Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đặc điểm của đại diện, ý nghĩa pháp lý của đại diện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.99 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung Trang
I.Đặt vấn đề 2
II.Giải quyết vấn đề
1.Khái niệm và đặc điểm của đại diện, ý nghĩa pháp lý
của đại diện
a.khái niệm 2,3
b.đặc điểm 3, 4
c.ý nghĩa pháp lý 4
2.Các hình thức đại diện
a.Hình thức đại diện theo pháp luật 4,5,6
b.Hình thức đại diện theo ủy quyền 6,7,8
3.Phạm vi đại diện
a.Khái niệm 8
b.Ý nghĩa pháp lý của phạm vi đại diện 8,9
c.Phạm vi thẩm quyền đại diện trong các trường hợp quan
hệ đại diện 9,10,11
d.Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và vượt quá
phạm vi thẩm quyền đại diện 11,12,13
4.Chấm dứt đại diện
a.Chấm dứt đại diện theo pháp luật 13,14,15
b.Chấm dứt đại diện theo ủy quyền 15,16,17,18

III.Kết luận 18
1
Danh mục tài liệu tham khảo 19
I. Đặt vấn đề:
Trong giao dịch dân sự, không phải trường hợp giao dịch nào chủ thể cũng
có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà trong nhiều trường hợp nhất
định phải thông qua hành vi của người khác là người đại diện theo pháp luật hoặc
theo ủy quyền của mình. Cũng chính vì thế, “đại diện” là một chế định truyền


thống của Luật dân sự, quy định về khái niệm, đặc điểm và mọi yếu tố liên quan
đến “đại diện”. Sau đây em xin được đi vào phân tích để có thể hiểu thêm về chế
định này.
II. Giải quyết vấn đề:
1. Khái niệm và đặc điểm của đại diện, ý nghĩa pháp lý của đại diện
a. Khái niệm
Khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy định: đại diện là
việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người
khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong
phạm vi đại diện.
Như vậy, đại diện là một quan hệ pháp luật gồm có hai bên chủ thể là người
đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được
địa diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người đại diện. Người
được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lí từ quan hệ do người đại diện
xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện, người được đại diện rất đa dạng, có
thể là các cá nhân không có năng lực hành vi, người mất năng lực hành vi dân sự
(như người bị bệnh tâm thần nên không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
2
mình), người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (vì các lí do nhất định nên bị Tòa
án ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự), kể cả các
cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi cũng có thể ủy quyền cho người khác là đại
diện theo ủy quyền của mình nhưng cá nhân sẽ không được người khác đại diện
cho mình trong trường hợp pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập thực hiện
giao dịch đó.
b. Đặc điểm:
Ngoài các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự thì quan hệ đại diện có
những đặc điểm riêng như sau:
- Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan hệ
giữa người đại diện và người được đại diện (quan hệ bên trong), quan hệ giữa
người đại diện với người thứ ba (quan hệ bên ngoài).

- Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người được
địa diện chứ không phải nhân danh họ. Trước khi giao dịch dân sự được lập ra,
người đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba để người
này hiểu hai vấn đề: thứ nhất ai sẽ là người trao đổi lợi ích hay chịu trách nhiệm về
hậu quả của giao dịch với họ; thứ hai là thẩm quyền của ngươi đại diện đến đâu,
người được đại diện như đã nói ở trên có rất nhiều trường hợp nên phải xác định rõ
thẩm quyền, quan hệ của người đại diện với người được đại diện có thể là cha mẹ
với con chưa thành niên, người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi,… hợp
đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền là bằng chứng cho quan hệ đại diện theo pháp
luật.
- Mục đích người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của
người đại diện – quyền và lợi ích của trong quan hệ với người thứ ba được chuyển
cho người đại diện. Lợi ích của người đại diện thì được xét trong quan hệ đại diện,
3
tùy theo các trường hợp đại diện và theo thỏa thuận giữa bên đại diện và bên được
đại diện mà người đại diện có thể chỉ có nghĩa vụ hoặc có thể được hưởng thù lao.
- Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ
bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp luật
nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành các công việc cần thiết để đạt
được mục đích là vì lợi ích của người được đại diện.
c. Ý nghĩa pháp lý của đại diện:
Đại diện có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiều trường hợp giao dịch, không
phải chủ thể nào cũng có thể tự mình thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự
của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Có thể do nhiều nguyên nhân khách
quan hoặc chủ quan mà cá nhân có thể bị hạn chế năng lực hành vi hoặc không có
năng lực hành vi, hình thức đại diện theo pháp luật sẽ là một giải pháp giúp họ vẫn
được hưởng mọi lợi ích từ các giao dịch thông thường qua người đại diện, những
lợi ích mà họ đáng được nhận. Chủ thể trong giao dịch dân sự còn có thể là pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,.. là những chủ thể mà quyền lợi mang tính cộng
đồng, việc giao dịch bắt buộc phải thông qua hành vi con người. Do đó, chế định

đại diện tạo điều kiện và đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể ngoài cá nhân.
2. Các hình thức đại diện
Có hai hình thức đại diện trong pháp luật dân sự là đại diện theo pháp luật và
đại diện theo ủy quyền. Mỗi hình thức đại diện có những yếu tố và đặc điểm riêng,
cụ thể như sau:
a. Hình thức đại diện theo pháp luật:
Điều 140 BLDS 2005 quy định: đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp
luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
4
Căn cứ để hình thành nên quan hệ đại diện này là do ý chí của Nhà nước.
HÌnh thức đại diện này được pháp luật quy định mối quan hệ đại diện được xác lập
tồn tại có sẵn chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể. Chủ
thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật cần thỏa mãn các điều kiện cụ thể sau:
- Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, họ là đối tượng được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ
không trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật phải quy định sẵn
những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực hiện
các giao dịch dân sự. Các chủ thể còn lại là một tổ chức nên khi tham gia vào các
giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể.
- Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Các căn cứ để nhận
biết các quan hệ đại diện theo pháp luật đang tồn tại là:
Chủ thể trong quan hệ đại diện theo pháp luật gồm có hai nhóm:
• Các chủ thể trong trường hợp đại diện được quy định theo pháp luật chung
là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện, về thẩm quyền đại diện:
 Cha, mẹ đại diện cho con vị thành niên.
 Người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân
 Người giám hộ đương nhiên đại diện cho người được giám hộ
(Điều 61, 62 BLDS 2005). Ví dụ: Nguyễn Văn A 15 tuổi, mồ côi
cả cha lẫn mẹ, chỉ còn có anh trai là Nguyễn Văn B 25 tuổi (thỏa
mãn điều kiện làm người giám hộ), B sẽ đại diện cho A trong mọi

giao dịch dân sự của A.
 Chủ hộ đối gia đình đối với hộ gia đình,…
• Các chủ thể trong trường hợp đại diện theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền:
 Người giám hộ đối với người được cử giám hộ (điều 63 BLDS
2005) Ví dụ: Cháu X 10 tuổi có bố mẹ vừa qua đời trong một vụ
5
tai nạn, X lại không có anh chị em, bà con thân thích. Ủy ban nhân
dân xã Y nơi gia đình cháu X sinh sống cử Anh Z (thỏa mãn điều
kiện làm người giám hộ) làm người giám hộ cho X.
 Người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự.
Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ. Các căn cứ để nhận biết các quan hệ đại diện theo pháp luật
đang tồn tại là:
 Căn cứ vào giấy khai sinh của con chưa thành niên để biết ai là
người đại diện theo pháp luật
 Căn cứ quyết định của Tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự để biết ai đại diện cho người này
 Căn cứ vào Sổ hộ khẩu của gia đình để biết người đại diện theo
pháp luật của hộ gia đình
 Căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của UBND xã phường
để biết ai là người đại diện cho tổ hợp tác
 Căn cứ vào đăng kí kinh doanh, Điều lệ hay Quyết định thành lập
pháp nhân để biết ai là người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân
b. Hình thức đại diện theo ủy quyền:
Khoản 1, Điều 142 BLDS 2005 quy định: “đại diện theo ủy quyền là đại
diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”.
Khác với đại diện theo pháp luật là do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước

có thẩm quyền quyết định, đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan hệ đại diện
được xác lập theo ý chí của hai bên: bên đại diện và bên được đại diện, biểu hiện
qua một hợp đồng ủy quyền hoặc một giấy ủy quyền, điểm khác nữa là hai bên chủ
thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp được quy định tại Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005: “Người từ đủ 15 tuổi
6
đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp
luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực
hiện”.
Đại diện theo ủy quyền được chia ra thành đại diện theo ủy quyền của cá
nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Vì những lí
do chủ quan hay khách quan cá nhân có thể thông qua người khác để xác lập các
giao dịch dân sự. Người khác ở đây có thể là pháp nhân (ví dụ cá nhân ủy quyền
cho một công ty tư vấn về luật đứng ra ký kết hợp đồng mua xe ô tô cho họ), hoặc
có thể là cá nhân (ví dụ X ủy quyền cho Y đứng ra ký kết hợp đồng thuê nhà ở).
 Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân – quy định tại Khoản 1
Điều 143 BLDS 2005: cá nhân, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự
 Đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình – quy định tại Khoản 1
Điều 107 BLDS 2005 “… chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên
khác đã thành niên làm đại diện của hộ trong quan hệ dân sự”
 Đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác – quy định tại Khoản 1 Điều
113 BLDS 2005 “Tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho tổ viên
thực hiện một số công việc nhất định cho tổ”
Trong 3 loại đại diện theo ủy quyền này thì chỉ có hình thức đại diện theo ủy
quyền của pháp nhân là pháp luật không chỉ ra phạm vi cụ thể những người được
ủy quyền, còn trong hai hình thức đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình và tổ hợp
tác thì có chỉ rõ phạm vi người được ủy quyền chỉ có thể là người trong gia đình
hay trong tổ mà thôi.

Ủy quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác của quan hệ dân sự, bằng nhiều hình thức khác nhau có
7

×