Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Sự kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị và hoà đồng giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.11 KB, 8 trang )

Trong hoạt động giao tiếp, văn bản là một trong những phương tiện
quan trọng nhằm ghi lại và truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ, nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội sao cho phù hợp với pháp luật hiện hành. Thực
tế trong những năm qua, công tác soạn thảo văn bản pháp luật đã góp phần
tích cực đáp ứng các yêu cầu của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đặc biệt, sau khi Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ ban hành Thông
tư số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 hướng dẫn về thể thức và
kỹ thuật trình bày văn bản, công tác soạn thảo văn bản pháp luật ngày càng
được đưa vào nề nếp, khắc phục được nhiều nhược điểm và những hạn chế
trước đây. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều văn bản pháp luật bộc lộ nhiều
khiếm khuyết về cả nội dung lẫn thể thức vì những lí do sau:
Trước hết, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật là
tương đối phong phú, đa dạng, luôn tồn tại khách quan. Vì thế việc nắm bắt
thực trạng và phán đoán quy luật vận động của các quan hệ xã hội là rất khó
khăn, phụ thuộc vào nhiều yếu tố, dẫn tới nội dung văn bản quy phạm pháp
luật không phù hợp với tình hình thực tế, trở lên lạc hậu.
Hơn nữa, do người soạn thảo còn bị hạn chế về trình độ chuyên môn,
về việc sử dụng ngôn ngữ cũng như những kĩ năng pháp lí, thậm chí còn
không tuân thủ những quy định của pháp luật về thủ tục ban hành cũng như
quản lí văn bản pháp luật. Vì vậy, đây là nguyên nhân chủ quan dẫn tới việc
ban hành văn bản pháp luật vi phạm về thủ tục và không đảm bảo tính hợp lí
của văn bản.
Các quy định của pháp luật hiện hành về công tác ban hành văn bản
pháp luật nhất là văn bản áp dụng pháp luật còn chưa đầy đủ và được đặt ra
trong nhiều văn bản khác nhau, vì vậy đã gây khó khăn trong việc thực hiện.
Hiện nay, mặc dù đã có sự hỗ trợ của những quy định, cụ thể là Thông tư số
55/2005/TTLT-BNV-VPCP hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn
bản nhưng Nhà nước chưa ban hành văn bản pháp luật có hiệu lực pháp luật
cao để quy định đầy đủ về hình thức và nội dung văn bản pháp luật cho nên
trên thực tế hình thức văn bản pháp luật không thống nhất.
Bên cạnh đó, trong quá trình ban hành văn bản pháp luật, đôi khi các


cơ quan soạn thảo còn lồng ghét lợi ích cục bộ của từng cấp, từng ngành vào
nội dung văn bản.
Xuất phát từ những nội dung trên, việc ban hành văn bản pháp luật
khiếm khuyết đã xảy ra khá phổ biến ở nhiều cấp, nhiều ngành. Có thể xác
định, cơ sở để nhận biết văn bản khiếm khuyết là những văn bản sau:
a/ Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về chính trị.
Trước hết, đó là các văn bản pháp luật (chủ yếu là các văn bản quy
phạm pháp luật) có nội dung không hợp với đường lối, chính sách của Đảng.
Văn bản pháp luật được ban hành nhưng có nội dung không phù hợp với
đường lối, chính sách của Đảng bị coi là khiếm khuyết và buộc cơ quan có
thẩm quyền phải tiến hành xử lí.
Bên cạnh đó, văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với ý chí
và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.
b/ Văn bản pháp luật không đáp ứng yêu cầu về pháp lí.
*/ Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành
Văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền ban hành bao gồm vi phạm
thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung.
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có tên
gọi không đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trước hết, đó là việc cơ quan ban hành văn bản sủ dụng hình thức văn
bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của chủ thể khác. Ví dụ: Hội đồng
nhân dân ban hành quyết định; Ủy ban nhân dân ban hành nghị quyết.
Bên cạnh đó, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử
dụng không đúng vai trò của văn bản đối với công việc được giải quyết,
như: Sử dụng công văn, thong báo để đặt ra các quy phạm pháp luật hoặc
ban hành quyết định thay cho lệnh khám nơi cất giấu tang vật vi phạm…
Ngoài ra, trong một số trường hợp cá biệt còn có thể gặp tình trạng
các cơ quan nhà nước sử dụng hình thức văn bản không do pháp luật quy
định để đặt ra quy định pháp luật, như: Ủy ban nhân dân ban hành thong tri.
Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền vê nội dung là văn bản mà chủ

thể ban hành sử dụng để giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền do
pháp luật quy định đối với chủ thể đó.
Trước hết, sự vi phạm thẩm quyền nội dung thể hiện ở việc cơ quan
ban hành văn bản pháp luật để giải quyết công việc hoàn toàn không thuộc
phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Thủ trưởng các
đơn vị trực thuộc bộ, như: Cục, Vụ, Viện, Văn phòng… ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
Ngoài ra, văn bản pháp luật vi phạm về thẩm quyền nội dung còn thể
hiện trong việc chủ thể ban hành văn bản để giải quyết công việc vượt thẩm
quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó. Ví dụ: Chủ tịch ủy ban
nhân dân huyện A ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt
31.000.000 đồng mà theo pháp luật, mức phạt tiền tối đa mà Chủ tịch ủy ban
nhân dân cấp huyện có quyền được áp dụng là 30.000.000 đồng.
*/ Văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của pháp luật.
Văn bản có nội dung trái pháp luật là những văn bản có nội dung là
những quy phạm hoặc những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện
hành. Có nhiều cơ sở khác nhau về sự trái pháp luật trong nội dung của văn
bản pháp luật.
Thứ nhất, nội dung trái quy định pháp luật hiện hành thể hiện trong
việc không viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm cơ sở pháp lí của
văn bản đó. Ví dụ: Trong Quyết định của ủy ban nhân dân tỉnh A về quản lí,
khai thác và bảo vệ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, phần căn cứ
pháp lí chỉ nêu Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân mà
không viện dẫn Luật bảo vệ mội trường là văn bản quy định trực tiếp về
thẩm quyền của ủy ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực này.
Thứ hai, nội dung của văn bản pháp luật trái với quy định pháp luật
hiện hành thể hiện rõ nét trong trường hợp nội dung văn bản quy phạm pháp
luật của cấp dưới trái với nội dung văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên;
văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các quy
phạm pháp luật hiện hành. Ví dụ: Trong Chỉ thị của ủy ban nhân dân thành

phố A về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
trên địa bàn thành phố có quy định: “Giao cấp ủy đảng, chính quyền các
huyện, xã, thị trấn có nhiệm vụ phê duyệt đề án, giám sát, giúp đỡ các quỹ
tín dụng nhân dân; các cơ quan nội chính (công an, kiểm sát, tòa án, tư pháp,
thi hành án) có nhiệm vụ giúp các quỹ tín dụng nhân dân đôn đốc thu nợ,
tiến hành điều tra, xét xử và thi hành án nhanh chóng…”. Các quy định này
trái với Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân vì tổ chức Đảng,
các cơ quan kiểm sát, tòa án…không phải là cấp dưới của ủy ban nhân dân.
Thứ ba, tính bất hợp pháp về nội dung còn thể hiện trong các văn bản
áp dụng pháp luật hoặc văn bản hành chính khi có nội dung trái với quy định
của văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ: Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính có nội dung xử phạt đối với cá nhân về hành vi xây dựng trái phép
được thực hiện từ trước đó 3 năm. Như vậy là trái với quy định về thời hiệu
xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ tư, sự trái pháp luật thể hiện ở các mệnh lệnh trong văn bản hành
chính không đúng với những mệnh lệnh trong văn bản áp dụng pháp luật mà
nó tổ chức thực hiện. Ví dụ: Thông báo về việc cưỡng chế với biện pháp
không đúng với nội dung quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính.
*/ Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước
quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.
Hiện nay, dấu hiệu này rất cần được xem xét trong quá trinhfxuwr lí
văn bản quy phạm pháp luật. Vì muốn thực hiện tốt các cam kết quốc tế,
Việt Nam không chỉ tiến hành việc nội luật hóa mà còn phải rà soát nhằm

×