Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận môn Lý thuyết kiểm toán SỰ KIỆN ENRON VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ SỰ KIỆN NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.05 KB, 32 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP.HCM



Môn: Lý thuyết kiểm toán
TIỂU LUẬN:

SỰ KIỆN ENRON VÀ BÀI HỌC KINH
NGHIỆM RÚT RA TỪ SỰ KIỆN NÀY

GVHD: TS. TRẦN KHÁNH LÂM
LỚP: 14KT11
NHÓM 05:Khúc Tân Biên
Trần Văn Điệp
Quách Đông Giàm
Trần Quang Hoàng
Nguyễn Minh Quang
Đinh Thị Thu Thủy
Hoàng Mộng Ngọc
Đinh Công Thành
Trần Bình Trọng


TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 – 2014




1

MụC LụC

LỜI MỞ ĐẦU 2
I.TẬP ĐOÀN ENRON VÀ CÔNG TY KIỂM TOÁN ARTHUR ANDERSEN
(A&A) 3
1.1 Khái quát về tập đoàn năng lượng Enron 3
1.2 Khái quát về công ty kiểm toán Arthur Anderson (A&A) 4
1.3 A&A ở Việt Nam 8
II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA TẬP ĐOÀN NĂNG LƯỢNG ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔ
CỦA ARTHUR ANDERSEN (A&A) 9
2.1 Bắt đầu từ sự kiện sụp đỗ của tập đoàn năng lượng số một của Mỹ -
Tập đoàn Enron 9
2.2 Diễn biến sự sụp đổ của Arthur Andersen 13
2.3 Nguyên nhân sụp đổ của Enron 16
III.BÀI HỌC KINH NGHIỆM 23
3.1 Gian lận trong các BCTC và báo cáo kiểm toán 23
3.2 Minh bạch các thông tin tài chính 24
3.3 Các tiêu chuẩn của thành viên hội đồng quản trị độc lập 25
3.4 Phân tích và theo dõi tài chính do các tổ chức chuyên môn thực hiện 28
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31




2

LỜI MỞ ĐẦU

Kiểm toán là hoạt động nhằm xác minh tính trung thực và hợp lý của các tài liệu,
số liệu kế toán, báo cáo tài chính của các tổ chức, cơ quan đơn vị, doanh nghiệp,
bảo đảm việc tuân thủ các chuẩn mực và các quy định hiện hành.
Kiểm toán làm gia tăng giá trị cho các Báo cáo tài chính (BCTC). Từ đó những
người quan tâm tới tình hình tài chính của đơn vị như: Nhà đầu tư, các ngân
hàng, khách hàng, nhà cung cấp, người lao động, nhà nước để đưa ra các quyết
định kinh tế như: Đầu tư, cho vay, cấp tín dụng thương mại, bán hàng, đưa ra các
chính sách thuế phù hợp Những nhận xét đánh giá của những công ty này chính
là căn cứ cho các nhà đầu tư khi họ cân nhắc có nên đầu tư hay không dựa vào
các báo cáo kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các số liệu kế toán của
một công ty. Điều gì sẽ xảy ra nếu các công ty kiểm toán này đưa ra những nhận
xét, đánh giá không xác đáng về BCTC của công ty được kiểm toán? Chắc chắn
những thành viên của gia đình kiểm toán Việt Nam đã từng biết tới sự kiện tập
đoàn năng lượng lớn nhất nước Mỹ tập đoàn Enron sụp đổ dẫn tới sự sụp đổ của
công ty kiểm toán Arthur Andersen (A&A) vì đã đưa ra những báo cáo kiểm toán
sai lệch về tình hình tài chính của Enron. Điều này đã làm cho đại gia kiểm toán
đứng thứ 5 của Mỹ Arthur Andersen phải sụp đổ. Để làm sáng tỏ những hành vi
nghiêm trọng này của A&A nhóm thuyết trình sẽ trình bày diễn biến, nguyên
nhân kết quả và trách nhiệm pháp lý của sự kiện này.



3

SỰ KIỆN ENRON VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ SỰ KIỆN
ENRON
I. TẬP ĐOÀN ENRON VÀ CÔNG TY KIỂM TOÁN ARTHUR
ANDERSEN (A&A)
1.1 Khái quát về tập đoàn năng lượng Enron
Tập đoàn năng lượng Enron tên ban đầu là công ty Northern Natural Gas

được thành lập năm 1931 tại Omaha Nebraka và được tái cơ cấu năm 1979 khi
công ty này được sáp nhập với Holding Company Inter-North. Năm 1985 công ty
mua lại Houston Gas Natural và đổi tên thành tập đoàn Enron . Sau này chính
CEO của Houston đã chuyển trụ sở của enron về Houston, Texas, USA.
Enron ban đầu hoạt động trong lĩnh vực truyền tải và phân phối điện, gas
trên toàn nước Mỹ, xúc tiến, xây dựng, đưa vào hoạt động các nhà máy điện , các
hệ thống đường ống khí thiên nhiên. Enron sở hữu một mạng lưới lớn các đường
ống khí thiên nhiên xuyên biển, xuyên biên giới như: Northern Natural Gas,
Florida Gas Transmission, công ty Transwestern Pipenline cùng với 1 đối tác
phía Canada. Doanh thu của Enron chủ yếu thu từ các hoạt động trên và nó tài trợ
cho các hoạt động đàu tư mao hiểm của Enron.
Năm 1998 Tập đoàn này lấn sân sang lĩnh vực cung cấp nước và thành lập
tập đoàn Azurix. Tuy nhiên Azurix đã thất bại thảm hại đặc biệt tại Bunos Aires.
Thất bại này đã khiến Enron mất một khoản tiền lớn. Tháng 8/2001 Enron có ý
định phá sản Azurix và bán tài sản của tập đoàn này đi.
Trước khi sụp đổ năm 2001 Enron có khoảng 22,000 công nhân và là một
trong những tập đoàn năng lượng dẫn đầu trong lĩnh vực cung cấp khí thiên
nhiên, điện, sản xuất bột giấy, truyền thông, doanh thu năm 2000 đạt 111 tỷ
USD.
Enron đã từng là một công ty năng lượng tăng trưởng nhanh và là một tập
đoàn năng lượng lớn nhất thế giới có thời kỳ Enron là một trong 7 tập đoàn lớn
nhất nước Mỹ xét về giá trị cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu


4

của Enron lên đến đinh cao 90 đô la vào tháng 8/2000. Một năm sau đó, vào
tháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 triệu đô la trong quý 3/2001 và giá trị
vốn cổ đông giảm 1,2 tỉ đô la. Tháng 11/2001 giá cổ phiếu của công ty tụt xuống
dưới 1 đô la.

Enron stock Price from August 23, 2000 toianuary 11, 2002


Giá trị cổ phiếu của Enron từ 23-08-2000 đến 11-01-2002
Tháng 12/2001 công ty tuyên bố có thể phá sản và cho nghỉ việc hàng ngàn nhân
viên. Tháng 1/2002 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ bắt đầu cuộc điều tra hình sự về công ty
Enron.
1.2 Khái quát về công ty kiểm toán Arthur Anderson (A&A)
Công ty kiểm toán Arthur Anderson có trụ sở đặt tại Chicago đã từng là
công ty kiểm toán lớn thứ năm thế giới hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, thuế,
dịch vụ tư vấn
Công ty do Arthur Andersen thành lập vào năm 1913 khi ông ở tuổi 28.
khách hàng đầu tiên của A&A là công ty sản xuất bia Jojeph Shiite brewing.
Andersen, từng lãnh đạo công ty cho tới năm 1947 khi ông chết, là một
người theo đuổi các chuẩn mực đặc biệt cao trong ngành kiểm toán kế toán. Là
một biểu trưng về tính trung thực, ông cho rằng trách nhiệm của kiểm toán viên
là vì lợi ích của nhà đầu tư chứ không phải là ban giám đốc của khách hàng. Đã
có nhiều trường hợp Andersen chịu mất khách hàng lớn chứ không ký xác nhận


5

cho các báo cáo không chính xác. Người kế nhiệm Leonard Spacek tiếp tục nhấn
mạnh vào sự trung thực này. Trong nhiều năm, khẩu hiệu của Andersen là
"Think straight, talk straight."
Tới thập kỷ 80, các chuẩn mực trong ngành bị giảm do các công ty kiểm
toán cố gắng cân bằng giữa cam kết độc lập và phát triển dịch vụ tư vấn.
Andersen cũng không là ngoại lệ. Bộ phận tư vấn của Andersen phát triển nhanh
tới mức trở thành doanh thu chính và các giám đốc kiểm toán được khuyến khích
tìm kiếm cơ hội cho tư vấn từ các khách hàng kiểm toán hiện hữu. Tới cuối thập

ký 90, Andersen đã tăng gấp ba doanh thu trên cổ phiếu.
Vào năm 2002 do có sự sai phạm nghiêm trọng trong việc kiểm toán tập
đoàn năng lượng Enron công ty đã bị thu hồi giấy phép hành nghề kiểm toán độc
lập và chính điều này đã làm mất hơn 85.000 việc làm của nhân viên trong công
ty.
Thuật ngữ kiểm toán đã ra đời và tồn tại cách đây hơn 100 năm, cùng với
sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chính trong thời điểm đó đã
xuất hiện sự phân chia quyền lợi giữa các ông chủ xí nghiệp và những người
quản lý làm thuê. Và kiểm toán độc lập ra đời như là một hình thức "trọng tài"
chuyên kiểm tra tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính trước các
ông chủ xí nghiệp. Như vậy, trọng trách của kiểm toán chính là bảo vệ quyền lợi
của các ông chủ thông qua việc xác nhận tính chính xác của các báo cáo tài chính
của doanh nghiệp.
Nhưng, không hẳn chỉ dừng ở chỗ đó, các kiểm toán viên còn muốn gửi
gắm vào các báo cáo tài chính của mình hình ảnh và danh tiếng của một nghề cần
được trọng vọng. Cho tới thời điểm này, trên thế giới có hàng trăm công ty kiểm
toán đăng ký hoạt động và được công nhận, thế nhưng, trong số hàng trăm công
ty lớn nhỏ trên toàn cầu chỉ có 5 công ty - thường được gọi là "Big Five" - là
những "đại gia" hàng đầu trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn
(PricewaterhouseCoopers, Andersen, Deloitte & Touche, K.PMG, Ernst


6

&Youtig). Vậy điều gì khiến 5 đại gia này trở nên nổi tiếng và khác biệt với tất
cả các công ty kiểm toán khác trên thế giới?
Danh tiếng của 5 đại gia này được nâng dần lên cùng thời gian và năm
tháng, và cùng với danh tiếng đó là lợi nhuận khổng lồ mà không phải công ty
nào cũng có thể có được. PricewaterhouserCoopers là một ví dụ. Các partner của
công ty này hiểu rằng cái chính mà họ có là danh tiếng chứ không hẳn là dịch vụ

kiểm toán hay tư vấn nào khác, đã vượt qua các đối thủ nặng ký khác trong cuộc
đua tranh giành quyền kiếm phiếu cho giải Oscar và công khai mở một loạt dịch
vụ kiểm toán trong nhiều lĩnh vực.
Thị trường cung cấp dịch vụ kiểm toán cũng có điều gì đó gần giống như
thị trường cung cấp vũ khí. Mỹ chắng hạn, khi bán vũ khí cho một nước thứ ba
bao giờ cũng có đảm bảo việc trợ giúp về mặt chính trị hoặc quân sự. Trong khi
đó, các nước khác, trong đó có Nga, thường chỉ bán nguyên liệu và công nghệ
mà không kèm theo sự ủng hộ về chính trị hay quân sự nào. Các công ty kiểm
toán cũng vậy. Hàng trăm công ty kiểm toán lớn nhỏ trên thế giới có thể lập các
báo cáo tài chính xuất sắc với các kết luận không kém gì Big Five, vậy nhưng các
khách hàng lại sẵn sàng móc hầu bao "chi đẹp" cho các dịch vụ của Big Five để
mua thêm danh tiếng của họ về cho mình.
Có thể nhận định rằng, danh tiếng của mỗi một công ty kiểm toán thuộc Big
Five đáng giá hàng tỷ dollar. Tuy nhiên, cũng thật thú vị khi biết rằng, không một
công ty kiểm toán nào trong số này lọt vào Top 75 best brands do Hãng
Interbrand tổ chức bình chọn, mặc dù nếu tính về số lượng nhân viên cũng như
lợi nhuận thu được thì các thành viên thuộc Big Five đáng lẽ ra phải là những
công ty dẫn đầu.
Sử dụng dịch vụ của Big Five thường là các công ty, tập đoàn mà do
nguyên nhân này hay nguyên nhân khác muốn củng cố hoặc đánh bóng uy tín và
danh tiếng của mình trước một đối tác thứ ba trong các trường hợp sau:
* Tham gia vào các Quỹ Quốc tế (đối tác thứ ba là các thành viên của Quỹ)


7

* Thu hút vốn đầu tư trực tiếp (các nhà đầu tư)
* Tìm kiếm và thiết lập mối quan hệ với các khách hàng lớn tiếng tăm mới
* Tham gia vào các cuộc đấu thầu quốc gia
Danh tiếng và uy tín của các công ty kiểm toán thuộc Big Five - nói một

cách hơi thái quá - chính là một thứ "bùa hộ mệnh" cho các khách hàng khi muốn
làm đẹp mặt mình trước các đối tác thứ ba. Và ngược lại, chính các công ty hay
tập đoàn lớn, khi trờ thành khách hàng của các công ty kiểm toán thuộc Big Five
lại củng cố thêm địa vị và danh tiếng của công ty kiểm toán. Một sự bù trừ thú vị
cho cả chủ lẫn khách mà qua việc hợp tác với nhau, bên lợi nhất vẫn là các công
ty kiểm toán, bởi danh tiếng càng cao, lợi nhuận của họ cành nhiều, khách hàng
càng ngày càng đến với họ đông hơn. Và ngay cả các kiểm toán viên cũng chính
là những "kẻ may mắn" kinh doanh carrer của mình dựa trên danh tiếng và uy tín
của các công ty mà họ đang làm việc. Bất cứ ai đã từng làm việc cho một trong
các công ty kiểm toán thuộc Big Five, khi rời khỏi công ty đến với một nơi làm
việc mới cũng thường mang theo một phần danh tiếng của nơi họ đã từng làm
việc, và ít nhất trong hồ sơ xin việc của họ, bóng dáng của các Big Five này cũng
góp phần đánh bóng bản thân ứng viên. Lợi nhuận nhiều, nhưng mất mát cũng
không ít.
Như đã nói ở trên, danh tiếng và uy tín của các công ty kiểm toán thuộc Big
Five càng ngày càng tăng. Công ty càng ăn nên làm ra, khách hàng càng nhiều,
và trong bảng danh sách các khách hàng của bất cứ một công ty kiểm toán nào
thuộc Big Five cũng có mặt rất nhiều tên tuổi các tập đoàn tiếng tăm trên thế giới
từ lĩnh vực sản xuất, thương mại cho đến bảo hiểm, tài chính ngân hàng hoặc
viễn thông.
Tuy nhiên, tấm huân chương nào cũng có hai mặt. Lợi nhuận nhiều, uy tín
tăng, nhưng nếu không cẩn thận sẽ xảy ra nhiều trường hợp mà như ông cha vẫn
thường nói "kiếm củi ba năm thiêu một giờ" như trường hợp của Andersen sau
vụ scandal bê bối liên quan đến việc kiểm toán cho Tập đoàn năng lượng Enron
năm 2001 là một ví dụ. Hay như vụ phá sản của ngân hàng Anh Barings mà Ernst


8

& Young tham gia với tư cách là một thành viên trong hội đồng thanh lý tài sản

của ngân hàng này. Năm 1994 công ty kiểm toán này đã phải chi 400 triệu dollar
tiền đền bù do sơ suất của mình trong việc nghiên cứu thị trường bất động sản tại
xử sở sương mù. Rồi vụ phá sản của hãng bảo hiểm Independent cũng một thời
gây tai tiếng cho một trong năm công tỵ kiểm toán lớn. Tháng 5 năm 2001,
Pricewaterhouse Coopers đã phải móc hầu bao chi 55 triệu đô la trong vụ kiểm
toán cho hãng Microstrategy. Lịch sử tách rời Andersen Consulting và Arthur
Andersen cũng như PricewaterhouseCoopers và chi nhánh văn phòng tư vấn luật
Landwell cũng không thể trả lại thanh danh và uy tín cho các công ty này.
Như vậy, danh tiếng và uy tín của các công ty kiểm toán lớn không những
được tăng lên nhờ vào chất lượng công việc mà còn có khả năng bị tổn hại nếu
không cấn thận trong từng bước đi của mình. (Tổng hợp từ tài liệu của Ward
Howell International ).
1.3 A&A ở Việt Nam
Công ty TNHH Kiểm toán và Đầu tư Tài chính Nam Việt (Viet Auditors
Co., Ltd.) được thành lập bởi các kiểm toán viên người Việt đã làm việc nhiều
năm cho Arthur Andersen và KPMG - hai trong số năm công ty kiểm toán lớn
nhất thế giới (the Big Five).
Với phong cách làm việc mang tính quốc tế, cùng bề dày kinh nghiệm và sự am
hiểu sâu rộng về tài chính kế toán Việt Nam, Công ty luôn đảm bảo mang lại cho
khách hàng các dịch vụ đa dạng với chất lượng tốt nhất.
Bên cạnh các loại hình về kiểm toán, kế toán thông thường, Nam Việt cũng đã
triển khai sâu rộng các lĩnh vực liên quan như:
 Xây dựng, đánh giá độ tin cậy và đưa ra các giải pháp hoàn thiện hệ thống
kiểm soát nội bộ;
 Thẩm định tài chính doanh nghiệp, trong đó các chuyên gia sẽ giúp các
nhà quản lý doanh nghiệp “buộc các con số trong báo cáo tài chính phải
lên tiếng”.


9


 Tư vấn quyết toán thuế: Bên cạnh kinh nghiệm nhiều năm làm kiểm toán,
các chuyên gia của công ty cũng đã tham gia giữ vai trò Giám đốc tài
chính doanh nghiệp, đúc kết nhiều phương thức làm việc chuyên nghiệp
trong việc quyết toán thuế, thu nhập doanh nghiệp, giá trị gia tăng và thuế
thu nhập cá nhân , đảm bảo các rủi ro về nghĩa vụ thuế và các trách
nhiệm liên quan của doanh nghiệp ở mức thấp nhất.
Trước năm 2002, thị trường tư vấn tài chính và kiểm toán thế giới chịu sự
thống trị tuyệt đối của ngũ đại gia: KPMG, Deloitte & Touche, Emst &
Young, PriceWaterhouseCooper, và Arthur Andersen. Họ chiếm ba phần tư
doanh số của thị trường tư vấn - kiểm toán trị giá hàng trăm tỉ đô la mỗi năm.
Trong 100 công ty lớn nhất thế giới, 99 công ty sử dụng dịch vụ của ngũ đại
gia.Nhưng từ đầu năm 2002, người ta đã hiểu là một trong ngũ đại đã diệt vong,
và từ nay chỉ còn "tứ đại gia".Bắt đầu từ vụ vỡ lở vào cuối năm 2001 và đầu năm
2002, mọi người mới nhìn kỹ hơn đến nhà kiểm toán Arthur Andersen. Đây
không phải lần đầu đại gia này bị lâm vào rắc rối.
Nhưng tất cả các lần rắc rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền
"dàn xếp" với bên nguyên đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để
dàn xếp các vụ kiện dân sự trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron
thì Andersen không còn có thể đàn xếp, vì đây là vụ án hình sự.
Dưới đây là diễn biến, nguyên nhân dẫn tới sự sụp đố của đại gia Kiểm toán
A&A và trách nhiệm pháp lý mà công ty này phải gánh chịu do những vi phạm
đạo đức nghiêm trọng đã gây ra.
II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA TẬP ĐOÀN NĂNG LƯỢNG ENRON KÉO THEO
SỰ SỤP ĐỔ CỦA ARTHUR ANDERSEN (A&A)
2.1 Bắt đầu từ sự kiện sụp đỗ của tập đoàn năng lượng số một của Mỹ -
Tập đoàn Enron
Được thành lập từ năm 1985 trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston
Natural Gas và Internorth of Omaha, cái tên Enteron (ruột) xuất phát từ ý tưởng



10

cho rằng đó là bộ phận không thế thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhờ những quy
định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập niên 90, họ đã gây
dựng từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi sự cân bằng
trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng năm 1992
buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống phân phối
của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị trường
năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sấp xếp hợp đồng giữa người
mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng lượng ngang
hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy trị giá
hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng lên
ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi,
Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện
viễn thông.
Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD,
lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí
Fortune, luôn công bố những thông tin thiếu thực tế điều mà Enron là công ty có
nhiều tiềm năng nhất với số vốn kinh doanh 63 tỷ USD.
Sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá nhiều vào các giao dịch tài
chính. Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do
cá nhân. Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2
tỷ USD. Khi công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng
bằng cổ phiếu. Làm cách đó, giá trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng. Khi
ủy ban Chứng khoán Mỹ điều tra, Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi, cổ phiếu
của Enron tụt giá thảm hại, lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ không đầu
tư nữa và công ty khánh kiệt.
Theo các chuyên gia kinh tế, một công ty hoạt động lành mạnh phải công khai tài
chính với các đối tác và ngược lại. Thế nhưng, nhiều đối tác của Enron đã không

tuân theo các nguyên tắc kế toán khiến họ bất lực trong việc kiểm soát tình hình


11

tài chính. Một công ty được đánh giá là có doanh thu trên 100 tỷ USD mà lợi
nhân đạt ở mức khó tưởng 10 tỷ USD. Đây chính là cơ sở nghi ngờ khiến vụ việc
này bị phanh phui, số nợ 1,2 tỷ USD bị che giấu đã gây hoảng loạn trên thị
trường chứng khoán khi nó bị tiết lộ.
Chính những thông tin sai lệch về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo
rất hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen và các nhà phân tích phố
Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục. Chi nhánh Houston
của Arthur Andersen đã đưa ra những Báo cáo Kiểm toán sai lệch nhằm có lợi
cho Enron nên đã nhận được 1 triệu USD/tuần còn tham gia cả việc tìm kiếm
đối tác cho Enron, số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các nhân viên kiểm toán
và họ dễ dàng bở qua nguyên tắc. Điều trần trước Quốc hội Mỹ, Tổng giám đốc
điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận họ đã phạm sai lầm
nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã làm tất cả để hạn chế
thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết tài liệu có liên
quan đến vụ việc, ngay cả khi ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều tra.
Nhiều nhà phân tích chứng khoán hồi tháng 11 /2001 còn tư vấn cho khách
hàng mua cổ phiếu Enron. Nhiều người thừa nhận không hiểu sâu về công việc
làm ăn của Enron nhưng tin rằng đây là công ty có triển vọng bởi cổ phiếu của họ
liên tục tăng giá trong thời gian dài. Trong khi các chuyên gia phân tích phải
đánh giá tình hình tài chính của Enron một cách độc lập thì họ lại phụ thuộc chủ
yếu vào báo cáo tài chính do Arthur Andersen cung cấp.
Đến khi công ty tuyên bố phá sản với số nợ 31,2 tỷ USD, không ít nhà đầu
tư bị mất trắng. Mọi người cho rằng Enron là một công ty lâu đời với rất nhiều
nhà máy thì họ có thể bán bớt tài sàn. Tuy nhiên, điều này là vô vọng. Thực tế cả
ông Bill Clinton, Tổng thống Bush và nội các đều có mối quan hệ chặt chẽ với

giới chóp bu của tập đoàn Enron, nhưng tất cả đều phủ nhận có liên quan đến sự
sụp đổ này.


12

Hai năm trước, Chủ tịch ủy ban Chứng khoán Mỹ Arthur Levitt yêu cầu các
công ty không nhận phí kiểm toán do lo ngại tiêu cực dễ nảy sinh, nhưng ông đã
vấp phải sự phản đối quyết liệt. Sự cố đang xảy đến với Andersen có khả năng
biến đề xuất của Levitt thành sự thật.
Các chuyên gia cho rằng tình hình của Enron có thể khả quan hơn và rất có
thể không dẫn tới sụp đổ nếu như những báo cáo tài chính của Enron không được
bảo kê bởi một thương hiệu lớn: Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen.
Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng
lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng
lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn. Để che
giấu việc công ty đã vay quá khả năng chi trả, lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẽ hở
luật pháp để lập ra các công ty con mà không khai báo tài chính.
Bằng cách này, Enron vừa không phải công khai các khoản nợ, vừa che
giấu được những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng lợi nhuận của mình
và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà Enron phải
thông báo chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu USD,
những người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu
của công ty.
Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của
công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những
vụ mua bán này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chi còn
giá 0,6 USD.
Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận
hành của điều mà nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một

mạng lưới chằng chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc
biệt là Công ty kiểm toán Arthur Andersen đã giúp cho Enron.


13

Kế toán trưởng của Enron là Richard Causey - Kiến trúc sư thiết kế ra hệ
thống lừa dối cổ đông - nguyên là kiểm toán viên của Andersen chuyển sang.
Điểm lý thú là Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó
chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của
Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khống lồ. Ví dụ, năm 2000,
phí tư vấn là 27 triệu USD và phí kiểm toán là 25 triệu USD.
Tin vào danh tiếng của Arthur Andersen (hoặc cố tin), đến lượt các công ty
phân tích chứng khoán và ngân hàng đầu tư ở phố Wall cho đến trước cuộc
khủng hoảng vẫn khuyên các nhà đầu tư mua cố phiếu của Enron.
2.2 Diễn biến sự sụp đổ của Arthur Andersen
Trước năm 2002, thị trường tư vấn tài chính và kiểm toán thế giới chịu sự
thống trị tuyệt đối của ngũ đại gia: KPMG, Deloitte &Touche, Ernst & Young,
PriceWaterhouseCooper, và Arthur Andersen. Họ chiếm ba phần tư doanh số của
thị trường tư vấn - kiểm toán trị giá hàng trăm ti đô la mỗi năm. Trong 100 công
ty lớn nhất thể giới, 99 công ty sử dụng dịch vụ của ngũ đại gia.( Số liệu từ tạp
chí Casablanca).
Bắt đầu từ vụ vỡ lờ vào cuối năm 2001 và đầu năm 2002, mọi người mới
nhìn kỹ hơn đến nhà kiểm toán Arthur Andersen. Đây không phải lần đầu đại gia
này bị lâm vào rắc rối.
Nhưng tất cả các lần rắc rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền
"dàn xếp” với bên nguyên đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để
dàn xếp các vụ kiện dân sự trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron
thì Andersen không còn có thể dàn xếp, vì đây là vụ án hình sự.
Ngoài các lỗi như không phát hiện được những bất thường trong hồ sơ kế

toán của Enron, giúp Enron nổi danh trên thị trường trong khi thực chất đang
thua lỗ nặng., thì Andersen đã bị buộc một tội hình sự nghiêm trọng là cố ý cản
trở công việc điều tra thông qua việc tiêu hủy hàng ngàn tài liệu có liên quan đến


14

Enron. Enron - tập đoạn lớn thứ 7 nước Mỹ - bắt đầu sa lầy vào khủng hoảng từ
cuối năm 2000. Ngày 26-10-2001, công ty sụp đổ với khoảng nợ 13 tỷ đô la và
hàng tỷ đô la nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải
tuyên bố phá sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ khiến hàng
ngàn nhân viên đã đầu tư vào quỹ lương hưu của Enron giờ đã tay trắng hoàn
toàn. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ quyết định điều tra xem có phải các giới chức Enron
đã phạm tội lừa đảo trước khi công ty phá sản hay không? cổ phiếu của Enron bị
ngừng giao dịch trên thị trường hôm 11-1. Tập đoàn Arthur Anderson chịu trách
nhiệm kiểm toán của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ khá nhiều tài liệu nói
về sai phạm tài chánh ở Enron. Cuối năm 2000, Enron đã cầu cứu các giới chức
cao cấp của chính quyền Bush, trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và
Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans để tìm kiếm sự giúp đỡ. Lúc đó, ông O'neil
đã không thông báo cho TT Bush về cuộc khủng hoảng của Enron và chính
quyền cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của
Enron khiến họ giờ đây bị mất tất cả. (Source:AP và AFP).
Lời bào chữa duy nhất của Andersen là việc tiêu hủy tài liệu chỉ là "quy
trình bình thường" và công ty vẫn lưu giữ những tài liệu ở mức tối thiểu theo luật
định. Ngay sau khí bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện
khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD.
Ngay sau khi vỡ lở vụ việc, Arthur Andersen bắt đầu thương lượng để sáp
nhập vào Deloitte &Touche, công ty xếp thứ 5 thế giới trong lĩnh vực kiểm toán
và từng là đối thủ cạnh tranh của Arthur. Cuộc đàm phán đầu tiên giữa hai hãng
được bắt đầu với nội dung Deloitte sẽ đảm bảo thanh toán các khoản nợ của

Arthur có nguồn gốc từ vụ phá sản Enron, và thương hiệu Arthur Andersen phải
biển mất. Nhưng khi Deloitte nhận thức được qui mô của vấn đề, cuộc đàm phán
đã không đi đến kết quả nào.
Cuộc đàm phán thứ hai là với KPMG, đổi thủ cạnh tranh truyền kiếp của
Andersen. Cũng như Deloitte, công ty KP.MG không sẵn lòng tiếp nhận cái


15

thương hiệu quá tệ hại, trong khi rất muốn tiếp nhận một phần trong số 85,000
chuyên gia của Andersen, những người không chỉ mang theo chuyên môn mà
còn mang theo mỗi quan hệ với khách hàng.
Cuối cùng thì PKMG cũng đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ"
của Andersen với cái giá rẻ mạt là 284 triệu USD. Một trong ngũ đại gia là Ernst
& Young đã chiếm được phần lớn những khách hàng và chuyên gia của
Andersen ở Mỹ.
Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi
Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến
nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting.
Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế
giới, với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200
người, chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty
khách hàng trước đây.
Nếu vụ tai tiếng Enron có thể minh chứng cho một điều gì đó thì đó là bản
chất dính líu lẫn nhau của thế giới kinh doanh hiện đại. Sự kiện sụp đố của Enron
có liên quan tới rất nhiều người, đặc biệt là ở tiểu bang Texas. “Ở một mức độ
nào đó thì rõ ràng là mọi người đều có dính liu với Enron”, Richard Murray,
giám đốc trang tâm Chính sách Công cộng của viện đại học Houston, khẳng
định.
Dù sao, trong lúc tổ chức Enron có một tác động tiêu cực với cộng đồng

kinh doanh Texas thì với những công ty trực tiếp dính líu đến Enron trong việc
kinh doanh, hậu quả thật sự là thảm họa. Với công ty kiểm toán cho Enron,
Arthur Andersen, việc dính líu này có một tác động chết người.
Hơn nữa, vụ tai tiếng Enron có liên quan đến việc kiểm toán. Đặc biệt là
việc che giấu hồ sơ liên quan đến tài khoản và những món nợ khổng lồ của
Enron, một thực tế về sự đồng loã của công ty kiểm toán. Sự đồng loã này càng


16

rõ ràng hơn khi David Duncan, kể toán trưởng của Enron ở Andersen, bị buộc
phải có mặt trong cuộc điều tra đầu tiên đã từ chối nói chuyện để cố chạy tội cho
bản thân. Ngay cả khi Joseph Beradino, trưởng ban điều hành của Andersen,
ngang ngạnh bảo vệ cho vai trò của công ty ông trong việc này cũng không thể
tránh được những tổn thương bắt buộc. Một khi họ đã bị cáo buộc là có tội trong
việc huỷ hoại chứng cớ, công ty gánh chịu sự tổn thương thương hiệu nghiêm
trọng và những chấn động vẫn còn cảm nhận được trong toàn ngành công nghiệp
kiểm toán.
2.3 Nguyên nhân sụp đổ của Enron
Nguyên nhân sự sụp đổ của Enron, xuất phát chủ yếu từ ban giám
đốc(BGĐ). Thứ nhất, do những mục tiêu đặt ra cho BGĐ là quá cao trong khi
năng lực BGĐ có hạn. Thứ hai, BGĐ phải chịu một áp lực rất lớn trong việc báo
cáo có lãi và gia tăng lãi trong khi công ty gặp bất lợi trong kinh doanh. Thứ ba,
việc xác định tài sản, công nợ, doanh thu và chi phí thường dựa trên ước tính chủ
quan của BGĐ (chẳng hạn đánh giá giá trị của các công cụ tài chính). Thứ tư,
BGĐ không tuân thủ chính sách quản trị công ty đã đề ra.
Việc BGĐ cấp cao gây áp lực lớn lên các nhà quản lý cấp cao và kiểm toán
viên đã góp phần kéo Enron, công ty lớn thứ 7 ở Mỹ, xuống vực thắm như: Với
chiên lược tăng trưởng nhanh, BGĐ Enron tích cực mua thêm các công ty và tài
sản khác. Một phần lớn vốn vay từ ngân hàng. Một phần vốn do công ty phát

hành quyền chọn mua cổ phiếu của cống ty (Mang lại quyền mua cổ phiếu cơ sở
vào một thời điểm nhất định với mức giá định sẵn ( giá thực hiện) với đối tác
enron. Người mua quyền chọn sẽ phải trả một khoản phí cho ngựời bán quyên
chọn); Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng
lượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng
lượng. Đây là lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn; Sự độc
quyền trong việc quản lý kiểm soát, điều hành công ty; lãnh đạo công ty quyết
định sản xuất với mức cao hơn công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty
giảm giá thành đơn vị sản phẩm (nhờ tận dụng chi phí cô định), qua đó tăng lợi


17

nhuận trong năm hiện tại. Tuy nhiên, mặt trái của việc làm này là máy móc thiết
bị phải làm việc với công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực tới năng
suất và độ bền của thiết bị. Đồng thời, sản phẩm làm ra nhiều không bán được sẽ
làm phát sinh chi phí bảo quản. Hàng tồn kho lâu ngày dẫn tới giảm giá trị. Các
chi phí này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty trong các năm tiếp
theo. Hay là cắt giảm các khoản chi phí hữu ích như chi phí nghiên cứu phát triển
(R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tu bảo dưỡng thiết bị. Các chi phí này có
vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của công ty trong dài hạn. Tuy nhiên, để
đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn ban lãnh đạo công ty có thể sẽ chọn giải
pháp cắt giảm các chí phí này, đồng nghĩa với việc hy sinh các khoản lợi nhuận
tiềm năng lớn trong tương lai.
Doanh thu: Giá cả trong ngành năng lượng dao động rất mạnh, trong khi
khách hàng có nhu cầu ổn định giá. Với tư cách là một nhà cung cấp, Enron đã
ký những hợp đồng cố định giá với khách hàng trong tương lai và thu phí từ
những hợp đông này. Những phí này được tính vào doanh thu hiện tại, trong khi
rủi ro trong tương lai Enron sẽ phải gánh chịu.
Các công ty con: còn gợi tắt là SPE (Special Purpose Entity) được Enron

thành lập ra để đứng tên tài sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài
chính. Ví dụ, khi Enron phát triển thêm đường ống, công ty có thế lập ra một
SPE. Đơn vị SPE này sẽ làm chủ đường ống và thế chấp ngay đường ống này để
vay tiền xây dựng. Enron vẫn được sử dụng đường ống này và lấy doanh thu từ
đường ổng để thanh toán cho chủ nợ. Theo cách này, bảng cân đối kế toán của
công ty không thể hiện cả tài sản (đường ống) lẫn trách nhiệm nợ tương ứng.
Luật kế toán liên quan đến SPE. Theo các qui định kế toán, trong tổng vốn của
công ty con phải có ít nhất 3% cổ phần của Enron. Nhưng nếu cổ phần của Enron
chỉ ở dưới 50% tổng cổ phần của SPE, sổ sách của Enron không phải thê hiện tài
sản và trách nhiệm nợ của SPE.


18

Sự lạm dụng các SPE: Tuy sổ lượng các SPE đã tăng lên trong nhiều
năm qua, một công tỵ có đến bốn hay năm đối tác như vậy đã là quá nhiều.Vào
thời điểm sụp đổ, Enron có đến 900 SPE, hầu hết đặt ở các nước ưu đãi thuế hay
dễ dãi về luật kế toán. Enron sử dụng những SPE này để thao túng các báo cáo
tài chính, che giấu các nhà đầu tư những thông tin lẽ ra phải công bố, và khai
thác các khác biệt về luật kế toán tài chính cũng như luật kế toán thuế.
Nợ của công ty con: Dù cho chỉ có rất ít vốn chủ sở hữu, các SPE có thể
vay ngân hàng do hai lý do. Thứ nhất, các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp
đông sử dụng tài sản của SPE nên hoạt động của SPE được bảo đảm. Thứ hai,
họ tin là Enron đã bảolãnh rủi ro cho các khoản vay của SPE.
Nợ của Enron: Bản thân Enron cũng đi vay để phát triển mở rộng, nhưng
một công ty không thể vay quá nhiều do các điều khoản hạn chế của chủ nợ.
Enron đã sáng tạo ra một xảo thuật hợp pháp trong đó Enron, SPE, và công ty JP-
Morgan đã dùng các hợp đồng hoán chuyển làm cho nợ dài hạn được thể hiện
trên bảng cân đôi như “trách nhiệm chứng khoán”.
Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận: Enron bán tài sản cho các SPE với

giá đã được thổi phồng lên để tạo ra lợi nhuận giả tạo. Công ty cũng mua qua bán
lại với SPE để tăng doanh số và giảm bớt mức độ dao động của lợi nhuận.
Ví dụ: Trong tháng sáu năm 2000 Enron bán cho LJM2(một trong những
SPE của Enron) một loại sợi đen với giá 100 triệu USD, nhưng thực sự nó chi có
giá trị khoảng 33 triệu USD. Việc mua bán đã được thực hiện tại một mức giá
tăng cao, cho phép Enron ghi một mức lợi nhuận $ 67.000.000 về thương mại.
 Enron cũng được sử dụng "Sham Swap". Có hoạt động Sham Swap khi
hai công ty trao đối tài sản để ghi doanh thu và tránh một khoản thua lỗ.
Trong tnrờng hợp này lợi nhuận sẽ được chia thành hai loại. Một là lợi
nhuận được thêm vào báo cáo tài chính của Enron và hai là lợi nhuận
được thêm vào quỹ dự phòng. Quỹ này có thể được sử dụng để che dấu
thua lồ. Nghiệp vụ này của Enron đã cho phép họ tăng giá trị của tài sảnvà


19

giao dịch trong khi rủi ro bản chất thật sự của họ bị che khuất.
Che dấu các tài sản hợat động không hiệu quả: Enron đã dùng các phần
lớn các SPE cho mục đích này.
Ví dụ: Enron chuyển các khoản đầu tư kém hiệu suất như Rhymths
Netconnections cho các SPE do đó bất kỳ sự sụt giảm tiếp theo trong giá trị của
những tài sản này sẽ không được công nhận trên báo cáo tài chính của Enron.
Năm 2000 và 2001 Enron cũng đã có thể ẩn dấu khoản thua lỗ khoảng 1 tỷ
USD kém hiệu quả cho các SPE
Quản lý các khoản thu nhập - Báo cáo doanh thu và lợi nhuận khi mong
muốn. Nghiệp vụ kế toán này đạt được khi Enron có các giao dịch phức tạp với
các SPE tên tuổi như Braveheart, UM 1 và Chewco.
Ví dụ, Enron đã có thể chuyển nhượng hợp đồng kinh doanh lâu dài với
Biockbuster Video cho một SPE để SPE này đạt được doanh thu 111USD
triệu.

Ngoài các nghiệp vụ trên, Enron đã tạo ra quan hệ đối tác với một số ngân
hàng, một trong số này là jp morgan và Citigroup. Các tổ chức tài chính phối hợp
với các công ty năng lượng (đã phá sản hiện nay) để thực hiện các mánh khóe tài
chính, các thỏa thuận đó cho phép Enron thổi phồng lợi nhuận của mình, che
giấu các khoản nợ đang phát triển và đẩy giá cổ phiếu của nó cao hơn. Cùng với
nhau, các ngân hàng và công ty môi giới đã huy động cho Enron ít nhất là 6 tỷ
đồng thông qua các khoản nợ hoặc phát hành cổ phiếu để bán cho nhà đầu tư
không nghi ngờ từ năm 1996 đến năm 2001 .Một khoản tiền khoảng 4tỷ USD
được đưa vào các SPE của Enron như Jedi, Chewco và LJM1 và LJM2. Các giao
dịch thường được sắp xếp vội vàng vào cuối năm trên giấy tờ mà không tuân thủ
chặt chẽ các chuẩn mực trong kế toán. Các ngân hàng thu được "hàng trăm triệu
USD từ hoa hồng bảo lãnh và phí tư vấn cũng như từ các mức lãi suất tăng cao
khi họ tính phí cho các khoản vay của Enron.


20

Che dấu thua lỗ: Tuy đến quý 3/2001 công ty mới báo cáo lỗ, nhưng thực
chất lỗ đã phát sinh từ các năm trước. Đặc biệt là vào cuộc khủng hoảng nhiên
liệu năm 2000, khi giá nhiên liệu thế giới lên cao nhưng Enron vẫn phải bán ra
với giá cô định theo các hợp đồng đã ký trước. Công ty đã dùng các thủ thuật hợp
đồng để chuyển những khoản lỗ này sang các SPE. Tuy nhiên khi các SPE thua
lỗ thì trị giá cổ phần của Enron trong SPE giảm xuống dưới mức tối thiểu 3%
theo yêu cầu. Việc Enron phải hợp nhất tình hình tài chính của SPE vào báo cáo
tài chính của công ty mẹ gây ra hai tác động: nợ của công ty mẹ tăng lên và lợi
nhuận của công ty mẹ giảm xuống.
Phản ứng dây chuyền: Enron cũng cho các SPE “vay” các cổ phiếu của
mình, khi giá cổ phiếu của Enron giảm xuống, tài sản của các SPE tiếp tục giảm
xuống và tiếp tục vi phạm quy định về 3% đến mức phải hơp nhất vào báo cáo
của Enron.

Gian lận của các quản lý cao cấp: Gian lận của các quản lý cao cấp diễn
ra trong toàn công ty. Nhiều cán bộ điều hành hưởng lợi. Hàng loạt cán bộ quản
lý của Tập đoàn năng lượng Enron dính líu đến gian lận kế toán, giao dịch nội bộ
bất hợp pháp. Việc đặt ra các nguyên tắc kế toán chặt chẽ, chế độ báo cáo hàng
qũy, quy định trả phí quyền mua cổ phiếu trước tỏ ra vô hiệu. Nguyên nhân bắt
nguồn từ một số vấn đề - các quy định, quy chế ban hành đã cản trở nhà đầu tư
khi "thôn tính” một công ty được đưa ra các quyết định của mình, luật thuế bị
lách theo hướng tiêu cực các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến Giám
đốc điều hành Andrew Fastow của Enron đã hưởng lợi trái phép trên 33 triệu
USD từ các giao dịch Kẽ hở giúp các vị giám đốc kiếm lời ở đây chính là mức
phí quyền mua cổ phiếu của nhân viên ở mức rất cao và tính độc quyền trong ban
quản lý công ty. Chi phí trả cho quyền mua cổ phiếu là điều đương nhiên nhưng
chi phí này chiếm tỷ lệ quá cao là điều vô lý, hay ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám
đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty. Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79
USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố.
Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD.


21

Thủ tục kế toán không minh bạch đã che đậy tình trạng thua lỗ của tập
đoàn băng cách thành lập các công ty vỏ bọc bên ngoài. Các bản báo cáo tài
chính không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao
(overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về
khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải
tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị
trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên
bán thân họ không muốn giá cố phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các
nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo
cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đôi phó nhằm tạo

ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện
doanh nghiệp thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường,
chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đã đấy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi
gian lận tài chính. Sau khi bị phanh phui, giá trị của Enron (giá trị của các cố
phiếu trên thị trường chứng khoán nhanh chóng bị tụt xuống dưới mức 1 tỷ USD
so với giá trị thực (Giá trị của các tài sản thuộc sở hữu công ty) 30 tỷ và kết cục
sau cùng là phá sản. Trong quá trình lập báo cáo tài chính, công ty thường sử
dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh
hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Vì không có một tiêu chuẩn
chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó được xem là một công cụ đắc lực để
phù phép lợi nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như
giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho (đánh giá lại tài
sản), giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá
xuống dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện (ví dụ
Chi phí đi vay không đủ điều kiện vốn hoá là chi phí không liên quan trực tiếp
đến việc đầu tư xây dựng cơ bản hoặc sản xuất tài sản dở dang được tính vào giá
trị của tài sản đó. Các chi phí đi vay chỉ được vốn hoá khi doanh nghiệp chắc
chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do sử dụng tài sản đó và chi phí đi
vay có thế xác định một cách đáng tin cậy. Chi phí đi vay được vốn hoá tính cho
2 trường hợp sau: Chi phí đi vay được vôn hoá liên quan đến từng khoản vốn vay


22

riêng biệt được xác định là chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vay trừ (-
) đi các khoản thu nhập phát sinh từ hoạt động đầu tư tạm thời của các khoản vay
này.
Chi phí đi vay được vốn hoá liên quan đến các khoản vốn vay chung được
tính toàn bộ chi phí đi vay thực tế phát sinh từ các khoản vốn vay chung vào giá
trị tài sản dở dang. Khoản thu nhập phát sinh do đầu tư tạm thời từ khoản vốn

vay chung được tính vào doanh thu hoạt động tài chính )
Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất
không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ
hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng
kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng
phải được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng
lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy
không thế gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi. Ngoài phù phép
thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phép lợi nhuận
thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management) nhằm
tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi
cho công ty về lâu dài.
Mỗi quan hệ giữa Andersen với enron không chỉ là tư vấn và kiểm toán
mà còn là nguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard Causay của
Enron nguyên là người của Andersen. Giám đốc Tài chính của Enron trước
Andrew Fastow là Jeffrey McMahon nguyên cũng từ Andersen chuyển sang.
Ngoài ra công ty Andersen đã cản trở công việc điều tra, hủy những tài liệu lưu
trữ của mình có liên quan đến Enron, chi giữ lại những tài liệu tối thiểu theo quy
định của luật.
Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen cố tình làm sai lệch thông tin
che mắt giới chức và lừa dối các nhà đầu tư Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm
toán của Andersen đã cực lực phản đổi phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần


23

sau, nhân viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của
Enron. Một nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng
khoán) đã xếp hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng”. Nhân
viên này bị sa thải ngay sau đó.

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
3.1 Gian lận trong các BCTC và báo cáo kiểm toán
Một chuyên gia cho rằng: “Vấn đề lớn ở Enron chính là sự kém cỏi chết
người đi trước gian lận. Enron chính là câu chuyện về việc đội ngũ quản lý, đứng
đầu là Ken Lay, xây dựng một văn hóa hướng thành tích (performance-oriented
culture) vừa thể chế hóa vừa dung hòa hành động lầm đường lạc lối.
Đây là trường hợp mà đội ngũ quản lý tạo ra một thế giới mà chính họ cũng
không hiểu, vì thế mà họ không thể điều khiển.” Chuyên gia đã cho rằng : “Đó là
một xã hội tội lỗi- đáng dùng cụm từ này hoàn toàn có mục đích- phát triển trong
một công ty, ở đây mong muốn nói đến sự thông đồng giữa các nhà tư vấn của
Enron và các trung gian kinh tế. Và quan trọng nhất, Enron là một ví dụ về yếu
kém tổng thể đi trước gian lận: khi mà nguồn gốc của sự yếu kém này chính là sự
thiếu kinh nghiệm, sự khờ khạo và một thái độ quá coi trọng kết quả Và sau
cùng là, là sự thiếu khả năng đối mặt với thực tế khi xuất hiện những vấn đề
không như ý muốn. Trong số các bài học ông nhấn mạnh cho các nhà quản lý vẫn
còn bị ảnh hưởng sau thất bại của Enron chính là tầm quan trọng của sự khiêm
tốn và biết mình biết người. Ban điều hành của Enron chi là những kẻ nghiệp dư
cố gắng chơi một trò chơi chuyên nghiệp. Họ đã sử dụng động cơ mà không cần
đến điều khiển. Sự cách tân của họ đã thực sự thành công bước đầu, nhưng đã
vượt quá tầm tay của họ. Là những kẻ nghiệp dư, Enron không biết gì về các lực
lượng họ tạo ra và bị lệ thuộc vào những lực lượng họ không thể hiểu được.
Từ điều này cho ta bài học khi nhìn lại ngành kiểm toán của Việt Nam.
Ngành Kiểm toán ở nước ta còn khá mới mẻ do vậy sự điều chinh nó không theo
kịp với tốc độ phát triển. Vậy chúng ta phải làm gì để hạn chế những tác động


24

không tốt đó. Rút kinh nghiệm từ A&A các công ty kiểm toán của Việt Nam phải
hiểu được ý nghĩa của những báo cáo kiểm toán họ đưa ra và kiểm soát thật tốt.

3.2 Minh bạch các thông tin tài chính
Cảm nhận gần đây về nguy cơ khủng hoảng của các công ty cổ phần phát
hành chứng khoán ra công chúng (public listed corporations) đã đặt ra nhiều câu
hỏi cơ bản về thực chất của cơ chế Quản trị công ty (Corporate Governance)
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Trước hết chúng ta
xem xét việc quản trị công ty cổ phần ở nhiều quốc gia, ở Việt Nam, dựa trên ba
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, sử dụng các thành viên Hội đồng Quản trị (HĐQT) độc lập
(independent directors) để kiềm chế quyền lực của ban giám đốc, đồng thời bảo
vệ quyền lợi của các cổ đông.
Thứ hai, sử dụng và tín nhiệm giới kế toán để trình báo cáo tài chính có tính xác
thực nhằm giúp cổ đông có thông tin đầy đủ khi đầu tư vào công ty.
Thứ ba, sử dụng và tín nhiệm các nhà phân tích tài chính để xem xét, phân tích
các triển vọng kinh doanh và mức độ lành mạnh về tài chính của các công ty
đang và sẽ phát hành chứng khoán ra công chúng nhằm cung cấp đầy đủ thông
tin cho công chúng muốn đầu tư. Dịch vụ chuyên môn này rất cần thiết cho các
nhà đầu tư cá nhân không đủ hiểu biết về tài chính, để đánh giá thông tin mà các
công ty cổ phần bắt buộc phải công bố ra công chúng. Khi một công ty cổ phần
hoạt động kém hơn mức trong ngành hay của thị trường, hoặc thiếu cơ chế quản
trị thích đáng, các nhà đầu tư sẽ phản ứng bằng cách bán cổ phần của họ, là một
hình thức áp đặt kỷ luật của thị trường lên ban giám đốc công ty.
Nguyên tắc thứ hai và thứ ba dựa trên nguyên tắc công khai thông
tin. Chính công chúng đầu tư (chứ không phải những người có nhiệm vụ điều
tiết, kiểm soát) có khả năng tốt nhất đế tự quyết định lấy việc đầu tư của mình vì
chi có họ mới biết rõ hoàn cảnh và mức độ sẵn sàng chịu rủi ro của mình. Tuỵ

×