Tải bản đầy đủ (.docx) (151 trang)

Tìm hiểu về Văn học Nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.33 KB, 151 trang )

Puskin ( Con đầm pic)
Tiếp nhận A.S.Pushkin ở Việt Nam
Tác giả: TS. Thành Đức Hồng Hà - Cập nhật: 19/04/2014
A.P.Pushkin được giới thiệu ở Việt Nam từ rất sớm, khoảng giữa những năm 20
của thế kỷ XX. Tuy nhiên sau hiệp định hòa bình Gionevo, các tác phẩm của
Pushkin mới được dịch, nghiên cứu và giới thiệu rộng rãi ở nước ta, đặc biệt vào
những dịp kỷ niệm 100, 150, 200 năm ngày sinh của ông, các tác phẩm đã được tái
bản và nhiều bài viết, công trình giới thiệu, nghiên cứu Pushkin trên nhiều lĩnh
vực.
A.S.Pushkin (1799 - 1837) là nhà thơ Nga vĩ đại, là bậc thầy của chủ nghĩa hiện
thực Nga, là “hiện tượng đặc biệt, có thể nói, duy nhất của tinh thần
Nga”(N.Gogol).
Sáng tác của Pushkin, với bề ngoài tưởng như giản dị, “trong suốt”, trên thực tế lại
không dễ tiếp nhận. Lịch sử phê bình và nghiên cứu sáng tác của nhà văn khẳng
định điều đó. Ngay từ năm 1880, F.Dostoevsky trong “Diễn từ về Pushkin” khẳng
định rằng Pushkin ra đi đã để lại “một bí ẩn” mà “thiếu ông” thế hệ sau phải “giải
đoán” như giải đoán bí ẩn sự tồn tại của chính mình. Sang đến thế kỷ XX, nhà thơ
Arsenhi Tarkovsky vẫn tiếp tục tuyên bố: “Không có câu đố nào khó hơn, phức tạp
hơn câu đố về Pushkin. Rất nhiều điều ở Pushkin vẫn là điều bí ẩn”[17,230]. Rồi
100 năm sau lời bình luận của Dostoevsky, vào năm 1980, nhà nghiên cứu N.Gey
tổng kết: “Thời gian đã cho thấy một cách thuyết phục rằng hiện tượng sáng tác
của Pushkin tự nó đã vượt ra khỏi giới hạn của những phương án giải quyết “dứt
điểm”… Những khó khăn lớn lao xuất hiện trên cấp độ của những cách tiếp cận
phân tích các tác phẩm, thí dụ như “Kỵ sĩ đồng”, “Boris Godunov”, hay thậm chí
“Đài kỷ niệm”, đó là chưa nói đến văn xuôi của Pushkin. Dường như tất cả những
tác phẩm ấy đã được nghiên cứu “dọc ngang đủ cả”, thế nhưng ta vẫn cảm thấy có
một cái gì đó chưa thấu phải để lại sau và có một cái gì đó thật quan trọng, có thể
chính là điều cơ bản, vẫn chưa được chạm tới… Bản chất trước tác của Pushkin
vẫn chưa được khám phá, vẫn còn “khép kín” trước chúng ta… Chúng ta chưa nắm
bắt được logich nội tại của tất cả các thành tố của thế giới ấy, chúng ta chưa “nghe
thấy” được tiếng nói của nó, chưa thâm nhập được vào cấu trúc của các hình tượng


ngôn từ”[16,8]. Việc nghiên cứu sáng tác của Pushkin sau khi nhà văn qua đời đã
hơn 200 năm vẫn là một vấn đề bức thiết đòi hỏi nỗ lực của các nhà nghiên cứu.
A.P.Pushkin được giới thiệu ở Việt Nam từ rất sớm, khoảng giữa những năm 20
của thế kỷ XX. Tuy nhiên sau hiệp định hòa bình Gionevo, các tác phẩm của
Pushkin mới được dịch, nghiên cứu và giới thiệu rộng rãi ở nước ta, đặc biệt vào
những dịp kỷ niệm 100, 150, 200 năm ngày sinh của ông, các tác phẩm đã được tái
bản và nhiều bài viết, công trình giới thiệu, nghiên cứu Pushkin trên nhiều lĩnh
vực.
Tiếp nhận qua dịch thuật và xuất bản
Pushkin đã để lại một khối lượng sáng tác đồ sộ với hơn 800 bài thơ, nhiều bản
trường ca (hoàn thành và chưa hoàn thành), tiểu thuyết bằng thơ Evgheni
Oneghin. Các tác phẩm của Pushkin luôn giản dị về mặt ngôn từ cũng như kết cấu,
nhưng lại là một thách thức đối với các dịch giả. Những năm 20 của thế kỉ XX,
nhiều tác phẩm của Pushkin được độc giả Việt Nam tìm đọc, dịch và giới thiệu với
công chúng. Đa phần các tác phẩm của ông được dịch từ nguyên bản tiếng Nga,
một số khác được dịch từ tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung. Ở thời điểm này, tiếp
nhận Pushkin cũng như sáng tác phẩm của ông ở hai miền Nam Bắc Việt Nam có
sự khác nhau. Theo sự nghiên cứu của Trần Quỳnh Nga “tên tuổi Pushkin được
nhắc ở chỗ này, chỗ khác”, ví dụ như tiểu sử tác giả được Trịnh Chiết giới thiệu
trong Từ điển danh nhân thế giới năm 1964, hay Nguyễn Hiến Lê giới thiệu chân
dung văn học Pushkin, “nhưng sự hiện diện tác phẩm của Pushkin gần như vắng
bóng… mới chỉ tìm thấy truyện ngắn Phát súng qua bản dịch của Nguyễn trên tạp
chí Bách khoa số 73/1960… Hầu như không có bản dịch thơ nào của Pushkin”
[12,184]. Lí giải cho điều này, tác giả cho rằng ở Sài gòn lúc bấy giờ chưa có ai
thông thạo tiếng Nga. Quan trọng hơn, việc dịch thuật thơ không mấy phát triển so
với văn xuôi.
Còn ở miền Bắc, năm 1958, trường ca Người tù ở Capcadơ được in trên tạp chí
Văn học số 24/1959 do Hoàng Trung Thông dịch. Trên Tạp chí Văn học số
187/1962 và số 31/1964 xuất hiện hai bài thơ trữ tình của Pushkin Gửi Traadaep và
Chiếc xe đời do Thúy Toàn dịch từ nguyên bản tiếng Nga. Đây là hai bản dịch

được trích từ tập bản thảo Thơ Pushkin của Thúy Toàn hoàn thành những năm 50
thế kỷ XX.
Năm 1966, nhà xuất bản Văn học cho xuất bản tuyển tập Thơ trữ tình của
A.S.Pushkin gồm hai phần, phần thơ trữ tình với 63 bài thơ, phần trường ca với
Người tù Capca và Đoàn người Tsưgan do các dịch giả Thúy Toàn, Hoàng Trung
Thông, Tế Hanh, Xuân Diệu, Hoàng Yến và Việt Thương dịch với số lượng 2360
bản. Ngày nay tuyển tập Thơ trữ tình được tái bản nhiều lần với số lượng lớn. Điều
này cho thấy tình yêu của độc giả Việt Nam đối với nhà thơ không bao giờ phai
nhạt và sự trường tồn qua năm tháng của các sáng tác Pushkin.
Những trích đoạn của tiểu thuyết bằng thơ Evghenhi Oneghin đã được nhiều dịch
giả như Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Minh Châu, Nguyễn Xuân Sanh, Việt Thương,
Đỗ Hồng Chung, Hoàng Hải dịch từ bản tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga. Vào
cuối những năm 50, đầu năm 60, ở Việt Nam giới sân khấu và âm nhạc đã dàn
dựng thành công vở nhạc kịch Evghenhi Oneghin của Traicovsky (Cao Xuân Hạo
dịch lời và nội dung tác phẩm ) trên sân khấu Nhà hát lớn và được công chúng đón
nhận một cách nồng nhiệt. Nhân dịp kỉ niệm 150 năm ngày mất của Pushkin
(1837-1987), lần đầu tiên tiểu thuyết bằng thơ Evghenhi Oneghin được Thái Bá
Tân dịch đầy đủ toàn bộ tác phẩm. Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên
nghiệp đã xuất bản với số lượng lớn và được tái bản trong những năm sau. Dịch
giả Việt Thương là người say mê Pushkin, người dịch các tác phẩm của ông với số
lượng lớn. Bản trường ca Rutxlan và Liudmila do Việt Thương dịch cũng được
giới thiệu và xuất bản năm này. Bên cạnh đó, những bài thơ trữ tình của Pushkin
được dịch và giới thiệu trong Thơ và kịch Pushkin chọn lọc do trường ĐHSPNN
Hà Nội xuất bản và hợp tuyển văn thơ Calina đỏ do NXB Đà Nẵng. Cũng trong
năm này truyện thơ Ông lão đáng cá được Hồ Quốc Vĩ dịch mới.
Sang những năm 90, xuất hiện nhiều bản dịch mới của nhiều dịch giả khác nhau
như Lương Trọng Lãnh với tập thơ Dựng đài kỷ niệm, Lê Đức Thụ, Trần Vĩnh
Phúc, Nguyễn Tùng Lương, Phạm Thị Thu Hà, Trần Minh Tâm với tập Thơ trữ
tình Nga Việt. Năm 1999, kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Pushkin, Trung tâm Văn
hóa – Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp với nhà xuất bản Văn học cho xuất bản tuyển

tập về Pushkin gồm 5 tập, trong đó có quyển thơ, trường ca với 154 bài thơ và 7
bản trường ca. Cũng trong thời gian này tuyển tập thơ Tôi yêu em của Pushkin
được in song ngữ Nga Việt do khoa tiếng Nga trường ĐHSP thành phố Hồ Chí
Minh xuất bản.
Độc giả Việt Nam đến với sáng tác văn xuôi của Pushkin tương đối muộn và, có
thể nói, không thật sự hào hứng như đối với thơ của ông. Cuối những năm 20 – đầu
những năm 30 của thế kỉ XX, các tác phẩm văn học Nga mới bắt đầu được dịch và
giới thiệu ở Việt Nam với những tác phẩm văn xuôi của L.Tolstoy, A.Chekhov,
M.Gorky… Mãi đến năm 1954, sáng tác của Pushkin mới đến được với độc giả
Việt Nam. Năm 1957, trên tạp chí Sinh viên, số 12, đăng bản dịch tiếng Việt đầu
tiên tác phẩm văn xuôi của Pushkin Lão chủ xe đòn đám ma do Chu Khắc dịch.
Năm 1960, Nhà xuất bản Văn hóa cho xuất bản tác phẩm Dubrovsky, Người con
gái viên đại úy do Cao Xuân Hạo dịch. Năm 1961, bản dịch Tuyển tập truyện ngắn
của A.Pushkin được xuất bản của Nguyễn Duy Bình, Phương Hồng, Thủy Nguyên,
Hoàng Tôn được Cao Xuân Hạo hiệu đính với số bản 10.080 cuốn và được Nhà
xuất bản Cầu Vồng tái bản. Năm 1985, Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên
nghiệp cho ra đời Truyện ngắn A.S.Pushkin do Đỗ Hồng Chung dịch. Năm 1999,
nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh nhà thơ thiên tài A.S.Pushkin, Nhà xuất bản Văn
học kết hợp với Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông tây cho ra mắt Alexandr
Pushkin - Tuyển tập tác phẩm gồm 5 tập và tập 1 mang tựa đề Văn xuôi Pushkin.
Pushkin là người yêu thích những tác phẩm kịch, đặc biệt là những vở kịch của
Molie ngay từ khi còn nhỏ. Từ những năm 1820-1830, ông đã dành nhiều thời gian
và công sức nghiên cứu lịch sử kịch Châu Âu để cách tân nền kịch Nga. Cuộc cải
cách ấy bắt đầu bằng vở bi kịch lịch sử Borix Godunov, tiếp đến là chùm bi kịch
nhỏ: Hiệp sĩ keo kiệt, Mozart và Salieri, Người khách đá, Bữa tiệc trong thời dịch
hạch. So với thơ, trường ca, tiểu thuyết bằng thơ Evgheni Oneghin, các tác phẩm
kịch của Pushkin được độc giả Việt Nam đón nhận khá hờ hững. Những vở kịch
của Pushkin được dịch và giới thiệu ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỷ XX.
Năm 1977, vở kịch Boris Godunov được Đỗ Hồng Chung dịch và giới thiệu trong
chuyên luận Pushkin – nhà thơ Nga vĩ đại. Năm 1979, vở kịch Ruxanca được

Vương Trí Nhàn dịch và in trên báo Văn nghệ số 5. Năm 1987, Tuyển kịch Puskin
do NXB Sân khấu xuất bản gồm bi kịch Borix Godunov (Thúy Toàn dịch) và ba
vở bi kịch nhỏ (Thái Bá Tân dịch). Đến năm 1999, sáu vở kịch của Pushkin đã
được dịch đầy đủ và trong đó có những tác phẩm kịch được tái bản nhiều lần.
Như vậy, việc dịch và xuất bản các sáng tác của Pushkin trong hơn 2 thế kỷ qua đã
nói lên nhiều điều về sức cuốn hút kì lạ và thị hiếu của độc giả Việt Nam. Các tác
phẩm quan trọng của Pushkin đều được dịch và giới thiệu ở Việt Nam với tần xuất
lớn. Một tác giả nước ngoài đến được với độc giả và được độc giả yêu mến như
vậy là nhờ một phần rất quan trọng ở đội ngũ dịch giả. Họ là những con người
không chỉ biết giỏi về ngoại ngữ, mà quan trọng hơn họ là những người hiểu rõ
nền văn hóa dân tộc Nga, yêu mến nước Nga và ít nhiều đã truyền tải được những
nét đặc sắc về cuộc sống, tâm hồn con người Nga. Bên cạnh đó là sự ủng hộ nhiệt
thành của các nhà xuất bản để tác phẩm sớm đến tay người đọc, góp phần làm
phong phú sự hiểu biết các nước khác trên thế giới.
Tiếp nhận qua nghiên cứu phê bình và ảnh hưởng sáng tác
Nghiên cứu phê bình là cầu nối giữa tác giả với người đọc nhằm đánh giá thẩm
định những giá trị của tác phẩm và mở ra xu hướng tiếp nhận cho độc giả.
Tên tuổi của Pushkin được biết đến giữa những năm 20, nhưng việc nghiên cứu
cuộc đời và các sáng tác của ông phải đến giữa những năm 50 của thế kỷ XX. Cho
đến nay, theo khảo sát của chúng tôi đã có khoảng 80 bài viết nghiên cứu được
đăng trên các tạp chí, báo, kỷ yếu hội thảo, trong đó có hơn 30 bài viết về Pushkin
nói chung, 8 bài về tiểu thuyết bằng thơ Evghenhi Oneghin, 18 bài viết về thơ trữ
tình của Pushkin, 15 bài về văn xuôi, 6 bài viết từ góc độ so sánh, 3 bài viết về
kịch. Riêng Hội thảo Pushkin và Gogol trong nhà trường được tổ chức năm 2009
tại trường ĐHSP Hà Nội đã có 33 bài viết, trong đó 24 bài viết về Pushkin. Các bài
viết đều đánh giá cao vai trò, sự ảnh hưởng của Pushkin và nghiên cứu tác phẩm
của ông từ nhiều góc độ, từ đó làm sáng tỏ sự cách tân nghệ thuật của Pushkin ở
mọi thể loại.
Người đi tiên phong trong việc nghiên cứu văn học Nga nói chung và Pushkin nói
riêng là GS Hoàng Xuân Nhị. Năm 1957, giáo trình đầu tiên về văn học Nga được

ra đời với tiêu đề Lịch sử văn học Nga thế kỉ XIX (gồm 3 tập) với 130 trang giới
thiệu về cuộc đời và các thể loại sáng tác của. Năm 1970, giáo trình Lịch sử văn
học Nga thế kỷ XIX do GS Nguyễn Hải Hà chủ biên đã được xuất bản. Phần viết
về Pushkin do Nguyễn Văn Giai biên soạn với 55 trang viết về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của Pushkin. Tiếp theo là bộ Lịch sử văn học Nga (1982) do các
thầy cô giáo của trường ĐHSP và trường ĐH Tổng hợp viết chung. Từ đó đến này,
ở Việt Nam đã xuất bản nhiều bộ giáo trình mới về văn học Nga và ngày càng
khẳng định tên tuổi Pushkin, khẳng định tài năng nhiều mặt trong những sáng tác
của ông như Văn học Âu – Mĩ (2006), Giáo trình văn học Nga (2011).
Đỗ Hồng Chung có thể coi là nhà “Pushkin học” đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1979
nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp đã xuất bản cuốn chuyên luận
Pushkin – nhà thơ Nga vĩ đại của ông với số trang dày dặn (gẩn 600 trang). Cuốn
sách gồm hai phần giới thiệu đầy đủ về thân thế sự nghiệp của Pushkin và tuyển
tập những tác phẩm tiêu biểu về mọi thể loại của ông.
Bên cạnh những bộ giáo trình, chuyên luận, chúng tôi thấy xuất hiện nhiều bài viết,
bài nghiên cứu về Pushkin dưới mọi góc độ. Xuất hiện nhiều bài viết và những
cuốn sách giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Pushkin, khẳng định tài
năng và vị trí của nhà thơ trên văn đàn Nga và thế giới. Lần đầu tiên trên tạp chí
Sông Hương số 30 đã đăng bài Nhân lễ bách chu niên một nhà đại thi hào Nga:
Pouchkine. Bài báo đã giới thiệu sơ qua những nét khái quát về cuộc đời Pushkin.
Thời kì sau này xuất hiện nhiều cuốn sánh nghiên cứu về Pushkin như Pushkin của
Hồ Sĩ Vịnh (1983); A.S.Pushkin mặt trời thi ca Nga của Phạm Thị Phương (2002);
Pushkin trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI của nhiều tác giả (2002), Tác gia, tác
phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường - Pushkin của Lê Nguyên Cẩn (2006),
Thành Đức Hồng Hà; Kể chuyện về Pushkin của Hoàng Thúy Toàn và Nguyễn
Hữu Duy (2007); Văn học Nga trong nhà trường của Hà Thị Hòa (2007);
Alêchxanđrơ Pushkin và Tôi yêu em của Hà Thị Hòa (2008). Các bài viết Tình yêu
của tôi đối với Puskin của Tế Hanh (1987), Thi hào Nga Puskin với Việt Nam của
Thúy Toàn (1994), Mặt trời của thơ ca nước Nga, đại thi hào thế giới tiến bộ:
A.X.Puskin của Trần Trọng Đăng Đàn (1997), Thiên tài Puskin của Hoàng Minh

Châu (1997), Một tình yêu và sự nghiệp lớn lao của Nguyễn Khoa Điềm (1999),
Puskin và vấn đề phương Đông của Vũ Thế Khôi (1999), Pushkin - nhà thơ của
dân tộc Nga của Trần Thị Phương Phương (1999)… Mỗi cuốn sách, mỗi bài viết
giúp cho độc giả hiểu sâu hơn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Pushkin, giúp
bạn đọc khám phá những giá trị thẩm mĩ của thơ văn Pushkin, vị trí và vai trò của
ông trong nền văn học Nga, cũng như văn học thế giới.
Thơ trữ tình Pushkin chiếm một vị trí đặc biệt trong nền văn học Nga. Bằng ngôn
từ và kết cấu giản dị, trong sáng nhưng hàm súc cô đọng, thơ Puskin khiến bao trái
tim độc giả rung động trước tinh thần đấu tranh vì tự do cho nhân dân và tình yêu
quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa nồng cháy. Thơ Pushkin được dịch ra nhiều
thứ tiếng và Tôi yêu em trở thành một trong những bài thơ tình nổi tiếng thế giới.
Xuất hiện nhiều bài nghiên cứu về thơ Pushkin như Puskin, nguồn thơ thấm sâu
cảm quan lịch sử hiện thực của Nguyễn Kim Đính (1979), Bức tranh, khúc nhạc và
con người trên “Con đường mùa đông” nước Nga của Trần Hinh (1991), Mối quan
hệ giữa nhà thơ A.S.Pushkin với cách mạng tháng Chạp 1825 của Nguyễn Huy
Hoàng (2009), Bài thơ “Tôi yêu em” của Phạm Thị Phương (2002), Cách mạng
Pháp trong thơ của Pushkin của Hà Thị Hòa (2009), Sức xuân của những hình
tượng nghệ thuật Pushkin của Trần Vĩnh Phúc (2009), Thời gian trong bài thơ Gửi
của A.Pushkin của Nguyễn Thị Thu Thủy (2009),Trở lại với bài thơ Tôi yêu em
của Pushkin của Phạm Xuân Hoàng (2009), Tôi yêu em hay cái tôi kiêu hãnh – độ
lượng của niềm đau khôn tả của Lê Huy Bắc (2009)
Trong toàn bộ sáng tác của Pushkin, tiểu thuyết bằng thơ Evghenhi Oneghin trở
thành tác phẩm trung tâm trong sự nghiệp sáng tác của ông, tác phẩm hiện thực
đầu tiên của nền văn học Nga. Giới nghiên cứu phê bình ở Việt Nam đánh giá cao
tài năng của Pushkin “Tiểu thuyết Evghenhi Oneghin bộc lộ tập trung, nổi bật tài
năng của Pushkin, thể hiện những quan sát lạnh lùng của trí tuệ và những nhận xét
cay đắng của trái tim”[6, 179]
Pushkin là nhà văn Nga đầu tiên đưa văn xuôi nghệ thuật lên ngang hàng với thơ
ca. Pushkin khai phá một hướng đi mới và góp phần đặt nền móng cho văn xuôi
Nga hiện đại. Ông đã cải cách nền văn xuôi Nga đương thời, khơi nguồn cho

N.Gogol, M.Lermontov, I.Turghenev, F.Dostoevsky, L.Tolstoy, A.Chekhov… làm
nên khuynh hướng văn xuôi hiện thực tâm lý xã hội Nga đặc sắc với những hình
tượng sống động, tính tư tưởng sâu sắc, với tinh thần nhân văn cao cả. Vai trò khởi
đầu của Pushkin trong lịch sử văn xuôi Nga từng được chính F.Dostoevsky khẳng
định trong lá thư gửi N.N.Strakhov ngày 5 tháng 4 năm 1870: “Pushkin,
Lomonosov là những bậc thiên tài. Xuất hiện với “Người da đen của Piốt Đại đế”
và “Tập truyện ông Belkin” - nghĩa là xuất hiện dứt khoát với thiên năng của một
tiếng nói mới trước đó chưa từng được nói ra ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Xuất
hiện với “Chiến tranh và hòa bình” – có nghĩa là đã xuất hiện sau tiếng nói mới của
Pushkin…” [14,452].
Nghiên cứu văn xuôi Pushkin từ góc độ nghệ thuật tự sự đã trở thành một hướng đi
mới mẻ để tìm hiểu những giá trị cách tân văn xuôi của Pushkin và sức sống
trường tồn theo năm tháng của các tác phẩm văn xuôi Pushkin. Ở Việt Nam văn
xuôi Pushkin, mặc dù được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm, nhưng chỉ
dừng lại những bài viết đơn lẻ. Nhận xét về truyện ngắn Pushkin, GS Hoàng Xuân
Nhị viết: “Đó là sự tái tạo nhằm diễn tả cuộc sống của con người bình thường
trong tác phẩm một cách trung thực, không tô vẽ… Truyện ngắn của Pushkin có
giá trị hiện thực to lớn. Nó xây dựng được “hình tượng con người nhỏ bé” đại diện
cho những tầng lớp thấp kém trong xã hội. Truyện ngắn đánh dấu sự hình thành
của phương pháp sáng tác mới theo chủ nghĩa hiện thực” [10,103]. Đỗ Hồng
Chung cho rằng: “Văn xuôi Pushkin rất gần với chúng ta ngày nay, thứ văn xuôi
gọn chắc, tiết kiệm ngôn từ, nội dung phong phú” [2,134], “Pushkin làm được việc
sáng tạo văn học và ngôn ngữ Nga vì đã đi từ cái gốc Nga truyền thống, gốc Nga
nhân dân, gốc Nga thời đại” [2,185]. “Pushkin đã xây dựng một nền văn học thực
sự dân tộc, một nền văn học của nhân dân, của nhân loại. Tác phẩm của Pushkin
phán ánh sâu sắc, toàn diện những đặc điểm dân tộc Nga, vượt ra khỏi những
khuôn khổ cũ có tính chất trừu tượng, giáo huấn khô khan, từ bỏ những qui phạm
ước lệ, gò bó, những hình thức cầu kì, trống rỗng, nhằm thể hiện chân thực, chính
xác, đầy đủ cuộc sống và con người” [2,185]. Lưu Liên trong bài Thiên tài Pushkin
và thiên tiểu thuyết Người con gái viên đại úy (1994) và Hà Thị Hòa với bài viết

Tiểu thuyết Con gái viên đại úy – đỉnh cao của văn xuôi Pushkin (2004) tiếp cận
văn xuôi Pushkin từ góc độ lịch sử. Nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh Pushkin,
Viện Văn học và Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia đã tổ chức Hội
thảo kỉ niệm ngày sinh Pushkin. Trong đó, chúng tôi thấy có hai bài viết về văn
xuôi Pushkin của Nguyễn Kim Đính và Lưu Văn Bổng. Trong Truyện Con đầm
pích của A.Pushkin (So sánh với truyện Giấy tờ của Aspern), Lưu Văn Bổng so
sánh hai tác phẩm theo phương pháp loại hình học để tìm hiểu Pushkin có ảnh
hưởng đến nhà văn H.James hay không và sự ảnh hưởng ấy như thế nào. Nghệ
thuật tự sự của Pushkin được phân tích sâu sắc đặc biệt trong bài Pushkin khởi
điểm của văn xuôi hiện thực Nga thế kỉ XIX của Nguyễn Kim Đính. Trong 23
trang viết, tác giả đề cập tới nhiều bình diện của nghệ thuật tự sự văn xuôi Pushkin.
Nhận xét về người kể chuyện và giọng điệu trong Tập truyện ông Belkin, nhà
nghiên cứu viết: “Pushkin đã sớm dứt ngay được với kiểu thuật truyện với giọng
điệu duy nhất của cái tôi – tác giả. Đọc kỹ lại Tập truyện ông Belkin, chúng ta thấy
tác giả “chăm sóc” kĩ càng như thế nào hình tượng người thuật truyện và giọng
điệu của người đó… sắc thái đa dạng của giọng điệu gắn liền với những người kể
chuyện khác nhau, gắn liền với nội dung của từng câu chuyện cụ thể. Cái tinh tế ở
đây là ông Belkin thuật thành truyện những câu chuyện do nhiều người khác kể
cho ông nghe và giọng điệu người kể đã để lại những dấu ấn nhất định trong lời
thuật của ông Belkin”[3,51-52]. Nguyễn Kim Đính đánh giá về kết cấu tự sự:
“Dưới góc độ nghệ thuật, mỗi tác phẩm của Pushkin là một chỉnh thể đạt mức hoàn
hảo, nhưng trong khuôn khổ hoàn chỉnh đó lại là cốt truyện không hoàn kết, mở cả
về quá khứ và tương lai” [3,55]. Đây là một trong những luận điểm cơ bản về nghệ
thuật tự sự của Pushkin. Nguyễn Hải Hà trong bài viết Cái hoang đường trong văn
học Nga thế kỉ XIX đề cập tới cái hoang đường và cái thực trong sáng tác văn xuôi
Pushkin và đi tới nhận xét về vai trò của yếu tố hoang đường trong văn xuôi
Pushkin. Nguyễn Trường Lịch với Từ Người con gái viên đại úy của Pushkin đến
Taras Bulba của Gogol, bàn về tính lịch sử và tính thời sự của tiểu thuyết lịch sử
(2009) cho độc giả hiểu một cách thấu đáo tính lịch sử chứa đựng trong từng tác
phẩm. Cả Pushkin và Gogol đều xây dựng tác phẩm lịch sử gắn liền với số phận

nhân dân Nga chống lại chính quyền nông nô hà khắc. Năm 2009, khoa Ngữ Văn
trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức Hội thảo A.Pushkin và N.Gogol trong nhà
trường và thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình và đặc
biệt là các thầy cô giáo giảng dạy văn học Nga trong các trường Đại học và Cao
đẳng. Các bài viết Một số đóng góp của văn xuôi A. S. Pushkin đối với văn học
Nga đầu thế kỉ XIX (2009) của Hà Văn Lưỡng, Một số vấn đề về nghệ thuật tiểu
thuyết Người con gái viên đại úy của Pushkin của Dương Ánh Tuyết, Trần Phương
Thảo (2009), Truyện ngắn A.Pushkin – những tìm tòi khám phá của Nguyễn Thị
Vượng (2009) đã nghiên cứu văn xuôi Pushkin ở một số bình diện: kết cấu, ngôn
ngữ, giọng điệu, điểm nhìn… và có những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu
văn xuôi Pushkin ở Việt Nam.
Tìm hiểu kịch Pushkin, các nhà nghiên cứu quan tâm tới sự cách tân nghệ thuật
kịch của Pushkin với sự phá bỏ khuôn khổ truyền thống của kịch cổ điển, phá bỏ
qui tắc tam duy của nền văn học phương Tây, đưa tới một nền kịch Nga hoàn toàn
mới về đề tài, ngôn ngữ, nhân vật như Một số đặc điểm kịch của A.X.Puskin qua
tác phẩm “Bori Godunov” và “Hiệp sĩ keo kiệt” của Đỗ Hải Phong (1999), “Người
khách bằng đá” và loại hình bi kịch ngắn của Tất Thắng (1999), Moda và Xalieri -
lời cảnh báo cho mọi thời đại của Lê Sơn (1999), Về kịch của A.Pushkin của Lê
Nguyên Cẩn (2009).
Nghiên cứu từ góc độ so sánh cũng nhận được nhiều bài viết: Dostoevski và trường
phái Pushkin của Phạm Thị Phương (1993), Mối quan hệ giữa A.Pushkin và
N.Gogol của Lê Đức Thụ (2009), A.X.Puskin và Tagor – những “mặt trời” của thi
ca nhân loại của Nguyễn Thị Mai Liên (2009), Từ Người con gái viên đại úy của
Pushkin đến Tarax Bunba của Gogol – Bàn về tính lịch sử và tính thời sự của tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Trường Lịch (2009), Pushkin và Gogol – Hai kiểu sáng
tác trong văn học Nga của Đào Tuấn Ảnh (2013)
Sau chuyên luận Pushkin – nhà thơ Nga vĩ đại của Đỗ Hồng Chung, sau khi những
tác phẩm cơ bản của Pushkin được dịch ở Việt Nam, sau một thời gian Pushkin
được đưa vào học trong chương trình phổ thông trung học, văn xuôi của Pushkin
đã bắt đầu được chú ý đến. Ta có thể nhấn thấy dấu ấn của Con đầm pích trong

sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Huyền thoại phố phường và Con đầm pích có nhiều
nét tương đồng về nội dung và nghệ thuật. Cả hai tác phẩm đều tập trung vào một
chủ đề mới trong văn học - sự ra đời con người tư sản với những dục vọng tiền
bạc. Để đạt được mục đích của mình, họ dám chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức của
con người, thậm chí gây tội ác. Cốt truyện được xây dựng trên khát vọng làm giàu
của con người. Ghermann và Hạnh đều xuất thân từ tầng lớp nghèo trong xã hội,
luôn phải tự nhủ với bản thân tiết kiệm để tồn tại. Nhưng sống giữa cuộc sống giàu
sang của giới quý tộc, cả hai đều rơi vào ảo tưởng và mong muốn làm giàu một
cách nhanh chóng để đổi đời. Vì bí mật ba con bài, Ghermann sẵn sàng trở thành
tình nhân của bà lão bá tước, dám bán linh hồn cho quỉ dữ. Vì tấm vé xổ số, Hạnh
quyết định trở thành nhân tình của bà Thiều ngay lập tức. Âm mưu của họ đều thất
bại, cả hai đều trở thành kẻ điên và bị tống vào bệnh viện tâm thần. Yếu tố kì ảo là
thủ pháp nghệ thuật mà Pushkin sử dụng để miêu tả khát vọng làm giàu của
Ghermann cũng được Nguyễn Huy Thiệp chú ý đưa vào trong tác phẩm của mình
tuy có phần mờ nhạt. Mặc dù tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có sự vay mượn
của Pushkin nhưng bạn đọc vẫn nhận ra sự khác biệt trong cách miêu tả, cách xây
dựng tình huống để nhân vật bộc lộ bản chất thật.
Viết về sự ảnh hưởng của Pushkin nói chung và tác phẩm Con đầm pích nói riêng
có bài viết của Bùi Thanh Truyền với Huyền thoại phố phường và Con đầm pích
nhìn từ quy luật giao lưu văn học (2010), Phạm Thị Phương với Những con số bí
ẩn trong truyện ngắn Con đầm pích của A. Pushkin (2010), Phan Huy Dũng – Tiếp
nhận ảnh hưởng để đổi mới và sáng tạo (Nghĩ về một vấn đề đương đại qua nghiên
cứu so sánh Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp với Con đầm pích
của A.S.Pushkin) (2012).
Tiếp nhận qua giảng dạy
A.S.Pushkin là tác giả văn học Nga đầu tiên được đưa vào chương trình giảng dạy
trong nhà trường, từ bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đến nhà
trường phổ thông. Trong các trường Cao đẳng, Đại học, sinh viên sẽ học nhiều hơn
và sâu hơn về Pushkin và các tác phẩm của ông để thấy được sự vĩ đại của nhà thơ,
khám phá sự cách tân nghệ thuật trong mọi thể loại sáng tác của Pushkin, xứng

đáng với vị trị là người “mở đầu của mọi mở đầu”. Hằng năm, sinh viên khoa Văn
luôn chọn Pushkin làm đề đề tài nghiên cứu của mình. Đối với họ Pushkin vừa rất
gần, rất giản dị nhưng luôn là bí ẩn. Theo thống kê của chúng tôi, ở khoa Văn
trường ĐHSP Hà Nội có 12 khóa luận, 6 luận văn, 1 luận án, 25 báo cáo về mọi thể
loại sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của Pushkin được đưa vào giảng dạy ở mọi
cấp học như Tôi yêu em, Con đường mùa đông, Con đầm pích, Ông lão đánh cá và
con cá vàng với các bài phân tích, bình luận của các nhà nghiên cứu như Nguyễn
Hải Hà - Tôi yêu em (1991), Anh Nga với Một bài thơ tình nổi tiếng của Puskin
được giảng dạy ở PTTH, Phạm Thị Phương với Vài trao đổi về việc giảng dạy tác
phẩm của Puskin trong nhà trường phổ thông (2002), Thành Đức Hồng Hà với Tôi
yêu em (2006), Hà Thị Hòa với “Con đường mùa đông” của A.X.Puskin và “Con
đầm pích” của A.X.Puskin (2007), Đỗ Hải Phong với Thơ trữ tình của A.Pushkin
trong chương trình PTTH ở Việt Nam (2009). Các bài phân tích mong muốn học
sinh hiểu rõ giá trị trường tồn trong sáng tác của Pushkin.
Sau những Hội thảo khoa học kỉ niệm “200 năm ngày sinh Pushkin” tại Viện Văn
học và Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là sau Hội thảo “Pushkin và Gogol trong
nhà trường” năm 2009, có thể thấy Pushkin thực sự thu hút giới nghiên cứu ở Việt
Nam, nhất là trong phạm vi chuyên ngành Văn học Nga ở các trường Đại học và
Cao đẳng. Việc nghiên cứu Pushkin ở Việt Nam cần có những thể nghiệm gắn với
những khuynh hướng tiếp cận được ý thức rõ ràng hơn để làm nổi bật được những
khía cạnh đặc sắc của văn xuôi Pushkin như những tiêu điểm nghiên cứu.
YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG VĂN XUÔI CỦA ALẾCHXANĐRƠ XÉCGEIEVICH
PUSKIN
Tóm tắt
Trong lịch sử phát triển của nền văn học Nga, A.X.Puskin giữ một vai trò quan
trọng. Ông là người “mở đầu của mọi mở đầu”, người đầu tiên đặt nền móng cho
chủ nghĩa hiện thực Nga. Là một nhà văn hiện thực, Puskin miêu tả cuộc sống
Nga, đặc biệt miêu tả tâm trạng, diễn biến tâm lí, tình cảm của con người Nga một
cách chân thực nhất. Các sáng tác của ông không chỉ đa dạng, phong phú về đề tài,
mà trong mỗi tác phẩm chứa đựng nhiều thể tài: bút kí, tự sự, sử thi Điều đó tạo

nên sức hấp dẫn trong từng tác phẩm. Yếu tố kì ảo được sử dụng trong các tác
phẩm của Puskin, đặc biệt là văn xuôi có chức năng thẩm mĩ nhất định. Trong 15
tác phẩm văn xuôi thì yếu tố kì ảo thể hiện tập trung nhất trong 3 tác phẩm: Bão
tuyết, Ông chủ hiệu đám ma và Con đầm pích. Mặc dù, yếu tố kì ảo xuất hiện
không nhiều nhưng có một tầm quan trọng đáng kể trong sự nghiệp sáng tác của
Puskin. Cái kì ảo đã được nhà văn sử dụng trong nhiều tác phẩm thơ, từ trường ca
Rutxlan và Lútmila đến những câu chuyện cổ tích và Kị sĩ đồng. Nhưng trong văn
xuôi, yếu tố kì ảo xuất hiện lần đầu tiên trong Bão tuyết (1830), mặc dù trước đó,
Puskin đã kể cho những người bạn thân của mình một câu chuyện mang màu sắc
siêu nhiên. Dựa trên câu chuyện này, V.P.Titốp đã viết tác phẩm Ngôi nhà cô đơn
ở Vaxiliepxki. Vậy thế nào là kì ảo? Có rất nhiều định nghĩa về kì ảo. Nhà triết học
và thần bí Nga V.Sôlôviev cho rằng: “Trong cái kì ảo thực sự, người ta luôn giữ
một khả năng bề ngoài và về hình thức của một sự giải thích đơn giản những hiện
tượng, song đồng thời sự giải thích này lại hoàn toàn thiếu khả năng có thật trong
nội tại.” (dẫn theo Tômasevxki, tr.288) [4;35]. Có thật là thế lực siêu nhiên và thế
lực tự nhiên luôn tồn tại và phát triển song song với nhau trong cuộc sống? Chính
điều này tạo ra hiệu quả kì ảo. Olga Reimann lí giải: “Nhân vật liên tục cảm thấy
rõ rệt mâu thuẫn giữa hai thế giới, thế giới của cái thật và của cái kì ảo, và bản thân
anh ta cũng phải ngạc nhiên trước những sự khác thường quanh mình” [4;35].
Nhưng cái kì ảo, cũng như những giấc mơ, là một phần không thể thiếu được của
thực tại. Bởi vì thế giới này vừa hiện diện vừa chìm khuất trong cái nhìn, trong tri
giác của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta không thể cắt nghĩa được, không thể
giải thích rõ bằng cái nhìn của lí trí thuần tuý, tất cả những gì còn lẩn khuất đằng
sau gương mặt giản đơn của thực tại đều có thể trở thành những huyền thoại, thành
chất liệu cấu thành nên cái kì ảo trong tinh thần, trong văn chương. Trong tác phẩm
của Puskin, yếu tố kì ảo được thể hiện dưới hình thức những giấc mơ. Các giấc mơ
của Puskin thường bao gồm những chuỗi hình ảnh, sự kiện tạo thành một cốt
truyện, diễn biến theo một logic nhất định. M.Carley cho rằng: “Dường như ai
cũng thấy giấc mơ là cái gì rất phù du, không có cơ sở khoa học vững vàng”
[2;14]. Nhưng các nhà tâm lí học xác định rằng mơ là một loại “suy nghĩ” đặc biệt

của óc khi ta ngủ yên. Giấc mơ là phần còn thức của trí óc trong lúc ngủ, là sự
phóng chiếu của những ấn tượng, những cảm xúc, cảm giác, mặc cảm, ám ảnh của
con người. Sigmund Freud cho rằng giấc mơ thuộc thế giới của tiềm thức, vô thức:
“Ở chừng mực mà một người đang mơ, trong cơn chiêm bao của mình coi những
suy nghĩ của mình là sự thực, và anh ta hoàn toàn không ý thức được rằng anh ta
đồng thời là tác giả, đạo diễn, diễn viên (thường là dưới dạng nhiều nhân vật khác
nhau) cho vở kịch chiêm bao do anh ta nghĩ ra, thì ở cái cách rất thông thường, anh
ta cũng chịu những trải nghiệm giống như những trải nghiệm mà chúng ta đã biết
được từ bệnh hoạn tinh thần ảo giác” [3;13].
TIẾP NHẬN ẢNH HƯỞNG ĐỂ ĐỔI MỚI VÀ SÁNG TẠO(NGHĨ VỀ MỘT
VẤN ĐỀ CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI QUA NGHIÊN CỨU SO
SÁNH HUYỀN THOẠI PHỐ PHƯỜNG CỦA NGUYỄN HUY THIỆP VỚI CON
ĐẦM PÍCH CỦA A.S.PUSHKIN)
PHAN HUY DŨNG
Thứ sáu, 03 Tháng 2 2012 09:54
font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ
1. Văn xuôi Việt Nam hiện nay đang phát triển trong một bối cảnh giao lưu nhộn
nhịp. Những tìm tòi, thể nghiệm được đẩy tới theo nhiều hướng dưới sự tác động
của những nguồn ảnh hưởng khác nhau đến từ bên ngoài, thông qua mạng lưới
thông tin toàn cầu và hoạt động dịch thuật văn học sôi nổi.
Xã hội đã có sự cởi mở thông tin hơn trước thuận theo quy luật chung của thời đại
toàn cầu hóa, bất chấp những ý chí muốn kìm hãm nó. Cảm thức hậu hiện đại đã
hình thành ở nhiều người viết, phần thì do sự tự trải nghiệm đời sống - một đời
sống phồn tạp, chứa vô số tình huống bi hài đến khó tin, không hề “trật tự” như các
chính trị gia muốn có hay thường mô tả, phần thì do chịu ảnh hưởng các tác giả
nước ngoài (nhất là các tác giả hậu hiện đại) mà nhà văn có cơ hội đọc, tìm hiểu.
Với cảm thức đó, người viết được giải phóng khỏi nhiều mặc cảm khi sáng tác,
đồng thời họ cảm nhận được rất rõ rằng thời mình đang sống đây chính là “thời của
tiểu thuyết” và họ đang “đứng đúng “điểm rơi” của lịch sử” (lời nhà văn Nguyễn
Viện), đang có “cơ hội vàng” để sáng tác nên những tác phẩm thật sự tương thích

với thời đại, nếu bản thân đủ can đảm và có tài năng. Những cảnh báo đối với việc
du nhập những yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác nhân danh các sứ mệnh cao quý
của văn học đã trở nên kém sức thuyết phục, chưa hẳn vì văn học đã từ chối các sứ
mệnh đó mà vì các “sứ mệnh” rất hay được diễn giải một cách đầy tính thực dụng
chính trị. Vài ba người làm công tác quản lý, lãnh đạo văn nghệ và những người
phê bình ít chịu đổi mới nhận thức về các vấn đề văn học thường nêu lên những lo
ngại về một sự tiếp thu xô bồ cả “hàng chất lượng cao” lẫn “đồ phế phẩm” hay
“quá đát”. Trên vấn đề này, không nên ngờ vực (hay sợ) sự học hỏi, tiếp thu, thể
nghiệm (kể cả những thể nghiệm mà cái nhìn truyền thống có thể cho là phi thẩm
mỹ hay quái dị). Không có cọ xát thì không thể làm bật ra cái mới, và cái mới cũng
có tính lịch sử, tính quá trình của nó. Cần bỏ qua thái độ kênh kiệu vô lối (nhiều
khi là biến tướng của mặc cảm tự ti) để học hỏi một cách nghiêm túc cả những
kinh nghiệm tưởng là đã cũ, tưởng đã mất hết lực đẩy thẩm mỹ. Không hề có một
khái niệm cũ chung chung đối với mọi người. Cũ người nhưng có thể mới ta - điều
đó không có gì phải cười nhạo. Vấn đề là cách vận dụng và mục đích của sự vận
dụng. Thực tế nền văn xuôi Việt Nam đương đại đã cung cấp nhiều ví dụ sinh động
cho vấn đề đang bàn. Sau đây, xin được đi vào một trường hợp cụ thể: Nguyễn
Huy Thiệp với truyện ngắn Huyền thoại phố phường.
2. Đến bây giờ, hẳn không cần phải dài dòng giới thiệu về Nguyễn Huy Thiệp. Ông
đã quá nổi tiếng, đã được đông đảo độc giả và nhà phê bình xem là một nhà văn
tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Trên con đường tạo dựng cho
mình một tên tuổi, ông đã vận dụng nhiều kinh nghiệm nghệ thuật của nền văn học
truyền thống và nền văn học một số nước phương Tây để sáng tác. Huyền thoại
phố phường được viết vào năm 1983 nhưng được in trên báo Văn nghệ năm 1987.
Có thể nói đây là một trong những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp trình
diện văn đàn. Huyền thoại phố phường tuy không thật xuất sắc nhưng nó vẫn luôn
có mặt trong các tuyển tập truyện ngắn của nhà văn. Dù sao, nó cũng in dấu ấn
phong cách của Nguyễn Huy Thiệp rất đậm.
Đọc Huyền thoại phố phường, người yêu và am hiểu văn học không thể không liên
hệ tới truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin. Tại sao vậy? Tại vì nó quá “giống”

với tác phẩm của nhà thơ, nhà văn Nga vĩ đại. Sự giống nhau thể hiện trên một loạt
điểm sau đây:
Cũng như cốt truyện của Con đầm pích, cốt truyện Huyền thoại phố phường được
xây dựng dựa trên một âm mưu. Một kẻ nghèo hèn như Hạnh hay có địa vị xã hội
tương đối thấp, và dĩ nhiên không có gia sản gì đáng kể như Ghermann đã tìm mọi
cách đê tiện để thỏa mãn khát vọng giàu sang, đổi đời. Chúng đã thâm nhập vào
thế giới thượng lưu, đã làm chuyện đồi bại (như Hạnh) hay gây tội ác (như
Ghermann) hòng chiếm đoạt được “phương tiện thần diệu” cho phép bản thân
chúng thoát khỏi thân phận hiện tại. Nhưng số mệnh đã dành cho chúng kết quả
thật bi đát: âm mưu của Hạnh cũng như của Ghermann bị phá sản và cả hai đều bị
điên.
Các tình tiết chính của cốt truyện giống nhau, đến cả hệ thống nhân vật cũng tương
đối giống nhau. Ta hoàn toàn có thể xếp nhân vật ở hai truyện thành những cặp
tương ứng: Ghermann và Hạnh, bà Bá tước Anna Phedotovna và bà Thiều, cô
Lizaveta Ivanovna và cô Thoa. Từng cặp nhân vật một có vị thế xã hội, tính cách,
số phận, hành động tương tự nhau. Ghermann và Hạnh là hai kẻ âm mưu. Bà Bá
tước và bà Thiều đều là những người nắm giữ chìa khoá hạnh phúc đối với hai kẻ
toan đổi phận và là đích nhắm của chúng. Đặc biệt, hai nhân vật trong cặp Lizaveta
- Thoa đều được dựng lên như để trêu ngươi, đánh lạc hướng sự chờ đợi của độc
giả, khiến cho kịch tính của truyện tăng lên (khi mới đọc từng truyện, độc giả dễ
nghĩ rằng sẽ có một sự kết hợp thực sự giữa các cặp nam nữ như Ghermann với
Lizaveta, Hạnh và Thoa, nhưng thực tế lại diễn ra không giống vậy).
Không chỉ giống nhau về cốt truyện và nhân vật, giữa hai truyện còn có sự giống
nhau về hệ thống chủ đề. Trước hết, có thể nói tới chủ đề dục vọng và cạm bẫy
(dục vọng tự nó chứa cạm bẫy hay cuộc đời dành sẵn cạm bẫy cho những dục
vọng). Đây không phải là chủ đề quá xa lạ trong văn học thế giới, nhất là trong các
sáng tác thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán. Chủ đề thứ hai là chủ đề bán linh hồn
cho quỷ, mà với nó, nhà văn đã để cho nhân vật thả xổng dục vọng đen tối của
mình, chà đạp lên mọi quy tắc đạo đức xã hội, đánh rơi nhân cách, nhân tính, hành
động theo sự chi phối của bản năng tham tàn, phá phách. Chủ đề này cũng không

phải mới trong văn học thế giới, cụ thể là trong Faust, W. Goethe đã từng thể hiện
nó một cách đầy sáng tạo, đầy nhân văn. Chủ đề thứ ba là chủ đề báo ứng và có thể
ghép vào đây một chủ đề gần gũi là sự chơi khăm của số mệnh. Với chủ đề này,
các tác giả đã miêu tả một cách rõ ràng sự trả giá đau đớn của các nhân vật cho
những hành động xấu xa của mình và cảnh báo về sự oái oăm của số mệnh - một
lực lượng siêu nhiên luôn “chơi” con người những “vố” ác hiểm. Đây hẳn nhiên
cũng không phải là chủ đề xa lạ với sáng tác văn học xưa nay, Đông cũng như Tây.
Chủ đề thứ tư là sự sa đọa của giới thượng lưu trong xã hội và gần gũi với nó là
chủ đề về ma lực của đồng tiền. Ta có thể thấy rất nhiều tác phẩm của văn học thế
giới và văn học Việt Nam thể hiện chủ đề này, đặc biệt là sáng tác của các nhà văn
hiện thực chủ nghĩa. Như đã nói, các chủ đề trên không phải chủ đề đặc hữu của
A.S. Pushkin trong tác phẩm Con đầm pích, và có thể có người nghĩ rằng Nguyễn
Huy Thiệp đã khai thác chúng dựa vào sự gợi ý của những tác phẩm khác hoặc
hoàn toàn dựa vào trải nghiệm thực tế của riêng mình. Nhưng vấn đề ở đây là mức
độ tập trung của các chủ đề trong diện tích hẹp của một tác phẩm, trước hết là tác
phẩm của A.S. Pushkin, sau đó là tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Sự giống nhau
này hiển nhiên chứa đựng những điều cần phải được phân tích kỹ.
Bên cạnh những điểm giống nhau lớn ở trên, không thể không nhận thấy sự giống
nhau về câu văn, về cách diễn đạt giữa hai tác phẩm ở đoạn miêu tả tính cách nhân
vật Ghermann và nhân vật Hạnh.
Từ tất cả những điểm giống nhau kể trên, có thể khẳng định Nguyễn Huy Thiệp đã
vay mượn ở truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin khá nhiều thứ khi viết Huyền
thoại phố phường: cốt truyện, chủ đề, thậm chí cả hình thức câu văn (với điều kể
sau, ta hoàn toàn có thể chê trách, vì Nguyễn Huy Thiệp lúc này không phải đang
dùng thủ pháp “nhại”). Nhìn trên tổng thể, việc chịu ảnh hưởng và vay mượn nói
trên dễ lý giải và hoàn toàn chấp nhận được, khi chúng ta biết rằng giữa văn học
Việt Nam và văn học Nga, văn học Xô viết từng có mối quan hệ gắn bó. Vấn đề
quan trọng là chịu ảnh hưởng như thế nào và cách vay mượn có gì đáng nói.
Đặt trong bối cảnh văn học Việt Nam (lúc Nguyễn Huy Thiệp bước vào văn đàn)
đang bị kiềm tỏa bởi thế lực của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,

dễ nhận ra rằng sự vay mượn cốt truyện Con đầm pích ở truyện Huyền thoại phố
phường có ý nghĩa tích cực. Tại sao trong bước đầu viết văn, Nguyễn Huy Thiệp
không hướng mắt nhìn về một hình mẫu khác, như sáng tác của các nhà văn Xô
viết chẳng hạn? Điều này không thể được cắt nghĩa một cách chủ quan, đơn giản,
nhưng chắc nó có liên quan tới sự nhạt hứng thú đối với một kiểu sáng tác công
thức, không cho người ta thấy hết sự thực của cuộc đời, nhất là khi phương châm
“nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” đang gây nguồn cảm hứng lớn cho giới
cầm bút. Xa hơn, có thể nó cho thấy một sự ly khai đối với phương pháp sáng tác
từng được giới lý luận chính thống khẳng định là “tốt nhất” trong số các “phương
pháp nghệ thuật” đã hình thành trong lịch sử văn học. Quay tìm về những mẫu mực
xưa (cụ thể ở đây là mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỷ XIX – thứ
chủ nghĩa tuy được các nhà lý luận phê bình marxist đánh giá cao nhưng vẫn bị
nhìn bằng con mắt nhiều định kiến) gắn bó một cách tất yếu với việc chối bỏ các
“mẫu mực” hiện hành. Tuy đây chưa hẳn là sự lựa chọn tối ưu nhưng nó có ý nghĩa
đập vỡ một thói quen, một quán tính sáng tác, mở đường cho những tìm tòi mới, đa
dạng hơn về sau, của chính Nguyễn Huy Thiệp và của nhiều nhà văn Việt Nam
khác, mong nhận ra chân diện mục của cái hiện thực đang diễn ra. Xét rộng hơn,
sự lựa chọn của Nguyễn Huy Thiệp không mang ý nghĩa cá biệt. Chính vào thời
này, nhà văn nổi tiếng Nguyễn Khải đã có lời phàn nàn trong một cuộc hội thảo
rằng “cái hiện thực xã hội chủ nghĩa cứ làm hại mình”.
Vay mượn cốt truyện Con đầm pích, điều kéo theo dễ hiểu là Nguyễn Huy Thiệp
đã khai thác lại chủ đề về dục vọng của con người. Trong văn học cách mạng Việt
Nam, đây là chủ đề hoàn toàn vắng bóng. Đọc sáng tác của những nhà văn tự
nguyện dùng ngòi bút làm vũ khí đấu tranh cách mạng, ta chỉ gặp những nhân vật
anh hùng dám xả thân vì lý tưởng, vì cộng đồng, như mẹ Tơm, mẹ Suốt, chị Lý
trong thơ Tố Hữu, anh Trỗi trong Sống như Anh của Trần Đình Vân, chị Út Tịch
trong Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức,
Tiệp trong Bão biển của Chu Văn, Biền trong Tầm nhìn xa của Nguyễn Khải Đó
không phải là những con người có dục vọng hiểu theo nghĩa là người dám sống tận
cùng con người cá nhân của mình, dám phô bày những khao khát rất người theo

hình thức đôi khi cực đoan, dám hành động theo một tiêu chuẩn đạo đức khác với
tiêu chuẩn đạo đức phổ biến Dĩ nhiên, những con người như thế sẽ cười khẩy vào
những nguyên tắc ứng xử như “đặt lợi ích chung lên quyền lợi riêng”. Ở đây chưa
nói đến những nguy hại có thể có một khi con người chỉ biết hành động theo dục
vọng cá nhân của mình. Nhưng biết làm sao được, nhà văn không thể không thể
hiện mẫu nhân cách này, loại con người này khi nó tồn tại thực trong xã hội, nhất
là khi xã hội đã chấp nhận một phần sự tồn tại của nền kinh tế thị trường. Dĩ nhiên,
Nguyễn Huy Thiệp không cổ súy cho lối sống của nhân vật Hạnh, nhưng bằng vào
việc dựng lên chân dung một con người như Hạnh, ông muốn nối lại sự chú ý tới
con người cá nhân vốn đã bị gạt phắt ra khỏi bảng giá trị của một nền văn học
được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, mặc dù trước đó,
trong văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, nó đã được chú ý miêu tả, cả trong
thơ lẫn trong tiểu thuyết, truyện ngắn. Chẳng phải với nhân vật Hạnh trong Huyền
thoại phố phường, Nguyễn Huy Thiệp đã hoà vào những tìm tòi chung của các nhà
văn Việt Nam khi gia tăng sự chú ý tới vấn đề con người cá nhân trong sáng tác
văn học? Những Thời xa vắng của Lê Lựu, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không
chồng của Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh chính đã cho thấy
xu hướng nói trên trong những tìm tòi của các nhà văn Việt Nam từ thời kỳ Đổi
mới.
Khi vay mượn cốt truyện Con đầm pích để viết nên truyện Huyền thoại phố
phường, Nguyễn Huy Thiệp không gạt bỏ yếu tố kỳ ảo vốn đã được nhà văn Nga
đưa vào tác phẩm của mình một cách tự nhiên. Cách pha trộn yếu tố kỳ ảo với yếu
tố hiện thực trong truyện của A.S. Pushkin cho thấy sự đa dạng của các thủ pháp
được những văn nhà hiện thực chủ nghĩa sử dụng. Cảm quan hiện thực cùng sự tôn
trọng logic khách quan hay quan hệ nhân quả giữa các sự kiện không cản trở
những nhà văn như A.S. Pushkin chối bỏ những thủ pháp miêu tả, thể hiện đời
sống bằng yếu tố kỳ ảo. Chính nhờ chúng, tính hiện thực của tác phẩm không
những không bị hao hụt đi mà ngược lại, lại phát lộ ở những khía cạnh mới. Hiện
thực luôn chứa đựng những điều bí ẩn. Tôn trọng hoặc nói về cái bí ẩn của nó lẽ

nào lại là một thái độ và hành xử sai lầm? Chính một bậc thầy của chủ nghĩa hiện
thực Pháp là H.de Balzac đã không ngần ngại sử dụng yếu tố kỳ ảo trong cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng Miếng da lừa đấy thôi. Trở lại với Nguyễn Huy Thiệp, phải thấy
rằng yếu tố kỳ ảo trong truyện Huyền thoại phố phường chưa có gì đậm đặc và
cũng chưa đến nỗi gây những nghi ngờ về tính logic của sự kiện. Nhưng nếu chú ý
đến sự “sáng tỏ” nhiều khi khá khó chịu của lối cắt nghĩa các sự kiện đời sống
trong vô số tác phẩm của văn học Việt Nam đương thời, ta lại thấy những yếu tố
kỳ ảo kia trong truyện Nguyễn Huy Thiệp đưa lại những khẩu vị thẩm mỹ mới lạ.
Chí ít, nó tạo nên sự “ma quái” cho tác phẩm của ông, khiến độc giả đã cầm đọc
tác phẩm là khó dứt ra được. Nhưng quan trọng hơn, nó chỉ báo về một cách tiếp
cận hiện thực mới không bị gò vào những khuôn thước giáo điều vốn nhân danh
khoa học, nhân danh chủ nghĩa duy vật mà tảng lờ bao sự tồn tại xem ra đầy phi lý
trong cuộc sống. Chính nó đã triệt môi trường sống của những tác phẩm từng hấp
dẫn bao nhiêu thế hệ độc giả trước đây, những tác phẩm truyền kỳ thời trung đại
hay những truyện đường rừng của Lan Khai, TchyA Đái Đức Tuấn, những truyện
được gọi là “yêu ngôn” của Nguyễn Tuân Đồng nghĩa với điều đó, nó đã ngăn
trở những khám phá hiện thực của nhà văn từ các chiều kích khác, nói khái quát
nhất là chiều kích văn hoá. Rõ ràng, thời Đổi mới, bắt đầu từ những tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp, cái kỳ ảo đã được nhìn nhận khác đi. Như vậy, yếu tố kỳ ảo
trong Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp mặc dù chưa mới gì hơn so
với vô số tác phẩm của văn học thế giới, thậm chí của văn học Việt Nam thời trung
đại và của giai đoạn 1930 – 1945, nhưng nó có giá trị báo hiệu một chân trời mới
đầy khoáng đạt cho những tìm tòi nghệ thuật.
Học A.S. Pushkin nhưng Nguyễn Huy Thiệp vẫn chứng tỏ được bản lĩnh sáng tạo
của mình. Những cái giống đã kể không thể che mờ được những cái khác, rất khác
giữa hai truyện. Truyện Con đầm pích của A.S. Pushkin có quy mô của một truyện
vừa. A.S. Pushkin, cũng như nhiều nhà văn hiện thực thế kỷ XIX rất có hứng thú
với việc theo dõi quá trình tâm lý của nhân vật. Chính bởi vậy, với nhân vật nào,
nhà văn cũng muốn đi sâu khám phá thế giới nội tâm của họ. Cách tự sự, vì thế, có
phần nhẩn nha, không bỏ qua chi tiết nào, dù có vẻ nhỏ nhặt. Đọc truyện của A.S.

Pushkin, người đọc thú vị với những đoạn phân tích tâm lý bà Bá tước, tâm lý tiểu
thư Lizaveta. A.S. Pushkin thật tinh quái khi soi thấu gan ruột của nhân vật và
miêu tả nó bằng một giọng văn dí dỏm, có thoáng chút châm biếm diễu cợt. Ngay
với nhân vật Ghermann, A.S. Pushkin cũng không quên làm nhân vật gần ta hơn
với chút cắn rứt lương tâm của hắn. Với truyện của mình, Nguyễn Huy Thiệp dùng
lối miêu tả chấm phá, không hề nói dài dòng về tâm lý nhân vật mà để người đọc
tự đoán ra khi theo dõi hành động của họ. Có thể có người chê nhà văn đã để cho
nhân vật hành động quá nhanh, thiếu logic. Thực ra, với bản tính con người Hạnh,
mọi khả năng hành động đã được thấy trước, đã được chuẩn bị và nung chín. Tất
cả chỉ đợi một cơ hội, và cơ hội đó dĩ nhiên sẽ được hắn nhìn ra giữa bộn bề sự
kiện. Kẻ đang âm mưu thường có khả năng kỳ diệu biến mọi sự cố ngẫu nhiên
thành kẻ đồng lõa với mình. Ở đây, sự việc diễn ra có tính tất yếu. Nó dường như
đã được chuẩn bị từ hai phía: phía Hạnh và phía bà Thiều. Luôn đặt nhân vật vào
tình huống lộ bản chất thật, đối với Nguyễn Huy Thiệp, đó không còn là một thứ
kinh nghiệm viết chung chung, mà là một nguyên tắc trần thuật mang ý nghĩa sống
còn. Chính bởi vậy, ông không ngần ngại giản ước mọi sự chuẩn bị lỉnh kỉnh vì tin
rằng độc giả có thể thấy hết, biết hết những điều kiện bên trong của hành động
đang hoặc sắp diễn ra. Có thể nói trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, cảm giác về tốc
độ là nhân tố thẩm mỹ đóng vai trò then chốt tạo nên tính hiện đại của tác phẩm.
Đọc Con đầm pích của A.S. Pushkin, ta bắt gặp một bối cảnh Nga điển hình trong
thế kỷ XIX với hoạt động tưởng phong phú mà nhàm chán của giới thượng lưu quý
tộc thừa thời gian, tiền bạc mà thiếu tư tưởng, tâm hồn. Bối cảnh này về sau còn
được thể hiện rất hay trong các sáng tác của I.S. Turghenev, L.N. Tolstoi Còn với
Huyền thoại phố phường, ta có thể ngay lập tức đoán chắc rằng đó là bối cảnh Việt
Nam vào đầu những năn 1980 mà tính khép kín của cơ cấu xã hội đã bắt đầu rạn
nứt, báo hiệu một sự xáo trộn, thậm chí là đảo lộn của các giá trị đời sống. Nguyễn
Huy Thiệp tỏ ra từng trải và nghiệt ngã khi vạch những nét ký họa mạnh mẽ, chính
xác, mạch lạc để làm toát lên chân dung của một cuộc sống “không có vua”, không
có cả anh hùng. Bối cảnh Việt Nam và con người cũng rất Việt Nam. Điều này
mang tính dĩ nhiên, vì đối với Nguyễn Huy Thiệp, vay mượn cái gì thì cũng chỉ để

làm sáng tỏ những nhận thức của ông về bản chất của cái hiện thực mà ông đang
ngập mình trong đó. Chắc không ai nghĩ rằng các nhân vật như bà Thiều, Thoa,
Hạnh, ông Phúc, các bà bạn buôn vàng của bà Thiều là “Tây”, dù tác phẩm mượn
cốt truyện của Con đầm pích như trên đã nói.
Điều đáng nói là trong khi miêu tả ngôn ngữ nhân vật, A.S. Pushkin đặt trọng tâm
chú ý vào khả năng thể hiện tính cách của nó, còn ở Nguyễn Huy Thiệp, việc thể
hiện tính cách qua ngôn ngữ nhân vật không phải bao giờ cũng là cái được ưu tiên.
Ngoài ngôn ngữ người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật luôn được Nguyễn Huy Thiệp
điều dụng để bóc trần chân tướng sự vật, hiện tượng. Chúng sắc lẻm và cay đắng.
Chúng phóng ra rất nhanh với độ chính xác cao để kịp thời ghim chặt cái bản chất
của cuộc đời vào nhận thức của độc giả, mỗi khi chiếc áo hình thức của nó “tuột
khuy” trong một thoáng sơ sểnh. Bởi vậy, tiếp xúc với ngôn ngữ nhân vật trong
truyện Nguyễn Huy Thiệp, người đọc dễ có cảm giác hả hê đồng lõa chứ không

×