A- Lời mở đầu
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể
quan hệ pháp luật dân sự nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và
phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Để một giao dịch dân
sự có hiệu lực pháp luật thì giao dịch đó phải đáp ứng được một số các điều
kiện do pháp luật quy định. Giao dịch dân sự vô hiệu được xác định trên cơ sở
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Việc tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu có rất nhiều ý nghĩa thực tiễn trong đời sống pháp luật và thực tiễn
B- Nội dung chính
I) Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu.
1) Giao dịch dân sự.
a) Khái niệm:
Khái niệm giao dịch dân sự được ghi nhận tại điều 121, BLDS 2005: “Giao dịch
dân sự là hợp đồng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt, nghĩa vụ dân sự”.
b) Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Điều 122, BLDS 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.”
2) Giao dịch dân sự vô hiệu:
2.1) Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 122, BLDS 2005 quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự. Như vậy, một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa
mãn tất cả các điều kiện này, nếu vi phạm vào một trong các điều kiện đó thì giao
dịch dân sự có thể bị vô hiệu. Điều 127, BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự
không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô
hiệu”.
Theo quy định tại Điều 127, BLDS 2005, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về
giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định.
Pháp luật quy định về giao dịch dân sự là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo ổn
định giao lưu dân sự, đồng thời là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Ngòai ra, thông qua các quy
định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cũng như giao dịch dân sự vô
hiệu, Nhà nước có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự nhất định nếu thấy cần
thiết vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
2.2) Phân loại giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu được xác định trên cơ sở các điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự. Dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể có các cách phân loại
giao dịch dân sự vô hiệu khác nhau.
• Dựa vào thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao
dịch dân sự vô hiệu được chia thành
Giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu: Đây là những giao dịch mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự là nghiêm trọng nên theo quy định của pháp luật, một số
giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu. Bất cứ lúc nào chủ thể cũng có quyền yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, thậm chí nếu chủ thể không có yêu cầu thì giao
dịch đó cũng bị xác định là vô hiệu.
Giao dịch dân sự bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu; Đây là những giao dịch dân sự mà mức độ vi phạm các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự không nghiêm trọng, hòan tòan phụ thuộc vào lợi ích
của các chủ thể nên các chủ thể có thể yêu cầu hoặc không yêu cầu tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu. Pháp luật sẽ quy định một thời hạn nhất định, trong
khỏang thời gian đó các chủ thể có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu, kết thúc thời gian đó nếu chủ thể không yêu cầu thì họ sẽ không còn quỳên
này nữa
• Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng giao dịch dân sự cụ thể thì giao dịch
dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự vô hiệu tòan bộ: Đó là các giao dịch mà tất cả các nội dung
của giao dịch đều vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự hoặc có
một số nội dung của giao dịch vô hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới các phần
còn lại của giao dịch.
Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: Đó là các giao dịch dân sự chỉ có một số
nội dung vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, còn các nội
dung khác không vi phạm hoặc có một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không
ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.
• Nếu dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không nghiêm trọng của giao
dịch dân sự cũng như căn cứ vào ý chỉ của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia
giao dịch thì giao dịch dân sự vô hiệu được chia thành:
Giao dịch dân sự đương nhiên vô hiệu ( giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối):
Đó là các giao dịch mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
là nghiêm trọng, kể cả khi các bên tham gia giao dịch không yêu cầu tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu thì các giao dịch đó vẫn được xác định là giao dịch dân
sự vô hiệu. Giao dịch dân sự đương nhiên vô hiệu bao gồm: Giao dịch dân sự vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội ( Điều 128,BLDS 2005 ), giao
dịch dân sự được xác lập do giả tạo (Điều 129, BLDS 2005). Nói cách khác, các
giao dịch dân sự đương nhiên vô hiệu chính là các giao dịch dân sự không bị hạn
chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu ( khỏan 2, điều
136. BLDS 2005 ).
Giao dịch dân sự vô hiệu khi có yêu cầu ( giao dịch dân sự vô hiệu tương
đối ): Mức độ vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường
hợp này là không lớn, các chủ thể tham gia giao dịch có thể yêu cầu hoặc không
yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. Theo quy định của BLDS 2005
thì các giao dịch dân sự vô hiệu khi có yêu cầu là các giao dịch dân sự không thuộc
trường hợp đương nhiên vô hiệu. Hay nói cách khác, các giao dịch dân sự vô hiệu
khi có yêu cầu chính là các giao dịch dân sự chịu sự hạn chế về thời hiệu yêu cầu
tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu ( khỏan 1, Điều 136,BLDS 2005 ).
Ngòai ra, nếu căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được
quy định tại điều 122, BLDS 2005 thì có thể phân chia giao dịch dân sự vô hiệu do
vi phạm từng trường hợp cụ thể khi vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự.
• Phân lọai giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS 2005
Trên cơ sở về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 122, BLDS
2005 phân loại cụ thể giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái với đạo
đức xã hội (Điều 128, BLDS 2005):
Theo quy định tại Điểm b, Khỏan 1,Điều 122, BLDS 2005 thì “Mục đích và nội
dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội”. Trên cơ sở quy định này, Điều 128, BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự
có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô
hiệu”.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo ( đìều 129,BLDS 2005):
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là sự thống nhất. Khi ý chí đích thực
và sự thể hiện ý chí đó không có sự đồng nhất ( mặc dù bản thân chủ thể hòan tòan
kiểm soát được quá trình bày tỏ ý chí) thì giao dịch dân sự sẽ được xác định là vô
hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy định giao dịch dân sự sẽ được xác định là vô
hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy định giao dịch giao dịch dân sự được xác lập
một cách giả tạo thì giao dịch sẽ bị vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực. Nếu giao dịch bị che giấu cũng vi phạm vào điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự thì giao dịch bị che giấu cũng vô hiệu. Ngoài ra, khi các chủ thể xác lập
giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô
hiệu.
Ví dụ, để trốn tránh nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại B, A đã bán tài sản của
mình cho C nhưng thực tế hợp đồng mua bán giữa A và C là giả tạo. Trong trường
hợp này, hợp đồng mua bán giữa A và C vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện ( Điều
130, BLDS 2005 ):
Đối với các giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự được xác lậo, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà theo quy định của