Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.63 KB, 59 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
A. Lời mở đầu
Thế kỷ 21 nền kinh tế đang trong đà phát triển mạnh, các lĩnh vực kinh tế
đều được phát huy hết với công suất của nó. Thương mại là một ngành vô cùng
quan trọng trong quá trình phát triển đó. Nó tạo ra một nguồn lợi nhuận khổng lồ
và tạo ra bước ngoặt mới cho nền kinh tế thế giới, sự bình ổn và phát triển.
Các nguồn tài nguyên trên trái đất là hữu hạn, nhưng ước muốn của con
người lại vô cùng. Chính vì vậy, Logistics đã ra đời để giúp con người sử dụng
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) một cách tối ưu, để có thể đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của bản thân và xã hội một cách tốt nhất. Trong lịch sử nhân
loại ban đầu, Logistics được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội,
được hiểu với nghĩa là công tác hậu cần. Napoleon đã từng định nghĩa: Logistics
là hoạt động để duy trì lực lượng quân đội. Sau này thuật ngữ Logistics dần
được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, được lan truyền từ châu lục này sang
châu lục kia, từ nước này sang nước khác, hình thành nên Logistics toàn cầu.
Logistics phát triển rất nhanh chóng, cho đến nay Logistics được ghi nhận như
một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho
các doanh nghiệp cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ.
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, và hiệu quả của
quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và
Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển
thì tỷ lệ này có thể hơn 30%, và ở Việt Nam thì dịch vụ logistics chiếm khoảng
từ 15-20% GDP. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận
hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất
lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Logistics là một ngành mới mẻ đối với Việt Nam tuy nhiên nó lại là ngành
mang lại nguồn lợi lớn cho các nước phát triển. Chính vì vậy em đã chọn đề tài
“Giải pháp phát triển các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt Nam”
để hiểu rõ hơn về nguồn lợi mà Logistics mang lại cho Việt Nam và tìm ra giải


pháp để phát triển nguồn lực đang trong đà phát triển này.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B. Nội Dung
Chương I: Những lý luận cơ bản về logistics và các dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp Việt Nam
I. Bản chất và vai trò của logistics ở các doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp
1.1. Khái niệm
- Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Điều 4) Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được dăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
- Các loại doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005:
a) Doanh nghiệp nhà nước
Là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế
- xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp Nhà nước
hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
công ích là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công
cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.
b) Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: (Điều 77.Luật Doanh
nghiệp 2005)
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 3 Điều 84 của Luật này.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các lại để huy động vốn
c) Công ty trách nhiệm hữu hạn
 Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (Điều 38.Luật
Doanh nghiệp 2005)
Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không
vượt quá năm mươi;
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
tại các điều 43, 44 và 45 của Luật này.
 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Điều 63. Luật Doanh
nghiệp 2005)
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do
một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công
ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân
kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền
phát hành cổ phần.
d) Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: (Điều 130. Luật Doanh

nghiệp 2005)
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây được gọi là thành viên hợp danh);
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
e) Công ty liên doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước
ngoài
- Xí nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh ký giữa bên xí nghiệp có tư cách pháp nhân của Việt Nam với
một bên hoặc các bên nước ngoài nhằm kinh doanh trong các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân Việt Nam.
- Việc thành lập xí nghiệp liên doanh phải: Phù hợp với hợp đồng liên
doanh, phù hợp với điều lệ liên doanh; Phù hợp luật pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam; Vốn pháp định ít nhất bằng 30% tổng số vốn đầu tư và vốn
bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định.
- Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền
sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài, do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài
thành lập, tự quản, tự chịu trách nhiệm về tổ chức sản xuất kinh doanh. Nó là
một pháp nhân hoạt động theo sự điều chỉnh của Luật pháp Việt Nam.
f) Doanh nghiệp tư nhân (Điều 141.Luật doanh nghiệp 2005)
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
- Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
g) Hộ kinh doanh (Luật Doanh nghiệp 2005)

- Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm
người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
- Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người
bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu
nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các
ngành, nghề có điều kiện. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương. Mức thu
nhập thấp được quy định không được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu
nhập cá nhân theo quy định của pháp luật về thuế.
- Hộ kinh doanh có sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải đăng
ký kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp.
1.2. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
a) Môi trường vi mô
Phân tích theo mô hình 5 lực lượng của M.Porter
 Doanh nghiệp và đối thủ hiện tại
Đối thủ cạnh tranh hiện tại, nếu đối thủ càng yếu, doanh nghiệp có cơ hội để
tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các đối thủ cạnh
tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá cả là đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh
về giá cả đều dẫn đến những tổn thương
 Áp lực của các nhà cung ứng
Những nhà cung ứng có thể được coi là một áp lực đe dọa khi họ có khả
năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ mà
họ cung cấp. Qua đó làm giảm khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên
một phương diện nào đó, sự đe dọa đó tạo ra sự phụ thuộc ít nhiều đối với các
doanh nghiệp
 Áp lực của người mua

Đây là lực lượng tạo ra khả năng mặc cả của người mua. Người mua có
thể được xem như là một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc doanh nghiệp giảm
giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Người mua gồm: người
tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công
nghiệp.
 Những người muốn vào mới (Cạnh tranh tiềm ẩn)
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh
tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa
chọn và quyết định gia nhập ngành.Đây là de dọa cho các doanh nghiệp hiện tại.
Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn gia nhập
ngành bởi vì càng nhiều doanh nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh
tranh càng khốc liệt hơn, thị trường và lợi nhuận sẽ bị chia sẻ, vị trí của các
doanh nghiệp sẽ thay đổi.
 Sản phẩm dịch vụ thay thế
Sản phẩm thay thế là sản phẩm khác có thể thỏa mãn cùng nhu cầu của
người tiêu dùng. Đặc điểm cơ bản của nó thường có các ưu thế hơn sản phẩm bị
thay thế ở các đặc trưng riêng biệt.
b) Môi trường vĩ mô
Mô hình PEST trong nghiên cứu môi trường vĩ mô
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
o Political (Thể chế- Luật pháp)
o Economics (Kinh tế)
o Sociocultrural (Văn hóa- Xã Hội)
o Technological (Công nghệ)
Đây là bốn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, các yếu
tố này là các yếu tố bên ngoài của của doanh nghiệp và ngành, và ngành phải
chịu các tác động của nó đem lại như một yếu tố khách quan. Các doanh nghiệp
dựa trên các tác động sẽ đưa ra những chính sách, hoạt động kinh doanh phù
hợp.

 Các yếu tố Thể chế- Luật pháp.
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một
lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả năng tồn tại và
phát triển của bất cứ ngành nào. Khi kinh doanh trên một đơn vị hành chính, các
doanh nghiệp sẽ phải bắt buộc tuân theo các yếu tố thể chế luật pháp tại khu vực
đó.
- Sự bình ổn: Chúng ta sẽ xem xét sự bình ổn trong các yếu tố xung đột
chính trị, ngoại giao của thể chế luật pháp. Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ có
thể tạo điều kiện tốt cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế
không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt động kinh doanh trên
lãnh thổ của nó.
- Chính sách thuế: Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các thuế tiêu thụ,
thuế thu nhập... sẽ ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp,luật lao động, luật
chống độc quyền, chống bán phá giá ...
- Chính sách: Các chính sách của nhà nước sẽ có ảnh hưởng tới doanh
nghiệp, nó có thể tạo ra lợi nhuận hoặc thách thức với doanh nghiệp. Như các
chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, thuế, các
chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng...
 Các yếu tố Kinh tế
Các doanh nghiệp cần chú ý đến các yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài
hạn và sự can thiệp của chính phủ tới nền kinh tế.
Thông thường các doanh nghiệp sẽ dựa trên yếu tố kinh tế để quyết định đầu tư
vào các ngành, các khu vực.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tình trạng của nền kinh tế: Bất cứ nền kinh tế nào cũng có chu kỳ, trong
mỗi giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ có những quyết
định phù hợp cho riêng mình.
- Các yếu tố tác động đến nền kinh tế: Lãi suất, lạm phát.

- Các chính sách kinh tế của chính phủ: Luật tiền lương cơ bản, các chiến
lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành:
Giảm thuế, trợ cấp....
- Triển vọng kinh tế trong tương lai: Tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng
GDP, tỉ suất GDP trên vốn đầu tư...
 Các yếu tố văn hóa xã hội.
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã
hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu
vực đó.
Những giá trị văn hóa là những giá trị làm lên một xã hội, có thể vun đắp
cho xã hội đó tồn tại và phát triển..
Bên cạnh văn hóa , các đặc điểm về xã hội cũng khiến các doanh nghiệp
quan tâm khi nghiên cứu thị trường, những yếu tố xã hội sẽ chia cộng đồng
thành các nhóm khách hàng, mỗi nhóm có những đặc điểm, tâm lý, thu nhập ...
khác nhau:
- Tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, ăn uống.
- Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập
- Lối sống, học thức, các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống
- Điều kiện sống
 Yếu tố công nghệ.
Cả thế giới vẫn đang trong cuộc cách mạng của công nghệ, hàng loạt các
công nghệ mới được ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm, dịch vụ. Nếu
cách đây 30 năm máy vi tính chỉ là một công cụ dùng để tính toán thì ngày nay
nó đã có đủ chức năng thay thế một con người làm việc hoàn toàn độc lập.
Trước đây chúng ta sử dụng các máy ảnh chụp bằng phim thì hiện nay không
còn hãng nào sản xuất phim cho máy ảnh. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, công nghệ truyền thông hiện đại đã giúp các khoảng cách về địa lý,
phương tiện truyền tải.
- Ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet đến hoạt động kinh doanh.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, hiện nay khi nghiên cứu thị trường, các

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh nghiệp phải đưa yếu tố toàn cầu hóa trở thành một yếu tố vĩ mô tác động
đến ngành.
 Yếu tố hội nhập.
Không ai phủ nhận toàn cầu hóa đang là xu thế, và xu thế này không tạo
cơ hội cho các doanh nghiệp, các quốc gia trong việc phát triển sản xuất, kinh
doanh.
- Toàn cầu hóa tạo ra các sức ép cạnh tranh, các đối thủ đến từ mọi khu
vực. Quá trình hội nhập sẽ khiến các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp với
các lợi thế so sánh.,phân công lao động của khu vực và của thế giới.
- Điều quan trọng là khi hội nhập, các rào cản về thương mại sẽ dần
dần được gỡ bỏ, các doanh nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác ở cách xa
khu vực địa lý, khách hàng của các doanh nghiệp lúc này không chỉ là thị trường
nội địa nơi doanh nghiệp đang kinh doanh mà còn các khách hàng đến từ khắp
nơi.
2. Logistic là gì?
2.1. Khái niệm về logistics
Về mặt lịch sử, thì thuật ngữ logistics là một thuật ngữ quân sự đã có từ
mấy trăm năm nay, thuật ngữ này đầu tiên được sử dụng trong quân đội và mang
nghĩa là “hậu cần” hoặc “tiếp vận”.Với ý nghĩa là quá trình cung cấp trang thiết
bị phục vụ cho quân đội và ban đầu được dùng trong quân sự.
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, nhiều thập kỷ qua, logistics được
nghiên cứu sâu và áp dụng sang các lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh.
Thuật ngữ “logistics” ngày nay được hiểu với nghĩa quản lý (Management) hệ
thống phân phối vật chất của các đơn vị sản xuất kinh doanh trong xã hội.
Khái niệm logistics, theo ESCAP, là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ
và bao gồm cả vận chuyển các tài nguyên - yếu tố đầu vào và đầu ra từ nhà cung
cấp, nhà sản xuất, nhà phân phối và đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua
hàng loạt các hoạt động kinh tế.

Theo định nghĩa của ông Nguyễn Hùng, Phó Tổng giám đốc Công ty Kho
vận miền Nam (Sotrans): “Logistics là một quá trình lập kế hoạch, thực hiện
kiểm soát một cách hiệu quả những luồng lưu thông và khối lượng tồn kho của
hàng hóa, dịch vụ và những thông tin liên quan đến chúng”.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều này rất quan trọng, Logistics chỉ rõ nguồn lực tập trung là con người
với vai trò vừa là đối tượng, vừa là công cụ tác động, vừa là chủ thể của quá
trình.
2.2. Sự hình thành và phát triển logistics
2.2.1. Cơ sở của logistics
Logistics có thể được hiểu như là việc có được đúng số lượng cần thiết ở
đúng thời điểm và với chi phí phù hợp. Nó là nghệ thuật, là một quá trình khoa
học. Nó phối hợp tất cả các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, quản lý vòng đời dự
án, chuỗi cung cấp và hiệu quả.
Logistic có khái niệm bắt nguồn từ nhu cầu quân sự trong việc cung cấp
cho chính họ trong quá trình di chuyển của các đoàn quân từ căn cứ ra tiền
tuyến.
Trong thời ký Hy Lập cổ đại, đế chế Roman và Byzantine, đã có những sỹ
quan với mác “logistikas” là người chịu trách nhiệm đến các vấn đề về tài chính
cũng như cung cấp phân phối. Còn ta cũng thấy đó là những tướng quân làm về
quân nhu như ta đọc trong Tam quốc diễn nghĩa.
Theo định nghĩa của Oxford thì “logistics được hiểu là một nhánh của khoa
học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện
thiết bị và nhân sự”.
Logistics có khái niệm liên quan đến kinh doanh bắt nguồn từ những năm
1950. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng trong việc cung cấp, vận chuyển trong
một thế giới toàn cầu hóa đòi hỏi phải có những nhà chuyên gia trong lĩnh vực này.
2.2.2. Logistics trong kinh doanh
Trong kinh doanh, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn

ngoại lực nó bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà ‘sản xuất gốc’ đến ‘người
tiêu dùng cuối cùng’. Chức năng chính của logistics bao gồm việc quản lý việc
mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng như lập
kế hoạch cho các hoạt động đó. Người quản lý logistics kết hợp kiến thức tổng
hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ chức để vận hành.
Có hai khác biệt cơ bản của logistics: Một thì đánh giá một cách lạc quan, đơn
giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của nguyên liệu trong mạng lưới vận
chuyển và lưu trữ. Một thì coi đó là một sự kết hợp các nguồn lực (nhân lực, vật
lực..) để tiến hành quá trình.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.2.3. Logistics trong quân sự
Trong quân sự, logistics được các chuyên gia quản lý để làm thế nào và khi
nào di chuyển các nguồn lực đến các địa điểm mà họ cần. Trong khoa học quân
sự thì việc duy trì cung cấp trong khi làm gián đoạn sự cung cấp của kẻ địch là
một nhân tố tối quan trọng trong chiến lược quân sự. Nếu làm được như vậy thì
kẻ địch chẳng có gì đáng sợ. Thật vậy trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa rất
nổi tiếng của Trung Quốc đã cho thấy “Tào Tháo thua hay rút quân cũng chỉ vì
quân lương bị cắt hết”.
2.2.4. Logistics trong quá trình sản xuất
Thuật ngữ này ám chỉ quá trình logistics trong các ngành công nghiệp. Mục
đích của nó là đảm bảo mỗi một máy móc thiết bị hay trạm làm việc được ‘nạp’
đủ sản phẩm với đúng số lượng, chất lượng và đúng lúc.
Vấn đề như vậy không phải là chỉ liên quan đến việc vận chuyển, mà còn là
phân luồng và điều chỉnh các kênh xuyên suốt quá trình gia tăng giá trị và xoá
bỏ những giá trị không gia tăng. Logistics trong quá trình sản xuất được áp dụng
cho cả những nhà máy đang tồn tại hoặc mới được thành lập hoặc đang trong
quá trình thành lập. Sản xuất chế tạo là một nhà máy với quá trình thay đổi ổn
định (có thể hiểu là một nhà máy thì luôn phải hoạt động nhưng với một công
suất ổn định),máy móc được thay đổi và thay mới trong quá trình hoạt động để

phù hợp với yêu cầu sản xuất .Theo đó sẽ là cơ hội cải thiện hệ thống logistics
trong sản xuất. Ngược lại, logistics sẽ cung cấp các ‘phương tiện’ cho việc đạt
được hiệu quả mong muốn của khách hàng và hiệu quả sử dụng vốn.
2.3.Đặc điểm của logistics
Logistics là một môn nghệ thuật và là một môn khoa học của quản lý, nó
điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hoá, năng lượng, thông tin và những nguồn
lực khác như sản phẩm, dịch vụ và con người, từ nguồn lực của sản xuất cho đến
thị trường. Thật là khó khi phải hoàn thành việc tiếp thị hay sản xuất mà không
có sự hỗ trợ của logistics. Nó thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải,
tồn kho, lưu kho, giao nhận nguyên vật liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm vận
hành của hoạt động logistics là việc tái định vị (theo mục tiêu địa lý) của nguyên
vật liệu thô, của công việc trong toàn quá trình, và tồn kho theo yêu cầu chi phí
tối thiểu có thể.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.4.Vai trò của logistics
2.4.1.Vai trò của logistics
- Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế quốc tế như cung cấp,
sản xuất, lưu thông phân phối; mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế.Khi
thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt, đặc biệt là việc
mở cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, logistics được các nhà
quản lý coi như là công cụ, một phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau của
chiến lược doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu dụng về thời gian và địa điểm
cho các hoạt động của doanh nghiệp.
- Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu trình lưu
chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện…tới
sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng.
- Logistics đóng vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Logistics cho phép người quản lý kiểm
soát và ra quyết định chính xác những vấn đề như vật liệu cung ứng, lưu trữ

trong kho, thời gian địa điểm cung ứng, phương thức vận chuyển…để giảm tối
đa chi phí phát sinh đảm bảo hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.
- Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi hoàn thiện dịch
giao nhận, đảm bảo yếu tố đúng thời gian- địa điểm (Just in time – JIT).
- Logistics cho phép các nhà kinh doanh vận tải giao nhận cung cấp
các dịch vụ đa dạng, phong phú hơn ngoài dịch vụ giao nhận vận tải đơn thuần.
Logistics là sự phối hợp, gắn kết các hoạt động, các khâu trong dòng lưu chuyển
của hàng hóa qua các giai đoạn cung ứng – sản xuất- lưu thông phân phối.
2.4.2.Tác dụng của logistics
- Dịch vụ Logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu
chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh
nghiệp.Với việc hình thành và phát triển dịch vụ Logistics sẽ giúp các doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân giảm được chi phí trong chuỗi
logistics, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tinh giảm hơn và đạt hiệu quả
hơn.
- Dịch vụ Logistics có tác dụng tiết kiệm và giảm chi phí hoạt động
lưu thông phân phối. Dịch vụ Logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kiệm cho phí vận tải và các chi phí khác phát sinh trong quá trình lưu thông dẫn
đến tiết kiệm và giảm chi phí lưu thông.
- Dịch vụ logistics góp phần gia tăng giá trị kinh doanh của các doanh
nghiệp vận tải, kho vận,…
- Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán
quốc tế.
- Dịch vụ logistics phát triển góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu
chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế.
II. Nội dung cơ bản của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp Việt
Nam
1.Dịch vụ logistics là gì?

1.1. Khái niệm về dịch vụ logistics
1.1.1.Dịch vụ logistics là gì?
Theo Hội đồng Quản lý dịch vụ logistics (CLM) quốc tế (Hội đồng này
thiết lập các nguyên tắc, thể lệ, mà các DN cung cấp dịch vụ logistics các nước
thường áp dụng và chịu quy chế của hội đồng này) “Logistics một phần của quá
trình cung cấp dây chuyền bao gồm lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm soát
hiệu quả, thông hiệu quả và lưu giữ các loại hàng hóa, dịch vụ và có liên quan
đến thông tin từ điểm cung cấp cơ bản các điểm tiêu thụ để đáp ứng các nhu cầu
của khách hàng”.
Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, Dịch vụ logistics là hoạt
động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan,
các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu,
giao hàng hoặc dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với
khách hàng để hưởng thù lao.
1.1.2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics
Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics là thương nhân tổ chức thực
hiện dịch vụ logistics cho khách hàng bằng cách tự mình thực hiện hoặc cho
thuê lại thương nhân khác thực hiện một hoặc nhiều công đoạn của dịch vụ đó
1.1.3. Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thương nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics là thương nhân
thuộc các nước vùng lãnh thổ mà Việt Nam có cam kết trong các điều ước quốc
tế về mở cửa thị trường kinh doanh dịch vụ logistics.
1.2. Phân loại các dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics theo quy định tại điều 233. Luật Thương mại năm 2005
được phân loại như sau:
1.2.1. Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container;

b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải
quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
d) Dịch vụ bổ trợ khác; bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả
chuỗi logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn
kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê
và thuê mua container.
1.2.2. Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải;
b) Dịch vụ vận tải thủy nội địa;
c) Dịch vụ vận tải hàng không;
d) Dịch vụ vận tải đường sắt;
e) Dịch vụ vận tải đường bộ;
f) Dịch vụ vận tải đường ống.
1.2.3. Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
b) Dịch vụ bưu chính;
c) Dịch vụ thương mại bán buôn;
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng
lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
e) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
1.3. Dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
Trong lĩnh vực sản xuất, logistics bao gồm những vấn đề như công nghệ,
lao động, nhu cầu và dung lượng thị trường.
- Dịch vụ khách hàng
- Dự báo cung cầu, quản trị tồn kho

- Thông tin Logistics
- Hệ nâng chuyển, dịch vụ phụ kiện hỗ trợ
- Quá trình đặt hàng, đóng gói, bao bì
- Bố trí nhà máy, kho
- Thu mua, dự trữ,vận tải, kho bãi
2. Những bước cơ bản của quy trình logistics
NHỮNG BƯỚC CƠ BẢN CỦA QUI TRÌNH LOGISTICS
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giữa người mua hàng và công ty logistics sau khi đạt được thỏa thuận về
dịch vụ được cung cấp, thì bên cung cấp dịch vụ sẽ xây dựng lên qui trình
logistics trong đó thể hiện rõ mọi yêu cầu về dịch vụ của người mua hàng mà
theo đó công ty logistics có bổn phận phải thực hiện đúng. Qui trình này thường
có tên là qui trình logistics hiện hành (Working Logistics Procedure) hay qui
trình khai thác tiêu chuẩn (Standard Operating Procedure). Có thể nói đây chính
là kim chỉ nam mà các công ty logistics tại Việt Nam phải chặt chẽ tuân theo
cam kết dịch vụ của khách hàng. Qui trình logistics bao gồm những bước chính
sau:
 Booking:
Theo hợp đồng thương mại ký kết với khách hàng về một đơn hàng cụ
thể, chủ hàng sẽ gửi chi tiết số đơn hàng (Purchasing Order - PO) theo mẫu
booking qui định cho công ty logistics bao gồm số PO, số loại hàng (style), số
thùng, số chiếc, số khối, màu, cỡ,…Những chi tiết yêu cầu này thay đổi tùy theo
khách hàng được qui định trong qui trình logistics. Ngoài ra trong mẫu booking
cần có những thông tin quan trọng khác như tên người gửi hàng, người nhận
hàng, số L/C,… Sau khi nhận được booking từ chủ hàng, người phụ trách khách
hàng (Customer Service Representative - CSR) của công ty logistics sẽ kiểm tra
những chi tiết này trên hệ thống dữ liệu mà đã được khách hàng cập nhật.
 Giao hàng:
Dựa theo số khối, khối lượng của đơn hàng được chấp nhận hoặc theo xác

nhận của khách hàng, công ty logistics sẽ thông báo cho chủ hàng về việc hàng
sẽ xuất theo dạng hàng lẻ hoặc container. Nếu xuất theo dạng hàng lẻ, chủ hàng
thường phải giao hàng vào kho của công ty logistics. Nếu xuất hàng trong
container, công ty logistics sẽ nhận booking container từ hãng vận chuyển và
gửi cho chủ hàng để đi nhận container về kho riêng để đóng hàng (khách hàng
sẽ có hợp đồng vận chuyển với một số hàng tàu, sự lựa chọn hãng tàu vận
chuyển sẽ tuân theo tỷ lệ phân bổ và thứ tự ưu tiên được qui định rõ trong qui
trình logistics).
 Chứng từ:
Một điểm lưu ý về chứng từ là khi giao hàng vào kho của công ty logistics
hay sau khi đóng hàng vào container tại kho riêng, chủ hàng phải nộp một số
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chứng từ bắt buộc với những thông tin chính xác theo yêu cầu của một số khách
hàng, nếu không hàng sẽ không được nhận hoặc xuất đi (NO DOC/NO SHIP).
Sau khi giao hàng vào kho của công ty logistics hoặc hạ tại bãi container,
chủ hàng sẽ cung cấp chi tiết lô hàng cho công ty logistics để làm vận đơn
đường biển (Bill of Lading - B/L, Sea WayBill SWB, hay House B/L), chứng
nhận nhận hàng (Forwarder's Cargo Receipt - FCR). Dựa trên chi tiết cung cấp
kết hợp với chi tiết thực nhận trong kho, CSR sẽ cập nhật vào hệ thống và in ra
chứng từ đã nêu cho chủ hàng.
3. Dịch vụ logistics gia tăng giá trị trong kinh doanh, khai thác cảng biển
Cảng biển là một đầu mối quan trọng của dịch vụ cung ứng. Ngoài những
chức năng chính, các cảng biển có thể phát triển những dịch vụ tiềm năng, đó là
các dịch vụ gia tăng giá trị (Value Added Services). Các dịch vụ gia tăng giá trị
có thể chia thành 2 nhóm chính:
- Logistics gia tăng giá trị (Value Added Logistics-VAL)
- Các phương tiện gia tăng giá trị (Value Added Facilities-VAF)
Trong nhóm dịch vụ logistics gia tăng giá trị bao gồm:
- Dịch vụ logistics tổng hợp (General Logistics Services - GLS);

- Dịch vụ tích hợp logistics (Logistics Chain Intergation Services - LCIS).
Chức năng của cảng biển hiện nay đã được mở rộng và phát triển, tạo ra các
dịch vụ giá trị gia tăng làm tăng hiệu quả kinh tế của hoạt động khai thác kinh
doanh, thu hút thêm khách hàng, mở rộng miền hấp dẫn của cảng. Nhờ kết quả
đó mà nâng cao được vị thế và tăng khả năng cạnh tranh của cảng.
III. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc phát triển các dịch vụ logistics
của các doanh nghiệp Việt Nam
1. Điều kiện tự nhiên
Lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền, theo tổng
điều tra đất năm 2002 là 329.297 km
2
và vùng biển rộng hơn 1 triệu km
2
.Việt
Nam nằm trong vùng nhiệt đới nên khí hậu chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của chế
độ gió mùa châu Á. Lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.500 - 2.000 mm.
Độ ẩm trên dưới 85%. Bờ biển Việt Nam trải dài hơn 3.260 km. Trung bình
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 20 km chiều dài bờ biển có một cửa sông thông ra biển. Các cửa sông
này chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ triều khá phức tạp. Dân số Việt Nam năm
2003 là 80,9 triệu người.
Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho vận tải quốc tế, nằm ở khu vực
chiến lược trong vùng Đông Nam Á. Bờ biển trải dài trên 2.000 km, có nhiều
cảng nước sâu, các sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên quốc gia và mạng
lưới giao thông là tiền đề khả quan để phát triển logistics.
Điều kiện địa lý thuận lợi là một trong những yếu tố để phát triển logistics.
Các cảng biển tự nhiên, ví dụ như vịnh hay các cảng nước sâu…là một trong
những đặc điểm địa lý rất có giá trị trong việc phát triển vân tải sông, biển mà
bất kỳ quốc gia nào cũng mong có được.

2. Điều kiện kinh tế kỹ thuật
2.1. Cơ sở hạ tầng
Việc có được điều kiện địa lý thuận lợi sẽ mở ra khả năng phát triển mô
hình logistics. Trong hoạt động logistics thì cơ sở hạ tầng đóng vai trò rất quan
trọng bao gồm: Hệ thống cảng biển, sân bay, đường sắt, đường ôtô, đường sông
và các công trình, trang thiết bị khác như hệ thống kho bãi, phương tiện xếp dỡ,
hệ thống thông tin liên lạc…cơ sở hạ tầng là một trong những bộ phận cấu thành
hoạt động cung ứng dịch vụ logistics. Đặc biệt gần hai năm khi Việt Nam gia
nhập WTO thì vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra bộ mặt mới cho hệ thống cơ sở
hạ tầng của Việt Nam. Đã có rất nhiều các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng đang
được thực hiện.
Hệ thống cảng biển Việt Nam đã được quy hoạch và đang hình thành và
phát triển đa dạng, phong phú. Các loại hình cảng mới như cảng nước sâu, cảng
container chuyên dụng…với vốn đầu tư lên tới hàng chục, trăm triệu USD đã
được xây dựng, đang phát huy tác dụng…Lượng hàng hóa vận chuyển thông
qua cảng hàng năm đều tăng về mọi chỉ tiêu kể cả hàng hóa xuất nhập khẩu
cũng như hàng hóa vận chuyển nội địa.
2.2. Trình độ công nghệ thông tin
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự ra đời của thương mại điện tử
hơn bao giờ hết đã mở ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp trong ngành giao
nhận vận tải và logistics nói riêng khả năng tinh giảm chi phí, nâng cao hiệu quả
kinh doanh và sức cạnh tranh của mình trên thị trường.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Công nghệ thông tin và thương mại điện tử tại Việt Nam còn mới mẻ, song
lại có tốc độ phát triển rất nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với hiện trạng và xu hướng phát triển công nghệ thông tin cũng như thương
mại điện tử của Việt Nam sẽ tạo ra nhiều cơ hội và khả năng áp dụng công nghệ
logistics trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vị trí của
logistics trong toàn bộ quá trình phân phối vật chất, thực chất là sử dụng và xử

lý thông tin để tổ chức và quản lý chu trình di chuyển hàng hóa qua nhiều cung
đoạn, chặng đường, phương tiện, địa điểm khác nhau đáp ứng yêu cầu kịp thời,
đúng lúc.
3. Trình độ quản lý hoạt động logistics
Logistics còn là lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam, trên thực tế đã có một số
doanh nghiệp áp dụng quy trình Logistics nhưng mới dừng ở mức độ thực hành
và thao tác. Còn kiến thức toàn diện về logistics cũng như quản trị logistics chưa
được đào tạo và trang bị đầy đủ, nhưng đứng về nguồn nhân lực cung cấp phục
vụ hoạt động logistics thì hiện tại ở Việt Nam khá dồi dào.
4. Sự cạnh trạnh của các doanh nghiệp trong nước
Trong kinh doanh việc tạo ra cạnh tranh là việc rất dễ hiểu, các doanh
nghiệp logistics cạnh tranh để dành thị phần cho mình, nhằm tạo ra lợi nhuận và
uy tín cho doanh nghiệp.
Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp dịch vụ logistics trong
lĩnh vực vận tải biển còn gặp nhiều khó khăn thì các tập đoàn hàng hải lớn thế
giới đã và đang từng bước thâm nhập, củng cố, chiếm lĩnh thị trường trong nước
và ngày càng khẳng định vị trí lớn mạnh của mình như APL, Mitsui OSK,
Maersk logistics, NYK logistics… Đây là những tập đoàn hùng mạnh, tính cạnh
tranh rất lớn với bề dày kinh nghiệm, năng lực tài chính khổng lồ, có mạng lưới
đại lý, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới,
mạng lưới thông tin kết nối rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao và đảm bảo
khép kín quy trình hoạt động vận chuyển hàng hóa toàn cầu.
5. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Về chính sách hội nhập, Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế thông qua những cải cách về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, xây
dựng hệ thống pháp luật kinh tế và tài chính phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trở thành thành viên chính thức của WTO đã đưa VN thành một quốc gia mở
cửa về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư.

- Vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể là nguồn vốn ODA nhằm phát triển
cơ sở hạ tầng và các nguồn vốn từ các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cho VN
ngày càng tăng. Bốn, lĩnh vực dịch vụ đang được quan tâm phát triển, hoạt động
logistics đã bắt đầu thu hút sự chú ý của các cấp quản lý Nhà nước cũng như của
các DN trong và ngoài nước.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương II. Thực trạng phát triển các dịch vụ logistics của các doanh
nghiệp Việt Nam
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và quá trình phát triển của các dịch vụ
logistics
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.Cơ sở hạ tầng của hệ thống doanh nghiệp Việt Nam
Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo nàn,
manh mún, bố trí bất hợp lý. Các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng
chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ
container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Khả
năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường không được thiết kế để vận
chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ, năng lực vận tải
đường sắt không được vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Đường
hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc
vận chuyển vào mùa cao điểm. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn Nhất, Nội Bài,
Đà nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực hoạt động cho đại lý logistics
thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực đang làm.
1.2.Trình độ tổ chức quản lý hoạt động logistics
Tổ chức quản lý còn chồng chéo. Các cơ quan chủ quản hiện nay đang
giảm dần việc quản lý doanh nghiệp logistics trực thuộc mà tập trung vào việc
lập ra chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế phân cấp quản lý
theo ngành dọc như Bộ GTVT - Cục hàng hải quản lý vận tải biển, Cục hàng
không dân dụng quản lý vận tải đường không, Bộ Thương mại quản lý giao

nhận và kho vận. Sự phân cấp trên tạo ra sự chuyên biệt trong kinh doanh giao
nhận và vận tải như là hai lĩnh vực kinh doanh riêng rẽ. Ví dụ như việc khai thác
cảng tại TPHCM. Cảng Sài Gòn thuộc quản lý của Vinalines, Cảng Bến nghé
thuộc UBND Thành phố, Tân cảng thuộc Bộ quốc phòng, VICT (liên doanh
Sowatco), các cảng cạn (ICD) thuộc Vimadeco, Gemadept, Transimex.
1.3. Hệ thống pháp lý
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vấn đề pháp luật điều chỉnh họat động logistics. Luật Thương mại VN qui
định họat động logistics là hành vi thương mại, công việc chính là cung cấp các
dịch vụ phục vụ vận tải hàng hóa, tổ chức vận chuyển nhưng khi đảm nhận việc
vận chuyển thì phải tuân theo pháp luật về vận chuyển. Tuy nhiên, hiện nay luật
cũng chưa cụ thể hóa qui chế của người chuyên chở không có tàu (NVOCC-
Non-vessel operating of common carrier) trong pháp luật về logistics.Việc cấp
phép họat động cho các công ty tư nhân của chính quyền địa phương lại được
thực hiện đại trà mà không xem xét khả năng tài chính, cơ sở vật chất của đơn vị
xin phép họat động. Các qui định về dịch vụ phát chuyển nhanh hiện nay còn coi
là dịch vụ bưu điện chứ chưa được coi là một loại hình dịch vụ logistics và còn
chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về bưu chính viễn thông. Đây là
điều rất bất hợp lý.
1.4. Quy mô tổ chức logistics ở Việt Nam
Nhìn lại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải, giao nhận kho vận
Việt Nam hiện nay, xét về quy mô của công ty, xét về tính chuyên ngành, đặc
biệt các công ty TNHH hiện đang chiếm một tỷ lệ đáng kể về số lượng các công
ty kinh doanh giao nhận kho vận nhưng quy mô của họ đều là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Có những công ty rất nhỏ, vốn đăng ký chỉ một vài trăm triệu đồng,
hoạt động tản mạn, manh mún. Các doanh nghiệp nhà nước hiện đang được cổ
phần hóa nhưng xu thế cổ phần hóa hiện nay của các doanh nghiệp đi ngược lại
quy luật “tích tụ vốn” và quy luật phát triển doanh nghiệp. Vì vậy, kể cả những
doanh nghiệp đã có lịch sử kinh doanh trên 30 năm, những doanh nghiệp nhà

nước trước đây đã được đầu tư vốn, trang bị kỹ thuật, đất đai nhà kho, về chính
sách tài chính và nhân lực…chưa có doanh nghiệp nào có năng lực đủ mạnh để
tham gia cung ứng dịch vụ logistics hoặc cung ứng dịch vụ vận tải tổng hợp tại
nước ngoài. Điều này chứng tỏ quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, trình độ cạnh
tranh trên thị trường dịch vụ quốc tế còn yếu, khả năng tiếp thị quốc tế chưa có.
Bởi thế, không những chúng ta chưa mở rộng việc cung ứng dịch vụ ra nước
ngoài mà chúng ta mất cả thị phần dịch vụ trong nước.
1.5. Trình độ công nghệ logistics
Theo đáng giá của VIFFAS thì trình độ công nghệ trong logistics ở Việt
Nam so với thế giới hãy còn yếu kém. Việc liên lạc giữa công ty giao nhận,
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
logistics với khách hàng, hải quan chủ yếu vẫn là thủ công, giấy tờ. Trong khi
những nước quanh ta như Singapore, Thailand, Malaysia…đã áp dụng thương
mại điện tử (EDI) cho phép các bên liên quan liên lạc với nhau bằng kỹ thuật
mạng tin học tiên tiến, thông quan bằng các thiết bị điện tử. Trong vấn đề vận tải
đa phương thức: Các hình thức tổ chức vận tải như biển, sông, bộ, hàng
không… vẫn chưa thể kết hợp một cách hiệu quả, chưa tổ chức tốt các điểm
chuyển tải. Các phương tiện vận tải còn lạc hậu, cũ kỹ nên năng suất lao động
thấp. Về trình độ cơ giới hóa trong bốc dỡ hàng hóa vẫn còn yếu kém, lao động
thủ công vẫn phổ biến. Công tác lưu kho còn lạc hậu so với thế giới, chưa áp
dụng tin học trong quản trị kho như mã vạch, chương trình quản trị kho.
2. Quá trình phát triển của các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, lĩnh vực kinh doanh dịch vụ logistics hàng hải còn rất mới mẻ.
Phần lớn các dịch vụ hàng hải chỉ dừng lại phần việc của các công ty giao nhận,
các cảng biển hầu như chưa hình thành dịch vụ này. Thực tế, quá trình vận
chuyển hàng hoá bằng đường biển của ta chỉ đơn giản từ người gửi đến người
nhận (vận chuyển - xếp dỡ), còn các quá trình (dịch vụ) phục vụ cho gửi - nhận,
Việt Nam thường "nhường" cho người kinh doanh logistics của nước ngoài tại

Việt Nam thực hiện.
Tuy Nhà nước ta chưa cho phép người nước ngoài hành nghề hàng hải ở
Việt Nam, song bằng nhiều hình thức thông qua các văn phòng đại diện hoặc
các công ty của Việt Nam, họ đã tìm cách luồn lách hoạt động dưới nhiều hình
thức.
II. Khái quát thực trạng hoạt động kinh doanh các dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp Việt Nam
1. Thực trạng chung hoạt động kinh doanh các dịch vụ logistics của các
doanh nghiệp Việt Nam.
1.1. Quy mô các doanh nghiệp tham gia cung cấp dịch vụ logistics
Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh
mún. Nguồn lợi hàng tỷ đô từ nguồn lợi kinh doanh này lại đang chảy vào túi
các nhà đầu tư nước ngoài. Các Doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có một phần
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị trường
dịch vụ logistics. Theo tính toán mới nhất của Cục Hàng hải Việt Nam, lĩnh vực
quan trọng nhất trong logistics là vận tải biển thì DN trong nước mới chỉ đáp
ứng chuyên chở được 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, phần còn lại
đang bị chi phối bởi các DN nước ngoài. Điều này, đã thực sự là một thua thiệt
lớn cho DN Việt Nam khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu được vận
chuyển bằng đường biển. Năm 2006 lượng hàng qua các cảng biển Việt Nam là
153 triệu tấn và tốc độ tăng trưởng lên đến 19,4%. Đây thực sự một thị trường
mơ ước mà các tập đoàn nước ngoài đang thèm muốn và tập trung khai phá.
Hiện nay hạ tầng cơ sở logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo nàn, qui
mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm
trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ,
266 cảng biển và 20 sân bay. Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không
đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng
20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hoá quốc tế, các cảng đang trong

quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội tàu nhỏ và chưa dược
trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh nghiệm trong điều
hành xếp dỡ container.
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng (máy
bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là
đón được các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Tân Sơn
Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng vẫn chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực họat động cho
đại lý logistics thực hiện gom hàng và khai quan như các nước trong khu vực
đang làm. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường không dược
thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ,
năng lực vận tải đường sắt không được vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại
hóa. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt
chiếm khoảng 15% tổng lượng hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN
vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với
tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh nhất chạy tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh
(1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng đồng hồ. Và khá nhiều tuyến đường liên
tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng.
Quy mô doanh nghiệp còn thể hiện ở số nhân viên của công ty, nhiều doanh
nghiệp chỉ có từ 3-5 nhân viên, kể cả người phụ trách. Doanh nghiệp chỉ đáp
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ứng được một công việc đơn giản của một khách hàng. Cũng vì vốn và nhân lực
ít nên việc tổ chức bộ máy của các doanh nghiệp rất đơn giản, tính chuyên sâu
của các doanh nghiệp trong logistics không có.
Đặc biệt, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có văn phòng đại diện
tại nước ngoài trong khi xu thế hiện nay là logistics toàn cầu. Hơn thế nữa, tính
nghiệp đoàn của các doanh nghiệp logistics còn rất rời rạc, thiếu hợp tác hỗ trợ
lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh.
Các doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm khoảng 80% tổng số doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp này có số vốn rất nhỏ, có

doanh nghiệp chỉ đăng ký vốn kinh doanh từ 300-500 triệu đồng (tương đương
18.750-31.250 USD).
Trên thực tế, nếu muốn ký vận đơn vào Hoa Kỳ thì phải ký quỹ tới 150.000
USD. Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa từng bộ phận đã hình
thành các công ty cổ phần với cỡ vốn 5 tỷ đồng (khoảng 312.500 USD). Với quy
vốn như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam không thể đáp ứng được yêu cầu khi
gia nhập thị trường logistics thế giới.
Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và mang tên dịch
vụ logistics, nhưng doanh nghiệp dịch vụ logistics thực sự thì không nhiều. Nói
một cách giản đơn theo nghĩa đen thì những nhà cung cấp dịch vụ logistics trọn
gói Door to Door cho hàng hóa xuất nhập khẩu là những người tích hợp hàng
loạt các dịch vụ vận tải giao nhận thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu thành
một chuỗi liên tục để đảm bảo hàng hóa được vận chuyển Door to Door.
1.2. Cơ sở hạ tầng của các dịch vụ logistics tại Việt Nam
Với sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế trong thời gian qua, nhu cầu
giao lưu phân phối ngày càng trở nên cấp thiết và ngành logistic đã trở thành
một ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất Việt Nam. Hệ
thống cơ sở hạ tầng giao thông của VN bao gồm trên 17.000 km đường nhựa,
hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển và 20 sân bay.
Tuy nhiên chất lượng của hệ thống này là không đồng đều, có những chỗ chưa
đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại, chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia
việc vận tải hàng hoá quốc tế và cũng chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được
các máy bay chở hàng quốc tế. Một số “đường cao tốc” có thực hiện thu phí
giao thông - đó thực sự là các đoạn đường tốt. Ngược lại, khá nhiều tuyến đường
liên tỉnh, liên huyện đang ở tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Trong một số
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lĩnh vực công nghiệp, việc vận chuyển bằng đường sắt và đường thuỷ đang
chiếm ưu thế so với vận chuyển bằng đường bộ. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, lượng hàng hoá vận chuyển đường sắt chiếm khoảng 15% tổng lượng

hàng hoá lưu thông. Tuy nhiên, đường sắt VN vẫn đang đồng thời sử dụng 2 loại
khổ ray khác nhau (1.000 và 1.435 mm) với tải trọng thấp. Chuyến tàu nhanh
nhất chạy tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh (1.630 km) hiện vẫn cần đến 32 tiếng
đồng hồ.
1.2.1. Cảng biển Việt Nam
Các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các
đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn
thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container
Hệ thống cảng biển còn hạn chế, chúng ta chưa có những cảng nước sâu,
cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung
chuyển giữa các quốc gia vào cảng Việt Nam
Việt Nam có hơn 80 cảng biển với hơn 2.2 triệu mét vuông bến bãi và một
triệu mét vuông bến cảng. Các cảng chính ở Việt Nam do Cục Hàng Hải
quản lý và bây giờ được chuyển giao cho Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam.
Các cảng chính là cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng và cảng Sài Gòn, nhưng đều
là cảng ở cửa sông và cách biển khoảng 30 đến 90 km. Điều này rất bất lợi cho
tàu lớn cập cảng. Công suất bốc dỡ hàng năm gia tăng một cách đáng kể, cứ
khoảng 5 năm lại gấp đôi, từ 56 triệu tấn năm 1998 lên 114 triệu tấn năm 2003.
Các cảng gần vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm gần hai phần ba tổng sản
lượng cả nước.
Đội tàu cũng phát triển từ 679 chiếc với công suất 1.6 triêu DWT năm 2000
lên 928 chiếc với công suất 1.8 DWT năm 2003, tăng 12% số lượng tàu và 4%
công suất tàu.Tuy công suất khai thác vẫn thấp hơn so với các cảng hiện đại
trong khu vực nhưng, các cảng biển Việt Nam làm ăn ngày càng hiệu quả với
chi phí bến cảng, kho bãi thấp. So với chí phí kho bãi, bến cảng thì Việt Nam
vẫn rẻ hơn so với Trung Quốc và các cảng trong khu vực ASEAN. Các cảng
chính ở Thành phố Hồ Chí Minh gồm có: Tân Cảng Sài Gòn ( SaiGon New
Port), Cảng Cát Lái, Cảng Thị Vải Cảng Cái Mép, Cảng Khánh Hội 18
 Cảng VICT (Vietnam International Container Terminal) gần khu chế
xuất Tân Thuận.

25

×