tín dụng trung, dài hạn của NHTM cũng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, khi xảy ra rủi ro thì tổn thất là rất lớn do các khoản tín dụng này thường có
thời hạn dài, giá trị lớn. Thực tế, trong những năm vừa qua đã có những vụ đổ bể tín
dụng làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng
đặc biệt là chất lượng tín dụng trung, dài hạn trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các NHTM hiện nay.
Để nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói
riêng, bên cạnh sự khuyến khích, ưu tiên của Nhà nước cần thiết phải có sự nghiên
cứu, đưa ra những giải pháp cụ thể và chi tiết dựa trên các yếu tố chủ quan và khách
quan của từng chi nhánh tín dụng, hướng tới mục tiêu phát triển của ngân hàng và
toàn bộ nền kinh tế.
NHNo & PTNT huyện Gia Bình là một chi nhánh thuộc hệ thống ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, trong giai đoạn qua chi nhánh đang
nỗ lực từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể tồn tại và phát
triển bền vững. Để thực hiện được điều này, một trong những nhiệm vụ đầu tiên và

trọng tâm của chi nhánh là nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng nói chung và
chất lượng nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn nói riêng. Bởi lẽ, hiện nay hoạt động
tín dụng trung, dài hạn tại chi nhánh Agribank Gia Bình còn tồn tại nhiều vấn đề bất
cập, trong đó đáng chú ý là mặc dù nguồn vốn huy động của chi nhánh đang tăng
1
dần trong những năm gần đây nhưng cho vay trung, dài hạn vẫn còn hạn chế; hoạt
động marketing chưa được chú trọng; nhiều khoản vay khó thu hồi và đội ngũ cán
bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm và chuyên môn dẫn tới nhiều rủi ro trong quá
trình tác nghiệp.
Hiện nay, hoạt động tín dụng của chi nhánh còn giới hạn trong phạm vi nhỏ,
chủ yếu trong lĩnh vực khuyến khích phát triển nông nghiệp, lợi nhuận thu được còn
chưa tương xứng với tiềm năng khi chỉ chiếm dưới 40% lợi nhuận toàn chi
nhánh.Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế trên địa bàn huyện, sự thành
lập của hàng loạt doanh nghiệp tư nhân, khu công nghiệp mới đã và đang đặt ra
những cơ hội lớn cũng là thách thức cho toàn thể ban lãnh đạo, cán bộ chi nhánh
trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng và hoạt động của toàn chi nhánh
nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của vấn đề trên, với những
kiến thức đã được học tập và xuất phát từ thực tế quá trình làm việc và nghiên cứu
tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Gia Bình em đã lựa chọn đề tài: “Chất lượng
tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Gia Bình tỉnh
Bắc Ninh” để thực hiện luận vănThạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung, dài hạn là đối
tượng nghiên cứu của rất nhiều công trình.
Nguyễn Hoàng Lan (2007), với đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc
Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả
đã làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn hỗ trợ đầu tư
phát triển. Phân tích chất lượng tín dụng trung dài hạn của Chi nhánh Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội giai đoạn 2004-2007 từ đó chỉ ra những ưu điểm,
tồn tại trong việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn hỗ trợ đầu tư phát triển
của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Bắc Hà Nội. Cuối cùng, tác giả đã
phân tích các nguyên nhân của các tồn tại và đưa ra hệ thống các giải pháp khắc
2
phục nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Bắc Hà Nội.
Nguyễn Thị Hồng Nhung (2009), với đề tài “Thực trạng cho vay đối với làng
nghề tại NHNo & PTNT huyện Gia Bình giai đoạn 2007 -2009”, Luận văn thạc sĩ
kinh tế. Mảng cho vay phát triển làng nghề là một trong những khía cạnh tín dụng
đã và đang được triển khai tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Gia Bình trong bối
cảnh trên địa bàn huyện tập trung rất nhiều cơ sở sản xuất, làng nghề: Mây tre đan
Xuân Lai, Đúc đồng Đại Bái, May gia công. Trong công trình nghiên cứu của mình,
tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về cho vay phát triển làng nghề. Thực trạng cho vay
đối với làng nghề tại NHNo & PTNT huyện Gia Bình từ đó đưa ra các giải pháp mở
rộng cho vay phát triển làng nghề tại chi nhánh trong giai đoạn tới
Ngô Thanh Phúc (2012), “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi Nhánh Tây Đô”, Luận văn thạc sỹ
kinh tế. Trong luận văn, tác giả đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản về tín
dụng và chất lượng tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Một hệ thống
các chỉ tiêu định tính và định lượng đã được đề cập nhằm giúp đánh giá chính xác
về chất lượng tín dụng của mỗi NHTM. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng
tín dụng tại Agribank Chi nhánh Tây Đô qua 3 năm 2009, 2010, 2011 tác giả đã
phân tích và làm rõ những kết quả đạt được, một số hạn chế cũng như những
nguyên nhân của hạn chế đó cũng đã được chỉ ra. Từ những định hướng hoạt động
tín dụng và chất lượng tín dụng tại Agribank Chi nhánh Tây Đô giai đoạn đến năm
2015, tác giả đã đưa ra một số quan điểm về nâng cao chất lượng tín dụng cũng như
đề xuất hệ thống các giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín
dụng tại ngân hàng này.
Ở các công trình khoa học trên, vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đã được

nhiều tác giả đề cập, tuy nhiên mỗi đề tài có một cách tiếp cận và nội dung nghiên
cứu khác nhau tùy vào tình hình thực tế và đặc điểm của từng ngân hàng, địa
phương.
3
Trong đề tài “Chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh
NHNo&PTNT huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh” tác giả tập trung nghiên cứu về
thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện
Gia Bình nhằm đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung
,dài hạn tại đơn vị trong thời gian sắp tới.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về hoạt động tín dụng nói chung,hoạt
động tín dụng trung và dài hạn của NHTM nói riêng và chất lượng tín dụng trung và
dài hạn
- Phân tích thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh
NHNo & PTNT Gia Bình từ đó đánh giá kết quả đạt được, phát hiện những hạn chế
và nguyên nhân của những hạn chế.
- Trên cơ sở những hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế, tác giả đề
xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
trung và dài hạn tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Gia
Bình
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu:
- Sử dụng dữ liệu thứ cấp thông qua tư liệu giáo trình, sách về hoạt động của
NHTM, các quyết định, thông tư điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của
NHTM
- Số liệu thực tế trên các báo cáo thường niên, báo cáo tài chính, báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh năm 2012, 2013, 2014.
- Thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua quan sát, trao đổi, thảo luận trực tiếp với
cán bộ ngân hàng
Phương pháp xử lý dữ liệu: Phân tích, thống kê, so sánh và tổng hợp

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tín dụng trung và dài hạn, chất lượng tín
dụng trung và dài hạn. Trong luận văn tác giả tập trung nghiên cứu chất lượng hoạt
động cho vay trung và dài hạn
Phạm vi :
- Về không gian nghiên cứu: Ngân hàng NHNo & PTNT chi nhánh huyện
Gia Bình
- Về thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2012 - 2014
4
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục bảng biểu thì luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng Ngân hàng và chất lượng tín dụng trung
và dài hạn của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh
NHNo & PTNT huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại
chi nhánh NHNo & PTNT huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TRUNG, DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra
đời, tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ra đời là một tất yếu,
khách quan của nền kinh tế xã hội. Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời rất lâu nhưng
cho đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất về tín dụng.
Theo Các Mác thì: “Tín dụng dưới hình thái biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít
nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó

dưới hình thái hàng hoá hoặc được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này
bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời gian đã được ấn định” .
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì: “Tín dụng là một phạm trù
kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ
này người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho
vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Đến kỳ hạn trả nợ người đi vay
có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có kèm hoặc không
kèm một khoản lãi” .
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là quan hệ
lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi
sau một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh
tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường
quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá
nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền hoàn trả (gốc và
lãi), thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi…
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ
chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản
6
tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”.
Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi
vay, trong đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng vừa là bên đi vay, vừa là bên cho
vay. Bên cho vay chuyển giao tạm thời quyền sử dụng tài sản cho bên đi vay trong
thời gian thỏa thuận, bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả lại vô điều kiện đầy đủ vốn và
lãi cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
Như vậy, tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là
quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD
với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.1.2 Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Ngoài những đặc điểm chung của hoạt động tín dụng, tín dụng ngân hàng còn

có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay chủ yếu dưới hình thức tiền
tệ: cho vay bằng tiền tệ là loại hình tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối
tượng trong nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập
tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Có những
trường hợp mà nhu cầu tín dụng ngân hàng gia tăng nhưng sản xuất và lưu thông
hàng hoá không tăng, nhất là trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng, sản xuất và lưu
thông hàng hoá bị co hẹp nhưng nhu cầu tín dụng vẫn gia tăng để chống tình trạng
phá sản. Ngược lại trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản
xuất, hàng hoá lưu chuyển tăng mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng
kịp. Đây là một hiện tượng rất bình thường của nền kinh tế.
Hơn nữa tín dụng ngân hàng còn có một số ưu điểm nổi bật so với các hình
thức khác là:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn
của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng
tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn
Thứ hai, tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay
7
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn
với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn vay
Thứ ba, tín dụng ngân hàng có phạm vi lớn vì nguồn vốn bằng tiền là thích
hợp với mọi đối tượng trong nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tượng vay.
1.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.3.1 Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên
nguồn vốn tự có và vốn tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác.
Trong đó vốn tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả, ưu thế
vượt trội về số lượng và thời hạn, đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng

thường thấp hơn chi phí sử dụng các nguồn vốn khác
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp - dịch vụ và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
Trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất, mở rộng
hoạt động, mọi chu kỳ đều phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền. Do đó, để
tăng nhanh vòng quay vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện
nhiều biện pháp như cải tiến kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới Tất cả những công
việc trên đòi hỏi phải có nhiều vốn mà tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn
cho các nhu cầu đó một cách đầy đủ và kịp thời nhất. Mặt khác, vốn ngân hàng cấp
cho các nhà kinh doanh bằng việc cho vay với điều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi
theo thời hạn quy định. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện
pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ gốc và lãi
đúng hạn. Chính quá trình này đã góp phần tạo cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng
phát triển.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan
hệ giao lưu kinh tế quốc tế
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một quốc gia phải luôn
gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong đó, đầu tư vốn ra nước
8
ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác thông dụng và
phổ biến giữa các nước.Vốn là nhân tố đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này.
Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh doanh nào
cũng đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ,
thông qua hoạt động tín dụng sẽ là “nhà tài trợ” đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền
tệ lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào kênh lưu thông qua kênh tín dụng
Ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua
hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi ngân hàng mở rộng hoặc thắt chặt tín dụng sẽ
tác động đến lượng tiền trong lưu thông. Do đó, khi NHNN muốn tăng khối lượng

tiền trong lưu thông thì có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền
kinh tế và ngược lại.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
1.1.3.2 . Đối với khách hàng
Thứ nhất, đáp ứng nhu cầu đa dạng về vốn của khách hàng
Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho
khách hàng. Với các ưu điểm như an toàn, thuận tiện và nhanh chóng, có khả năng
đáp ứng được nhu cầu vốn lớn của khách hàng.
Thứ hai, giúp doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh
Tín dụng ngân hàng giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh,
doanh nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để
trang trải cho các khoản chi tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Tín dụng ngân hàng ràng buộc trách nhiệm khách hàng phải hoàn trả gốc và
lãi trong thời gian nhất định như thỏa thuận. Do đó, buộc khách hàng phải nỗ lực,
tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay hiệu quả, đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho
9
ngân hàng.
1.1.3.3 . Đối với Ngân hàng
Thứ nhất, tín dụng là hoạt động truyền thống, dư nợ tín dụng chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng tài sản có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng
Ngân hàng thu được lợi nhuận thông qua các hoạt động dịch vụ, cung cấp cho
khách hàng như thanh toán, tư vấn quan trọng nhất là hoạt động hoạt động tín dụng.
Sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là phần thu nhập chủ
yếu của ngân hàng.
Thứ hai, tín dụng giúp ngân hàng mở rộng và duy trì khách hàng trong tương
lai

Khi ngân hàng cấp cho khách hàng một khoản tín dụng chính là ngân hàng
đang tạo ra mối liên kết với khách hàng. Khi có được mối quan hệ, thông tin, ngân
hàng có thể thu hút khách hàng sử dụng đa dạng các sản phẩm dịch vụ do mình
cung cấp, như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…. Từ đó, tạo
điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động và khẳng định vai trò cũng như vị thế của
mình trong nền kinh tế.
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo từng nhóm dựa trên một
số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu
quả hoạt động của Ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được phân loại theo các tiêu
thức sau :
1.1.4.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này người ta chia tín dụng thành 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Tín dụng ngắn hạn bao gồm chiết khấu, thấu
chi, tín dụng ứng trước và tín dụng bổ sung vốn lưu động.
- Tín dụng trung và dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay hơn một năm,
chủ yếu sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị,
công nghệ, mở rộng thiết bị sản xuất kinh doanh, xây dựng dự án kinh doanh, xây
10
dựng nhà ở, mua phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng xí nghiệp mới.
1.1.4.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này tín dụng được chia thành hai loại:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức cấp tín dụng phục vụ
quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh. Đây là loại
tín dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh của các NHTM
- Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu mua sắm nhà cửa,
các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường
của đời sống

1.1.4.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng cho vay
Căn cứ theo tiêu thức này tín dụng được chia thành hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: là loại tín dụng được ngân hàng cung ứng trên cơ sở
người vay phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người
thứ ba
- Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp): là loại tín dụng không cần tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc không cần sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng xin vay
1.1.4.4. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng
Căn cứ theo tiêu thức này có thể chia tín dụng thành 4 loại:
- Chiết khấu giấy tờ có giá: Ngân hàng thương mại đứng ra trả trước các hối
phiếu hoặc các chứng từ có giá khác chưa đến hạn thanh toán theo yêu cầu của
người thụ hưởng bằng cách khấu trừ ngay một số tiền nhất định được gọi là chiết
khấu, số tiền khấu trừ được tính theo giá trị chứng từ, thời hạn chiết khấu, lãi suất
và các tỷ lệ chiết khấu khác, số tiền còn lại thanh toán cho người thụ hưởng
11
- Cho vay: là loại hình thông dụng nhất trong hoạt động tín dụng. Đây là hình
thức ngân hàng cho khách hàng vay tiền để phục vụ cho những mục đích khác nhau
của khách hàng. Cho vay có các loại sau:
+ Thấu chi: là một kỹ thuật cho vay theo đó ngân hàng cho phép khách hàng
chi vượt số dư có trên tài khoản thanh toán của khách hàng để thực hiện các giao
dịch thanh toán kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống.
+ Cho vay từng lần: áp dụng cho các đơn vị tổ chức kinh tế có nhu cầu vay
vốn không thường xuyên có tính chất đột xuất, không được ấn định hạn mức tín
dụng
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là số dư nợ cho vay cao nhất mà ngân hàng
cam kết sẽ thực hiện cho một khách hàng, có hiệu lực trong một thời gian nhất định,
thường là 1 năm. Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở nhu cầu vay vốn của
khách hàng và khả năng đáp ứng của ngân hàng
+ Cho vay hợp vốn: Là loại hình cho vay, trong đó một nhóm ngân hàng

thương mại cùng tham gia tài trợ chung một dự án vay. Trong đó, một ngân hàng
làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các ngân hàng còn lại để cùng cho vay.
+ Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng cho vay bất động sản nhà ở,
vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ có thu nhập thường
xuyên
- Bảo lãnh: Là hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết
bằng văn bản của ngân hàng với bên thụ hưởng bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho khách hàng của mình, khi khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. Khách hàng phải
nhận nợ và hoàn trả lại cho ngân hàng số tiền đã được trả thay
- Bao thanh toán: là nghiệp vụ tín dụng gián tiếp của ngân hàng thương mại,
theo đó, ngân hàng thương mại đồng ý cung cấp tín dụng cho nhà cung cấp nếu nhà
12
cung cấp xuất trình một bộ chứng từ thanh toán, trên cơ sở hợp đồng thương mại đã
ký kết với bên mua.
1.2. Tín dụng trung và dài hạn
1.2.1. Khái niệm tín dụng trung và dài hạn
Trong hoạt động kinh doanh của NHTM, tín dụng trung và dài hạn được hiểu
là: ”hoạt động tài chính cho khách hàng vay vốn trung –dài hạn nhằm thực hiện các
hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống”. Tùy theo từng quốc
gia, từng thời kỳ mà hoạt động tín dụng được quy định cụ thể.
Hiện nay, thời hạn của tín dụng trung, dài hạn ở Việt Nam được Ngân Hàng
Nhà Nước quy định trong điều 8, Quy chế cho vay với khách hàng (T12/2001) như
sau:
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 1-5 năm.
- Thời hạn cho vay dài hạn là từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân
và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống
Nói chung, tín dụng - trung và dài hạn được cấp để hình thành vốn cố định của

khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của doanh
nghiệp để từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn trung-dài hạn rất
lớn, trong khi các doanh nghiệp chưa có nhiều thời gian để tích lũy vốn và chưa tích
lũy được nhiều. Đồng thời việc đầu tư của công chúng qua việc mua trái phiếu, cổ
phiếu do các doanh nghiệp phát hành còn là một vấn đề hạn chế. Trong thực tiễn
nhu cầu về vốn trung –dài hạn của các doanh nghiệp chủ yếu đáp ứng bởi vốn tự có
của doanh nghiệp và đa phần là bằng sự tài trợ của hệ thống ngân hàng thương mại
thông qua hoạt động tín dụng trung –dài hạn.
1.2.2 Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
13
Thứ nhất, độ rủi ro cao
Tín dụng trung và dài hạn phần lớn tài trợ cho bất động sản, xây dựng cơ sở hạ
tầng, hay đổi mới công nghệ. Do đó, việc tài trợ đòi hỏi một khối lượng vốn lớn,
thời gian đầu tư dài. Trong khi đó nguồn trả nợ chủ yếu dựa vào khấu hao và lợi
nhuận tăng thêm của dự án đầu tư. Vì thế chỉ khi dự án được hoàn thành và đi vào
hoạt động có hiệu quả thì ngân hàng mới có thể thu hồi nợ. Kết quả của một dự án
đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: những thay đổi về chính sách, thị
trường, thiên tai, chiến tranh…Trong khi đó sự phân tích và nhận định của ngân
hàng về các rủi ro này có hạn, do đó các ngân hàng cũng không thể khắc phục được
hết. Điều này khiến dự án bị thua lỗ hoặc không có khả năng thu hồi vốn, khi đó
doanh nghiệp sẽ không thể hoàn trả lãi và nợ gốc cho ngân hàng đúng thời hạn đã
thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ hai, thời gian hoàn vốn chậm
Thời hạn hoàn vốn của tín dụng trung và dài hạn thường rất dài. Đây được coi
là đặc trưng của tín dụng trung và dài hạn. Mục tiêu của tín dụng trung và dài hạn là
nhằm hình thành mới hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Để thực hiện được mục đích đó cần một thời gian rất dài và thời hạn này phụ thuộc
vào tính chất, đặc điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời giant hi công thực hiện

công trình, quy mô và mức độ phức tạp của công trình, công nghệ sản xuất….của
doanh nghiệp
Thứ ba, lãi suất cao
Thời gian cho vay trung và dài hạn diễn ra rất dài. Trong khoảng thời gian dài
đó, việc sử dụng vốn vay cũng như việc thực hiện các hoạt động khác của doanh
nghiệp vay vốn luôn bị chi phối, ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp bởi vô vàn các yếu
tố phức tạp như tình hình chính trị, tình hình kinh tế - xã hội, các yếu tố thuộc về
môi trường tự nhiên như hạn hán, lũ lụt, động đất….Sự biến động này không thể dự
đoán hết được và nó có thể tác động và gây nên những hậu quả, tổn thất, thiệt hại
cho bên vay cũng như ngân hàng. Chính vì thế cho vay trung và dài hạn chứa đựng
14
nhiều rủi ro hơn trong cho vay ngắn hạn và thông thường lãi suất cho vay trung và
dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn
1.2.3. Các phương thức cấp tín dụng trung và dài hạn
1.2.4.1. Cho vay theo dự án đầu tư
- Cho vay đồng tài trợ
Cho vay đồng tài trợ là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2
tổ chức tín dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối
hợp với các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro của các tổ chức
tín dụng. Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp: Các dự án đầu tư đòi
hỏi một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ không đáp ứng hết được.
- Cho vay trực tiếp theo dự án
Cho vay trực tiếp theo dự án là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến
trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng thương mại tiến hành thẩm định dự án về
quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn thiết bị máy móc, giá
cả thị trường, hiệu quả đầu tư để tính toán rủi ro và đưa ra quyết định đầu tư vào
dự án hay không.
1.2.4.2. Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở

hợp đồng cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị,
phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm
quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản và thanh toán tiền
thuê trong suốt thời hạn thuê được hai bên thỏa thuận.
Cho thuê tài chính có các đặc trưng sau :
Thứ nhất, hình thức cấp tín dụng của cho thuê tài chính là bằng tài sản, người
đi thuê chỉ có quyền sử dụng tài sản, định kỳ thanh toán tiền thuê theo thoả thuận.
15
Thứ hai, thời gian cho thuê thường chiếm phân lớn thời gian hoạt động của tài
sản, trong thời gian này người đi thuê không được huỷ ngang hợp đồng. Hết thời
hạn của hợp đồng thuê, người đi thuê có thể được chuyển nhượng quyền sở hữu tài
sản hay tiếp tục thuê theo thoả thuận hai bên.
Thứ ba, bên cho thuê dễ dàng kiểm tra việc sử dụng tài sản, đánh giá hiệu quả
sử dụng tài sản thuê, phát hiện sớm những rủi ro tiềm ẩn để có những biện pháp sử
lý kịp thời.
Tất cả tài sản cho thuê phải được bảo hiểm trong suốt thời gian cho thuê, việc
mua bảo hiểm phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm tại một công ty
bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam do bên cho thuê chỉ định. Qui trình
quản lý và theo dõi hồ sơ bảo hiểm tài sản cho thuê do giám đốc bên cho thuê quyết
định.
1.2.4.3. Cho vay tiêu dùng
Đây là hình thức tín dụng nhằm giúp người tiêu dùng có nguồn vốn tài chính
để trang trải nhu cầu về nhà ở, đồ dùng gia đình… Căn cứ vào cách thức hoàn trả,
cho vay tiêu dùng có thể chia làm 3 loại sau:
Thứ nhất, cho vay tiêu dùng phi trả góp: Theo cách cho vay này, khách hàng
thanh toán cho ngân hàng một lần cho đến khi đến hạn. Loại cho vay này thường áp
dụng đối với khoản vay vó giá trị nhỏ, thời gian cho vay không dài.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng trả góp: Loại cho vay thường áp dụng đối với các
khoản vay có giá trị lớn hay thu nhập định kỳ của người vay không đủ khả năng
thanh toán hết một lần số nợ vay.

Thứ ba, cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Cho vay tiêu dùng tuần hoàn là khoản
cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Trong thời
gian thoả thuận, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập từng thời kỳ, khách hàng
thực hiện vay và trả nợ một cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng. Hình thức
cho vay này có rủi ro tương đối thấp nhưng có lãi suất cao, tuy nhiên ngân hàng
16
chịu những chi phí cao về dịch vụ và quản lý.
1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan điểm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng
thương mại
Có nhiều quan niệm về chất lượng sản phẩm như “chất lượng là phù hợp với
mục đích sử dụng” hoặc “là một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và độ tin cậy
với chi phí thấp phù hợp với thị trường”. Theo hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chất
lượng là “năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu
cầu của người sử dụng”. Theo từ điển Weekipedia thì: “Chất lượng tín dụng là một
phạm trù phản ánh mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín
dụng. Để phản ánh về chất lượng tín dụng, có rất nhiều chỉ tiêu nhưng nói chung
người ta thường quan tâm đến: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản
đảm bảo”.
Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được hiểu là toàn bộ tính năng của sản
phẩm, dịch vụ phù hợp với điều kiện quy định nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu xã
hội. Nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của các doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh,
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải nâng cao chất lượng
sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Chất lượng tín dụng được hiểu một cách khái quát nhất đó là sự đáp ứng nhu
cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển
kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín dụng cung cấp sản
phẩm tín dụng đó
Trên cơ sở đó có thể hiểu, chất lượng tín dụng trung và dài hạn là chất lượng

của các khoản vay có thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi
vốn vay được sử dụng đúng mục đích, phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh đem lại hiệu quả. Ngân hàng được trả nợ đúng hạn, vừa bù đắp được chi phí
vừa có lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội
17
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn bao gồm các khía cạnh sau:
Đối với ngân hàng thương mại: Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở
phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của ngân hàng và phải
đảm bảo được khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chất lượng tín dụng trung dài
hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hớp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý,
đảm bảo cơ cấu giữa nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế
Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thỏa mãn yêu cầu
hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản nhưng vẫn tuân thủ đúng
những quy định của tín dụng
Đối với nền kinh tế: Khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn trong nước, đồng thời
tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển của
các ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của
các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín
dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo
ra một hình ảnh tốt đẹp về biểu tượng, uy tín của ngân hàng và sự trung thành của
ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi
phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vạy. Chất lượng tín
dụng trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo
thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh. Với những ưu thế trên, việc củng cố và

tăng cường chất lượng tín dụng trung và dài hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn
tại và phát triển lâu dài của ngân hàng thương mại. Và cũng chính vì vậy, chất
lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được cải thiện.
18
Thứ hai, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là cần thiết để phát
triển kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện nay, chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm bởi
lẽ đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm
thanh toán, khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn cho vay,
với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiền
trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền. Chất lượng tín dụng góp phần
kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia; thiết
lập một cơ chế chính sách tín dụng đồng bộ, có hiệu quả sẽ có tác động tích cực tới
mọi mặt của nền kinh tế xã hội.
1.3.3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHTM được đánh giá thông qua các
nhóm chỉ tiêu định lượng và định tính sau :
1.3.3.1. Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Nguồn vốn cấp tín dụng trung và dài hạn
Để đảm bảo chất lượng các khoản tín dụng trung và dài hạn thì nguồn vốn đầu
vào của các khoản tín dụng này phải là nguồn huy động trung và dài hạn và không
quá 30% vốn huy động ngắn hạn đối với các NHTM (Theo Thông tư số
15/2009/TT-NHNN quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để
cho vay trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam,
trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở)
- Doanh số cho vay trung và dài hạn
Doanh số cho vay (DSCV) trung, dài hạn là chỉ tiêu phản ánh tất cả các
khoản cho vay mà ngân hàng đã phát ra trong kỳ tính theo ngày, tháng, quý, năm
với thời hạn lớn hơn 1 năm không kể món cho vay đó đã thu hồi về hay chưa.
Doanh số cho vay biểu hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động cho vay trung và

dài hạn. Doanh số cho vay phản ánh kết quả về việc phát triển, mở rộng hoạt động
cho vay và tốc độ tăng trưởng cho vay của ngân hàng. Nếu như các nhân tố khác cố
định thì doanh số cho vay càng cao phản ánh việc mở rộng hoạt động cho vay của
19
ngân hàng càng tốt, ngược lại doanh số cho vay của ngân hàng giảm trong khi cố
định các yếu tố khác thì phản ánh hoạt động cho vay của ngân hàng chưa tốt
- Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay trung và dài hạn
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh khả năng mở rộng
quy mô cho vay trung, dài hạn qua các thời kỳ.
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay năm n so với năm n-1 được tính như
sau: DSCV năm n – DSCV năm (n-1)
Tốc độ tăng trưởng DSCV =
DSCV năm n-1
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay cao cho thấy khả năng mở rộng tín dụng
trung, dài hạn của ngân hàng tốt, sản phẩm tín dụng của Ngân hàng có sức cạnh
tranh cao và thu hút được nhiều khách hàng và ngược lại.
- Doanh số thu nợ trung và dài hạn
Doanh số thu nợ (DSTN) là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ
các khoản cho vay của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó
Các khoản vay trung, dài hạn có thời gian lớn đi kèm với rủi ro cao luôn đòi
hỏi ngân hàng phải đôn đốc, thu nợ kịp thời, thường xuyên và liên tục. Chỉ số này
càng lớn thể hiện công tác thu hồi nợ của ngân hàng là có hiệu quả
- Dư nợ trung và dài hạn
Đây là chỉ tiêu mang tính chất thời điểm phản ánh số tiền mà Ngân hàng đã
giải ngân cho khách hàng nhưng chưa thu hồi do khoản vay chưa đến hạn thanh
toán hoặc khoản vay đang bị nợ quá hạn
Dư nợ trung và dài hạn ở thời điểm cuối năm được tính như sau:
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + DSVC trong kỳ - Thu nợ trong kỳ
20
Như vậy tổng dư nợ cho vay cao và tăng trưởng nhìn chung phản ánh một

phần hiệu quả hoạt động tín dụng tốt và ngược lại tổng dư nợ tín dụng thấp, ngân
hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay hay mở rộng thị phần, khả
năng tiếp thị của ngân hàng kém
Tuy nhiên tổng dư nợ cao chưa hẳn đã phản ánh hiệu quả tín dụng của ngân
hàng cao vì đôi khi nó là biểu hiện cho sự tăng trưởng nóng của hoạt động tín dụng,
vượt quá khả năng về vốn cũng như khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng, hoặc
mức dư nợ cao, hoặc tốc độ tăng trưởng nhanh do mức lãi suất cho vay của ngân
hàng thấp hơn so với thị trường dẫn đến tỷ suất lợi nhuận giảm
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá
hạn bao gồm: Nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất
vốn
Nợ quá hạn cho biết giá trị của khoản nợ mà ngân hàng chưa thu hồi được
trong thời hạn hợp đồng. Chỉ tiêu này cao phản ánh hoạt động tín dụng của NHTM
có chất lượng thấp
Tuy vậy, trên thực tế để đánh giá chính xác hơn chất lượng hoạt động cho vay
của một ngân hàng thì người ta chia nợ quá hạn thành hai loại: nợ quá hạn có khả
năng thu hồi và nợ quá hạn không có khả năng thu hồi. Ngân hàng có nợ quá hạn
cao nhưng trong đó bao nhiêu phần trăm là nợ có khả năng thu hồi và bao nhiêu
phần trăm là nợ không có khả năng thu hồi, khi đó ta mới có thể đánh giá chính xác
được chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn được tính theo công thức :

21

×