Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Pháp luật về biểu tình ở việt nam và một số nước trên thế giới thực trạng và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.1 KB, 110 trang )

MỤC LỤC
&
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BIỂU TÌNH
Trang
Phần mở đầu 1
1. Khái niệm biểu tình…………………………………………………………………… .6
2. Phân biệt giữa biều tình với một số hoạt động khác……………………… ….…13
3. Ý nghĩa của biểu tình…………………………………………………………….… 15
4. Vì sao phải luật hóa biểu tình trong thời gian sớm nhất……….…………… …16
5. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác….….…19
5.1. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình và biểu tinh…………………….……… …19
5.2. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình và quyền tự do ngôn luận……….… … 20
5.3. Quyền biểu tình và quyền tự do hội họp……………………… ……… ….… 22
6. Xu hướng phát triển của biểu tình trên thế giới……………………………… 23
6.1. Xu hướng phát triển chung của thế giới……………………………………… 23
6.2. Xu hướng quốc tế hóa biểu tình……………………………………………… 24
Kết luận chương I………………………………………………………….25
CHƯƠNG II
PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
1. Quy định về việc thông báo khi tổ chức biểu tình 30
2 Cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình trong một số
trường hợp………….36
3. Cấm và thời gian cấm biểu tình……… …………………………………38
4 Phạm vi cấm biểu
tình. 41
5 Vấn đề quy trách nhiệm 43
5.1 Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức 43
5.2 Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước 44
6. Chế tài xử phạt 45


7. Cấm sử dụng loa ở một số địa điểm 48
8. Quyền hạn chế hoặc giải tán cuộc biểu của Nhà nước…………….… 49
9. Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo xây dựng luật
biểu tình
50
Kết luận chung 50
BẢNG TỪ NGỮ VIẾT TẮT
POA 1986 : Public Oder Act 1986 - Công đạo luật 1986.
SOCPA 2005 : Serious Organised Crime and Police Act 2005 - Đạo luật các tội
phạm nghiêm trọng có tổ chức và cảnh sát 2005.
Luật số 101 : Luật số 101/ SL-L-003 ngày 20-5-1957 của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa về quyền tự do hội họp.
Phần mở đầu.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền biểu tình là một trong những quyền cơ bản của công dân, được
chính thức ghi nhận ở nhiều nước trên thế giới. Việt Nam cũng thừa nhận quyền
này trong Hiến pháp. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chưa có văn bản quy
phạm pháp luật nào để cụ thể hoá quyền biểu tình nên kể từ khi Hiến pháp có quy
định đến nay, quyền biểu tình vẫn chưa thực sự đi vào đời sống của nhân dân, mặc
dù đây là yêu cầu khách quan của toàn xã hội. Tính cấp thiết của đề tài thể hiện ở
những điểm cơ bản sau.
Đòi hỏi của một xã hội dân chủ
Một trong những hình thức thể hiện dân chủ là việc người dân có quyền
tham gia vào c của Nhà nước. Quyền lợi hợp pháp của nhân dân phải được đặt lên
hàng đầu. Chủ trương và chính sách có liên quan đến người dân thì người dân có
quyền được biết và đóng góp ý kiến, Nhà nước có trách nhiệm tạo mọi điều kiện có
thể để nhân dân thực hiện quyền của mình. Biểu tình là một hình thức để nhân dân
thực hiện sự giám sát đối với hoạt động của Nhà nước. Nếu người dân không được
biểu tình để bày tỏ quan điểm, thể hiện những bức xúc của mình đối với hoạt động
của Nhà nước do chính mình lập nên thì chưa thể hiện hết sự dân chủ đó trong xã

hội.
Đòi hỏi của một nền pháp chế.
Thực tế cho thấy muốn xã hội ổn định thì những vấn đề quan trọng liên
quan trực tiếp đến Nhà nước, công dân, xã hội… phải được luật hóa và phổ biến
một cách đầy đủ, kịp thời. Biểu tình là một lĩnh vực rất quan trọng có tác động
không chỉ đến an ninh mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
Bởi vậy, không có pháp luật về biểu tình để điều chỉnh trực tiếp là một thiếu sót
lớn. Có luật biểu tình thì chúng ta mới có thể thực thi được quyền biểu tình trên
thực tế. Đó không chỉ là cơ sở để Nhà nước tổ chức thi hành luật biểu tình một
cách chính thức mà còn là khuôn khổ, chuẩn mực để nhân dân thực hiện quyền
biểu tình. Cả Nhà nước và nhân dân đều dựa trên luật biểu tình để thực hiện quyền
và nhiệm vụ của mình. Luật biểu tình không có thì không thể xử lý những vướng
mắc phát sinh, nếu để tình trạng đó diễn ra dài không những ảnh hưởng đến tâm lý
xã hội mà còn ảnh hưởng xấu đến hệ thống pháp luật của nước ta
Về chính trị xã hội
Trên thực tế, trong những năm qua, biểu tình đã xảy ra ở nhiều nơi và mỗi
nơi người dân biểu tình theo những cách mà mình cho là đúng. Ví dụ như treo cờ
tổ quốc, viết nội dung mình muốn yêu cầu lên giấy, lên áo… thậm chí đem cả đồ
dùng cá nhân như chiếu, mùng màn, quần áo, đồ ăn, nước uống… đi biểu tình và
ngủ luôn trên vỉa hè. Khi có đám đông biểu tình diễn ra như trên làm cho nhiều
người dân muốn tìm hiểu xem việc gì xảy ra và hậu quả là khi có biểu tình thường
kèm theo ách tắc giao thông, hoặc trật tự công cộng bị đảo lộn.
Trước thực trạng đó, cơ quan Nhà nước rất lúng túng trong việc giải quyết
khi có một cuộc biểu tình xảy ra. Nếu lực lượng cảnh sát vào cuộc để ngăn ngừa
những cuộc biểu tình thì dễ bị những phần tử phản động cho là làm mất dân chủ,
áp bức nhân dân…còn nếu không có động thái để giữ gìn trật tự công cộng thì có
thể tính mạng, sức khỏe của nhiều người khác bị ảnh hưởng.
Việt Nam chưa có luật biểu tình nên chưa có sự phân biệt giữa quyền biểu
tình với quyền tự do ngôn luận và quyền tự do hội họp. Lợi dụng kẽ hở đó, những
kẻ phản động thường đồng nhất quyền biểu tình vào quyền tự do ngôn luận và

quyền tự do hội họp để tụ tập đông người và đưa ra những thông tin sai lệch, gây
hoang mang trong nhân dân hoặc chống phá chính quyền. Những lý lẽ mà bọn
phản động đưa ra không có sức thuyết phục, nhà nước và nhân dân ta phản đối
nhưng trên thực tế Việt Nam chưa có luật biểu tình nên chúng ta cũng không có
những lý lẽ xác đáng để bác bỏ hoàn toàn những luận điểm sai trái của bọn phản
động. Hiện nay, sự chống phá trực tiếp bằng vũ trang rất ít được áp dụng nhưng
chúng chống phá bằng cách lợi dụng thiếu sót của pháp luật để kích động, mua
chuộc quần chúng làm tình hình đất nước bất ổn. Khi an ninh chính trị không ổn
định thì rất khó để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân. Hơn nữa,
luật biểu tình chưa ra đời nên nhà nước không có cơ sở để đảm bảo quyền biểu tình
của người dân cũng như giải quyết những trường hợp lợi dụng biểu tình làm trái
pháp luật hoặc gây bạo động, bạo loạn… và người dân cũng không có cơ sở pháp
lý để biểu tình hợp pháp.
Muốn giải quyết triệt để mâu thuẫn trên, chúng ta nên xây dựng luật biểu
tình để Nhà nước quản lý, kiểm soát xã hội tốt hơn, vừa đảm bảo cho nhân dân có
thể tự do biểu tình bày tỏ những bức xúc, tâm tư nguyện vọng của mình. Hơn nữa,
luật biểu tình còn là cơ sở để hạn chế đến mức thấp nhất sự lợi dụng của kẻ xấu,
đáp ứng yêu cầu của tình hình mời. Đó là một đòi hỏi rất cấp bách trong bối cảnh
hiện nay.
Trên cơ sở những nhận định trên, các tác giả quyết định chọn vấn đề này để
làm đề tài nghiên cứu khoa học. Mong rằng, sau khi đề tài được nghiệm thu những
ý kiến đóng góp của các tác giả sẽ góp phần vào việc xây dựng luật biểu tình ở
Việt Nam.
2. Mục tiêu của đề tài
Biểu tình diễn biến phức tạp nhưng Việt Nam chưa có luật biểu tình quy
định cụ thể vấn đề này. Nhiều hệ lụy từ biểu tình xảy ra mà không có căn cứ để xử
lý, đó là một thiếu sót rất lớn và chưa đáp ứng được đòi hỏi của xã hội.
Qua đề tài này, các tác giả muốn khẳng định:
1. Sự cần thiết phải có luật biểu tình ở Việt Nam. Biểu tình là quyền cơ bản
của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp hiện hành. Và nhiệm vụ của Nhà

nước là phải đảm bảo cho quyền này được thực hiện trên thực tế thông qua việc
ban hành luật biểu tình.
2. Xây dựng khái niệm “biểu tình” trên cơ sở đó giúp Nhà nước quản lý
được hoạt động biểu tình, đồng thời đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân
3. Phân biệt giữa biểu tình với bạo loạn, bạo động.
4. Nêu lên vai trò, ý nghĩa của hoạt động biểu tình.
5. Mối quan hệ giữa biểu tình và các quyền tự do hội họp, tự do ngôn luận.
6. Phân tích những quy định liên quan đến biểu tình tại Việt Nam và các
nước trên thế giới. trên cơ sở đó so sánh đối chiếu những điểm chính cần phải có
trong luật biểu tình để xây dựng luật luật biểu tình ở Việt Nam
Nhằm mục đích cao nhất và cuối cùng là đóng góp vào việc xây dựng luật biểu
tình của Việt Nam sau này.
3. Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nghiên cứu mối quan hệ giữa thực tiễn
biểu tình và các quy định của pháp luật về quyền biểu tình ở Việt Nam. Ngoài ra
các tác giả còn sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp….
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào nghiên cứu quyền biểu tình trên cơ sở lý luận và thực
tiễn ở Việt Nam và thế giới
Trước hết, các tác giả đã tìm hiểu những quy định pháp luật liên quan đến
biểu tình của Việt Nam trong Luật số 101/ SL – L - 003 ngày 20 – 5 - 1957 của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về quyền tự do hội họp. Mặc dù đây là một
văn bản không trực tiếp điều chỉnh vấn đề biểu tình nhưng hoạt động tự do hội họp
là một trong những tiền đề quan trọng để tiến tới việc thực hiện biểu tình. Do đó,
chúng ta có thể tham khảo, kế thừa những quan điểm pháp lý tiến bộ trong văn bản
trên để hoàn thiện các quy định về biểu tình trong quá trình xây dựng luật biểu tình
của nước ta sau này.

Bên cạnh đó, các tác giả còn tham khảo thêm những quy định của pháp luật
nước ngoài có liên quan đến quyền biểu tình của một số nước trên thế giới, đặc biệt
là hai đạo luật của Anh: Công đạo luật 1986 - Public Oder Act 1986 (POA 1986)
và Đạo luật các tội phạm nghiêm trọng có tổ chức và cảnh sát 2005 - Serious
Organised Crime and Police Act 2005 (SOCPA 2005).
4. Tóm tắt nội dung đề tài
Đề tài bao gồm hai chương. Chương I các tác giả trình bày những vấn đề lý
luận về biểu tình bao gồm 6 vấn đề sau đây.
Thứ nhất: các tác giả đã đưa ra hai khái niệm biểu tình. Một khái niệm dưới
cái nhìn từ thực tiễn và một khái niệm trên cơ sở pháp lý. Để trả lời cho hai câu
hỏi: biểu tình là gì ? biểu tình như thế nào là đúng pháp luật ?
Thứ hai: từ khái niệm chính thức đã nêu các tác giả đưa ra sự phân biệt
giữa biểu tình và một số hình thức khác tương tự. Qua đó chúng ta tránh được sự
lẫn lộn trong nhận thức về các hoạt động này, tạo sự thuận lợi cho cơ quan Nhà
nước xử lý vi phạm một cách rõ ràng và người dân biết được việc nào nên làm,
việc nào nên tránh.
Thứ ba: các tác giả nêu lên ý nghĩa của biểu tình
Thứ tư: biểu tình nằm trong nhóm quyền cơ bản của công dân và không
tách rời với những quyền cơ bản khác. Để làm rõ điều đó, các tác giả đã nêu lên
mối quan hệ giữa quyền biểu tình với quyền tự do ngôn luận và quyền tự do hội
họp. Đây là hai quyền rất quan trọng làm tiền đề cho quyền biểu tình, nếu không có
hai quyền này thì biểu tình không thể thực hiện được trên thực tế.
Thứ năm: để thấy được tầm quan trọng của hoạt động biểu tình trong đời
sống xã hội ngày nay. Các tác giả đã nêu lên vai trò của biểu tình bao gồm hai nội
dung sau.
· Biểu tình là một trong những kênh thông tin tốt nhất để Nhà
nước nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người dân
· Biểu tình là một cách để nhân dân hạn chế sự lạm dụng quyền
lực của cơ quan Nhà nước
Cuối cùng: các tác giả nêu lên xu hướng phát triển của biểu tình trên thế

giới. Việc đảm bảo quyền biểu tình cho người dân là một xu thế tất yếu trên toàn
cầu. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với tất cả các nước. Vì thế, luật
hóa quyền biểu tình là điều cần thiết và chúng ta cũng nên theo xu hướng chung
này.
Trong chương II từ các quy định của pháp luật liên quan đến quyền biểu
tình ở Việt Nam và các nước trên thế giới các tác giả đã phân tích, so sánh để nêu
bật lên những ưu điểm, hạn chế. Từ đó rút ra những giải pháp cho kiến nghị xây
dựng luật biểu tình ở Việt Nam bao gồm các mục sau:
1. Quy định về việc thông báo khi tổ chức biểu tình
2. Cấm hoặc hạn chế một số hình thức biểu tình trong một số trường hợp.
3. Cấm và thời gian cấm biểu tình.
4. Phạm vi cấm biểu tình.
5. Vấn đề quy trách nhiệm.
5.1 Trách nhiệm của cá nhân, tổ chức.
5.2 Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước.
6. Chế tài xử phạt.
7. Cấm sử dụng loa ở một số địa điểm
8. Quyền hạn chế hoặc giải tán cuộc biểu tình của Nhà nước.
9. Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo xây dựng luật biểu tình.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BIỂU TÌNH
1. Khái niệm biểu tình
Biểu tình là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, trên thế giới chưa có một định
nghĩa về biểu tình thật sự thống nhất. Những nước khác nhau có những quan điểm
về biểu tình cũng khác nhau. Luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận quyền biểu
tình nhưng hầu hết lại không định nghĩa thế nào là biểu tình.
Theo bách khoa toàn thư Bắc Mỹ (Encyclopaedia Americana) thì biểu tình
được hiểu “là hành động bất bạo lực của một nhóm người, nhằm mục đích đưa
đến cộng đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã
hội[1]”. Định nghĩa này đã nêu được ba yếu tố hợp thành đó là. Thứ nhất: hành

động bất bạo lực. Thứ hai: sự tham gia của một nhóm người. Thứ ba: mục đích của
biểu tình nhằm đưa đến cộng đồng một quan điểm hay một cách nhìn về một vấn
đề nào đó trong xã hội. Nhược điểm của định nghĩa này ở chỗ.
Thứ nhất: hành động bất bạo lực. Trên thực tế, biểu tình không hẳn chỉ đơn
thuần là hành động bất bạo lực. Hầu hết, mọi cuộc biểu tình ban đầu diễn ra một
cách ôn hòa nhưng ở giai đoạn cuối thường có kèm theo cả những hành động bạo
lực ở những mức độ khác nhau như xô xát nhỏ, ném chai lọ. Ví dụ: phong trào
chống thuế ở Trung Kỳ mà tiêu biểu là ở Huế. “Từ đầu tháng 4 - 1908 nhân dân
Thừa Thiên biểu tình, bọn cầm quyền vội điều binh lính tới ngăn chặn, bọn lính nổ
súng bắn chết một người. Đám biểu tình xông lên tước khí giới chúng rồi trói tên
Phó Lãnh Binh và bắt Viên Phủ Doãn phải dẫn đầu đoàn biểu tình. Trên đường kéo
về Huế, một số nơi đã bố trí sẵn để cắt tóc ngắn và khâu ngắn lại cho những ai còn
búi tóc và mặc áo dài[2]. Trong ví dụ này, ban đầu đoàn biểu tình không có hành
động bạo lực nhưng khi lợi ích của họ bị xâm phạm, một số hành động bạo lực đã
xảy ra đó là “xông lên tước khí giới, trói tên phó lãnh binh”. Như vậy, biểu tình
được xem là hành động bất bạo lực một cách hoàn toàn thì không ổn. Nếu ta xét
riêng rẽ hành động của từng người và dựa vào định nghĩa của biểu tình, bạo loạn,
bạo động thì có thể phân biệt đó là hành động biểu tình hoặc bạo động, bạo loạn
một cách rõ ràng. Nếu xét hành động biểu tình trong tổng thể của cả một tập đoàn
người thì rất khó. Ví dụ: một cuộc biểu tình có nửa triệu người tham gia. Năm
người có hành động bạo lực còn lại tất cả đều không có hành động bạo lực. Trong
trường hợp này rõ ràng có bạo lực xảy ra, nếu căn cứ theo định nghĩa trên thì đây
không được gọi là một cuộc biểu tình. Bởi vì, để được gọi là biểu tình thì tất cả
mọi người tham gia đều không được có hành động bạo lực. Nếu vì hành động bạo
lực của năm người mà xem đây không phải là một cuộc biểu tình thì quá cứng
nhắc.
Thứ hai: số lượng người tham gia. Định nghĩa đưa ra một định mức ở một
nhóm người. Quan điểm này cho thấy, biểu tình phải có nhiều người tham gia
nhưng chỉ giới hạn ở một nhóm người thì quá hạn hẹp. Nhiều cuộc biểu tình có đến
vài chục vạn người tham gia, thậm chí thu hút gần như toàn bộ cư dân của một

thành phố thì không thể gọi là một nhóm người được. Ví dụ cuộc biểu tình của 70
vạn quần chúng Sài Gòn ngày 16 – 6 - 1963 đã lôi kéo gần như mọi tầng lớp nhân
dân[3]. Cuộc biểu tình ngày 15 – 3 - 2010 ở Thái Lan do phe Áo đỏ phát động đã
thu hút khoảng một trăm ngàn người[4]. Một nhóm người là quá nhỏ, khái niệm đó
không thể bao hàm hết một lượng người quá lớn lên đến hàng vạn hoặc hàng triệu
người.
Thứ ba: mục đích của cuộc biểu tình. Hoạt động biểu tình nhằm đưa đến
một quan điểm hay hay cách nhìn về một vấn đề nào đó trong xã hội. Theo các tác
giả thì sự thống nhất về cách nhìn hay quan điểm đúng là mục đích của biểu tình
nhưng đó không phải là mục đích cuối cùng. Nếu ta chỉ dừng ở đó thì không triệt
để. Thực chất, cái đích của người biểu tình là làm sao cho quyền lợi của mình, của
chủ thể khác hoặc của xã hội được đáp ứng. Các chủ thể bị phản đối cần phải có sự
thay đổi để đáp lại nguyện vọng của người biểu tình. Quan điểm hay cách nhìn
thống nhất chỉ là một bước mà người biểu tình mong muốn và cần đạt cho bằng
được, để đưa đến mục đích cuối cùng là quyền lợi. Đó có thể là những lợi ích về
vật chất hoặc tinh thần, trực tiếp hay gián tiếp. Theo các tác giả để được xem là
biểu tình trên thực tế thì nhất thiết phải có ba yếu tố sau.
Thứ nhất: nhiều người tham gia. Thứ hai: phải thể hiện sự ủng hộ hay
phản đối công khai. Thứ ba: mục đích của biểu tình nhằm đòi hỏi quyền lợi cho
mình cho xã hội hoặc cho một đối tượng nào đó.
Thứ nhất: có nhiều người tham gia. Bất kỳ một cuộc biểu tình nào nổ ra
cũng phải tập hợp được một lực lượng đông đảo. Họ bày tỏ những quan điểm của
mình và phản đối chính sách của Nhà nước, tổ chức hay cá nhân nào đó. Đấu tranh
bằng phương pháp hòa bình là chủ đạo nên phải nhiều người mới tạo được sức
mạnh cần thiết để tác động đến những chủ thể mà họ không bằng lòng. Ví dụ: cuộc
biểu tình đòi thả Phan Bội Châu có hàng vạn người đủ các tầng lớp nhân dân[5].
Lịch sử hình thành của quyền biểu tình cũng được thực hiện dưới hình thức nhiều
người. Họ có thể có những cách thức đấu tranh khác nhau nhưng không đối lập.
Tất cả những người biểu tình có điểm chung đó là: hướng đến đối tượng mà họ ủng
hộ hay phản đối để đòi hỏi những gì mà mình mong muốn. Vì thế, người biểu tình

có nhu cầu liên kết lại. Một người lẻ loi đứng ra bày tỏ quan điểm ủng hộ hay phản
đối về bất cứ một vấn đề nào thì chưa từng có tiền lệ gọi đây là hành động biểu
tình.
Biểu tình thể hiện dưới nhiều hình thức như: diễu hành[6], chiếm đóng[7],
giả chết Sau đây là đặc điểm và một số ví dụ về từng hình thức biểu tình trên.
Diễu hành hay còn gọi là mít tinh được hiểu là việc xuống đường của nhiều
người di chuyển trong trật tự từ địa điểm này đến địa điểm khác. Ở Việt Nam cũng
hay tổ chức những cuộc mít tinh mừng ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam
thống nhất đất nước 30 tháng 4 hay ngày quốc tế lao động 1 – 5. Đoàn người vừa
đi vừa hô khẩu hiệu theo sự chỉ dẫn của những người tổ chức. Đây cũng là một
hình thức biểu tình nhưng được thể hiện dưới dạng ủng hộ. Thông thường, Nhà
nước đứng ra tổ chức và người dân tham gia.
Chiếm đóng được hiểu là sự bao vây của nhiều người quanh một địa điểm
nhất định nào đó trong một khoảng thời gian. Ví dụ: cuộc biểu tình của hàng chục
ngàn người tại Thái Lan ngày 3 – 4 -2010. “Các tòa nhà văn phòng và hàng chục
trung tâm thương mại sầm uất tại thủ đô Bangkok đã phải đóng cửa vì lý do an
ninh. Giao thông trên nhiều tuyến phố bị tê liệt. Người biểu tình áo đỏ cho biết họ
sẽ tiếp tục chiếm đóng các trung tâm thương mại cho tới khi nào yêu cầu của họ
được đáp ứng. Rất nhiều người biểu tình Áo đỏ đã ngủ lại qua đêm trên hè
phố.”[8]
Giả chết được hiểu là hình thức biểu tình khổ hạnh. Thông thường, người
biểu tình sắp đặt một cảnh tượng chết chóc bi thương để phản đối những vấn đề
cũng mang tính chết chóc như chiến tranh hay một sản phẩm nào đó có hại tương
tự. Ví dụ: một nhóm sinh viên Mỹ biểu tình chống chiến tranh tại Iraq. Họ tập
trung ở những nơi công cộng. Tất cả nằm ra giả như đã chết, bên cạnh họ có những
tấm khẩu hiệu yêu cầu chấm dứt chiến tranh ngay lập tức.
Thứ hai: phải thể hiện sự ủng hộ hay phản đối công khai. Dù biểu tình
được thực hiện dưới hình thức nào cũng phải thể hiện sự phản đối hoặc ủng hộ
công khai. Những chính sách hay quyết định của bất kỳ Nhà nước, tổ chức, cá
nhân nào gây phương hại đến những người khác đều có thể trở thành đề tài phản

đối của người biểu tình. Ví dụ: phe Áo đỏ ở Thái Lan phát động một cuộc biểu tình
trên quy mô lớn phản đối các nhà lãnh đạo và sự điều hành của Chính phủ. Người
đứng đầu và đoàn biểu tình “gây sức ép đòi Thủ tướng từ chức, giải tán Hạ Viện và
tiến hành bầu cử sớm”[9]. Trong trường hợp này, người biểu tình rõ ràng thể hiện
thái độ không đồng tình với những chủ trương mà những người đứng đầu Chính
phủ đưa ra. Tuy nhiên, biểu tình không chỉ thể hiện sự phản đối, mà trong nhiều
trường hợp nó còn bày tỏ sự ủng hộ. Nhiều vấn đề người dân bày tỏ thái độ ủng hộ,
đơn thuần chỉ vì họ thấy nó phù hợp, đem lại lợi ích cho mình và xã hội. Nếu
Chính phủ hoặc tổ chức, cá nhân đang có những lựa chọn cách giải quyết cho một
vấn đề nào đó thì sự ủng hộ của người biểu tình góp phần củng cố quyết tâm của
những chủ thể đưa ra quyết định hơn. Ví dụ: cuộc biểu tình ngày 19 – 4 - 2010 của
người dân New York. “Cuộc biểu tình do Chiến dịch Hỗ trợ và trách nhiệm với các
nạn nhân chất độc da cam dioxin Việt Nam phát động đã diễn ra tại công viên
Prospect, nơi diễn ra sự kiện chạy vì nước sạch của công ty Dow tổ chức. Những
người tổ chức biểu tình cho rằng công ty Dow đang lợi dụng các hoạt động như:
Chạy vì nước sạch để che giấu hành vi gây ô nhiễm nguồn nước và phá hủy hệ sinh
thái ở Việt Nam và nhiều nơi khác”[10].
Sự phân biệt giữa ủng hộ hay phản đối cũng chỉ ở mức tương đối vì nhiều
cuộc biểu tình có sự đan xen giữa hai yếu tố này. Thông thường, một cuộc biểu
tình ủng hộ ai đó thì đồng thời cũng là một biểu hiện cho sự phản đối với bên kia.
Điển hình trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam. Người dân yêu chuộng
hòa bình trên toàn thế giới tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối cuộc chiến của
Mỹ tại Việt Nam. Những cuộc biểu tình như thế này không thể nói chỉ có sự phản
đối. Thông qua sự không đồng tình với nhà cầm quyền Mỹ, người biểu tình đã trực
tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Sự tụ
họp đông người không thể hiện sự phản đối hoặc ủng hộ thì không là biểu tình. Có
thể đó là sự tụ họp, bàn bạc, thảo luận để đưa ra ý kiến mang tính chất đóng góp
hay bổ sung. Cách thức thể hiện cũng được thể hiện dưới những hình thức khác
nhau nhưng biểu tình phải công khai. Bản chất của biểu tình nằm ở chỗ. Bằng sức
mạnh của số đông, người biểu tình muốn truyền tải thông điệp đến đối tượng mà

họ hướng đến ngay lập tức và nhanh chóng. Cho nên, sự công khai là đặc điểm bắt
buộc. Ví dụ: “cuộc biểu tình đòi thả Phan Bội Châu năm 1925 thu hút đông đảo
thanh niên, sinh viên, học sinh. Họ giương cao biểu ngữ, phân phát truyền đơn,
phản đối sự bắt bớ đối với Phan Bội Châu. Có những tờ đơn kháng cáo còn được
gửi tới tận Hội Quốc Liên, Tòa án quốc tế Lahay (Hà lan), Nghị Viện Pháp đòi hủy
bản án cho Phan Bội Châu[11]”.
Thứ ba: mục đích của biểu tình nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ
thể khác hoặc cho xã hội.
Điều cốt yếu nhất của hiện tượng biểu tình đó là sự xung đột lợi ích giữa
các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội. Người ta đi biểu tình vì chính Nhà nước, tổ
chức, cá nhân nào đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, của chủ thể khác hoặc
của xã hội. Người biểu tình nhận thấy rằng, nếu cứ để tình trạng đó diễn ra thì thật
sự không tốt bằng cách họ tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi. Thời gian gần
đây, người dân trên khắp thế giới biểu tình chống chiến tranh, đòi bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo vệ động vật hoang dã. Những hành động ấy là sự thể hiện cho
ý thức bảo vệ lợi ích của xã hội loài người một cách lâu dài.
Từ những sự phân tích trên thực tế, các tác giả đưa ra định nghĩa trong thực
tiễn về biểu tình như sau:
Biểu tình là sự tập hợp của nhiều người để bày tỏ thái độ phản đối hay ủng
hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân nhằm
đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho xã hội.
Trên thực tế, biểu tình còn có cả hành động bạo lực xen vào. Chính yếu tố
bạo lực làm cho tình hình khó kiểm soát, dễ dẫn đến tình trạng cuộc biểu tình ôn
hòa chuyển hóa thành bạo động hoặc bạo loạn. Một khi có bạo loạn hoặc bạo động
xảy ra thì quyền lợi của cả người biểu tình và những chủ thể mà họ hướng đến đều
bị ảnh hưởng. Sự chết chóc, xung đột vũ trang, mâu thuẫn nội bộ càng làm cho tình
hình thêm phức tạp. Nếu chúng ta thừa nhận biểu tình có bạo lực dẫn đến việc Nhà
nước khó có thể kiểm soát được sự ổn định và phát sinh một số khó khăn trên thực
tiễn. Bởi vì, đó đã là quyền của người biểu tình, Nhà nước mà ngăn cản thì chính
Nhà nước lại vi phạm pháp luật do mình ban hành. Nếu Nhà nước không ngăn cản

thì tình hình xã hội càng phức tạp thêm.
Việc các tác giả phân tích tỷ mỷ thế nào là biểu tình không phải để tranh cãi
thế nào là biểu tình, mà để đưa ra một định nghĩa về biểu tình thật toàn diện và phù
hợp với thực tiễn hiện nay nhằm xây dựng luật biểu tình. Trên cơ sở kiến nghị xây
dựng một văn bản pháp luật về vấn đề biểu tình. Văn bản pháp luật đó không chỉ
đáp ứng được những đòi hỏi rất bức thiết của người biểu tình mà đó còn là công cụ
để Nhà nước kiểm soát xã hội. Dù thực tế, biểu tình có diễn ra như thế nào nhưng
để đảm bảo được lợi ích chung thì pháp luật vẫn phải có sự hạn chế nhất định. Sự
hạn chế này không phải vì Nhà nước thu hẹp quyền biểu tình của người dân mà
mục đích nhằm bảo vệ sự an toàn của chính người biểu tình và sự ổn định chính trị,
tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển toàn diện.
Đứng trên phương diện pháp luật, các tác giả đưa ra định nghĩa chính thức
về biểu tình như sau:
Biểu tình là sự tập hợp tự nguyện từ mười người trở lên, hành động mang
tính phi bạo lực, để bày tỏ thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề
nào đó trước Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình,
cho chủ thể khác hoặc cho xã hội.
Con số mười người mà các tác giả đề xuất ở định nghĩa trên chỉ mang tính
tương đối. Qua thực tế cho thấy, biểu tình phải tập hợp được một lượng người
đông đảo, hai hoặc ba người không thể làm nên một cuộc biểu tình được. Chúng ta
không nên quy định theo kiểu “có nhiều người tham gia” bởi vì hai người trở lên
cũng được xem là nhiều người. Tuy khó nhưng luật phải đưa ra một con số cụ thể,
giới hạn nhỏ nhất là bao nhiêu để làm căn cứ xác định đâu là biểu tình. Nếu dựa
vào bản chất của biểu tình thì không thể xác định được chính xác phải có tối thiểu
bao nhiêu người tham gia thì sẽ được coi là một cuộc biểu tình. Sự lựa chọn con số
mười người, mười lăm người hoặc một con số khác làm định lượng tối thiểu để coi
đó là một cuộc biểu tình phần lớn do chủ quan của mỗi nhà làm luật ở mỗi quốc
gia. Việc xác định một con số tối thiểu sẽ giúp cho Nhà nước dễ dàng quản lý và
công nhận một cuộc biểu tình, tránh tình trạng luật không có quy định dẫn đến một
nhóm hai hoặc ba cũng đòi biểu tình nhưng hiệu quả của biểu tình không cao, đồng

thời Nhà nước phải quản lý thêm nhiều những cuộc biểu tình quá nhỏ bé.
So sánh định nghĩa về biểu tình trên cơ sở pháp luật với thực tiễn chúng ta
thấy có ba điểm giống nhau. Thứ nhất: đều là sự tập hợp của nhiều người. Thứ
hai:đều bày tỏ thái độ phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước
Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Thứ ba: về mục đích biểu tình. Những đặc điểm
này nhóm tác giả đã phân tích ở trên. Ở đây, các tác giả chỉ phân tích thêm hai sự
khác biệt giữa hai định nghĩa này đó là: tính tự nguyện và tính phi bạo lực.
Thứ nhất: tính tự nguyện. Không phải mọi sự tụ họp đều có thể coi đó là
biểu tình. Chỉ những sự tụ họp nào mà người tham gia có sự tự ý thức được rằng:
cần phải biểu tình hoặc có sự tác động từ người khác dẫn đến người bị tác động
tham gia biểu tình nhưng sự tác động đó không phải là lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc
hay ép buộc. Ví dụ: đối với những cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt
Nam, Iraq. Điều đương nhiên là hành động xâm lược của Mỹ là vi phạm nghiêm
trọng độc lập và chủ quyền của Iraq và Việt Nam. Bất cứ ai cũng có thể tự nhận
thấy chiến tranh xâm lược là một tội ác. Vì thế, họ tập hợp nhau đi biểu tình, tuyên
truyền cho cả những người khác hiểu và cùng tụ họp lại biểu tình phản đối chiến
tranh. Trên thực tế, có không ít trường hợp một số người vì động cơ chính trị. Họ
đã bịa đặt ra những thông tin phỉ báng chính quyền và kêu gọi người dân đi biểu
tình. Nếu ai đi biểu tình sẽ được cho một khoản tiền, đây là những thủ đoạn mua
chuộc, dụ dỗ. Chúng dựa vào sự không hiểu biết của người dân để thực hiện ý đồ
riêng. Dưới gốc độ pháp lý không nên xem sự tụ họp đông người trong trường hợp
như vậy là biểu tình.
Thứ hai: tính phi bạo lực. Để biểu tình diễn ra trong tình trạng ôn hòa,
quyền lợi của người biểu tình được đảm bảo. An ninh trật tự vẫn được duy trì thì
biểu tình không được có bạo lực. Rất nhiều cuộc biểu tình vào giai đoạn cuối xảy
ra những hành động bạo lực giữa những người biểu tình với cảnh sát, giữa đoàn
biểu tình này với đoàn biểu tình khác. Biểu tình phải có sự kiểm soát của Nhà
nước. Một khi đã được luật hóa quyền biểu tình thì không thể xem những hành
động bạo lực đó nằm trong hoạt động của đoàn biểu tình. Đó là những biến tướng
của biểu tình. Ta nên dựa vào những hành vi cụ thể để xử phạt hành chính hay truy

cứu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn những dấu hiệu theo quy định của pháp luật.
Có như vậy, Nhà nước mới có thể kiểm soát được an ninh trật tự, đấu tranh có hiệu
quả với những người có âm mưu lợi dụng biểu tình để gây rối. Ví dụ: một ngàn
người biểu tình ở thành phố A tỏ thái độ không đồng tình với chính quyền trong
việc chậm trễ xử lý nguồn nước ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người
dân. Ban đầu, đoàn người diễu hành trong trạng thái ôn hòa nhưng khi đến trụ sở
Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố A. Mười người người biểu tình đã tấn công nhân
viên bảo vệ, ném gạch đá vào cảnh sát cơ động, đập phá tường rào. Trường hợp
này, chúng ta không nên công nhận hành động bạo lực của mười người sau khi đến
trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố A nằm trong hoạt động biểu tình mà xem xét
nó như những hành vi độc lập để xử lý.
Khái niệm của bất cứ một vấn đề nào đó luôn rất quan trọng, đặc biệt đối
với biểu tình khi mà chúng ta còn nhiều cách hiểu khác nhau và chưa có định nghĩa
chính thức. Với vấn đề này các tác giả có kiến nghị như sau. Khi tiến hành xây
dựng luật biểu tình thì phải đưa ra khái niệm rõ ràng về biểu tình để khi nhìn vào
đó chúng ta thấy được những đặc trưng riêng có. Từ đó, đưa ra những khái niệm
pháp lý khác để phân biệt các hoạt động tương tự với biểu tình. Đó là các khái
niệm về bạo loạn, bạo động, nổi loạn, ẩu đả…
2. Phân biệt giữa biểu tình với một số hoạt động khác
Quan niệm về biểu tình đã không thật sự thống nhất còn cách hiểu của
chúng ta nhiều khi vẫn có sự lẫn lộn giữa hoạt động biểu tình với một số hoạt động
tương tự khác như: bạo động, bạo loạn, ẩu đả …Sự mập mờ ấy không chỉ gây khó
khăn cho hoạt động nghiên cứu nói chung mà còn dẫn đến nhiều cách hiểu và áp
dụng pháp luật không thật sự thống nhất. Ví dụ: một nhóm người kéo nhau diễu
hành ở đường. Sau đó họ tập trung quanh trụ sở của Ủy Ban Nhân Dân huyện A
đòi chính quyền phải giảm thuế sử dụng đất, tăng cường tiếp xúc để cung cấp
thông tin cho nhân dân. Trong trường hợp này, ta xem những hành động vây quanh
trụ sở của ủy Ban Nhân Dân, đưa ra những yêu sách là biểu tình hay bạo loạn, bạo
động. Việc xét hành động đó vào loại nào có vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, Nhà
nước sẽ áp dụng những chế tài xử lý mà hậu quả của nó hoàn toàn khác nhau. Nếu

xem đó là hoạt động biểu tình thì chính quyền có nghĩa vụ lắng nghe và tiếp thu ý
kiến để đưa ra cách thức giải quyết thoả đáng cho người dân. Nếu chính quyền cho
đó là hành động bạo loạn, có ý đồ chống chính quyền nhân dân thì không những
nhóm người đó không được đáp ứng quyền lợi gì mà còn có thể bị xử phạt hành
chính hoặc hình sự.
Chính sự khác biệt về cách thức xử lý, hậu quả để lại cho người bị xử phạt,
quyền và nghĩa vụ của chính quyền khi xem xét hành động đó là biểu tình hoặc bạo
loạn, bạo động buộc chúng ta phải có sự phân biệt rõ ràng. Có như vậy, quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước và người dân mới được đảm bảo.
Theo bách khoa toàn thư mở Wikipedia. “Bạo loạn” là một hành động
chống phá bằng bạo lực có tổ chức do lực lượng phản động hay lực lượng ly khai,
đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngoài tiến hành nhằm gây rối loạn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật đổ chính quyền (địa phương hoặc
trung ương)[12]”.
Mục 2.2 (POA 1986 ) thì bạo loạn (Violent disorder.) được hiểu là trường
hợp từ ba người trở lên có mặt cùng sử dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực bất hợp
pháp và hành động của họ là nguyên nhân chủ yếu tại hoàn cảnh đó làm cho một
người bình thường tại hiện trường lo sợ cho an toàn cá nhân mình, mỗi người sử
dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực bất hợp pháp là phạm tội bạo loạn[13].
Mục 1.1 (POA) thì bạo động (Riot) được hiểu là trường hợp từ 12 người trở
lên có mặt cùng sử dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực bất hợp pháp cho một mục
đích chung và hành động của họ là nguyên nhân chủ yếu tại hoàn cảnh đó làm cho
một người bình thường tại hiện trường lo sợ cho an toàn cá nhân mình, mỗi người
sử dụng bạo lực bất hợp pháp là phạm tội bạo động[14].
Theo bách khoa toàn thư Việt Nam. “Bạo động là hoạt động của một số
đông người dùng bạo lực nổi dậy nhằm lật đổ chính quyền[15]”.
Qua định nghĩa về bạo động và bạo loạn nêu trên ta có thể thấy giữa chúng
có điểm chung sau. Thứ nhất: bạo động và bạo loạn phải có nhiều người tham
gia.Thứ hai: bạo động và bạo loạn phải mang tính bạo lực. Thứ ba: mục đích của
bạo động và bạo loạn nhằm gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội hoặc lật

đổ chính quyền.
Sự khác biệt giữa biểu tình với bạo động, bạo loạn thể hiện ở những điểm
sau.
Thứ nhất: về tính bạo lực. Bạo động và bạo loạn luôn luôn có kèm theo
hành động bạo lực. Từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, hành động bạo lực là chủ đạo
và xuyên suốt. Cuộc bạo động năm 2003 tại Gia Lai và Đắc Lắc là một ví dụ. Dưới
sự kích động của bọn phản động nước ngoài. Những người dân tộc thiểu số mang
vũ khí các loại, tập trung chiếm trụ sở của chính quyền, đập phá nhiều công trình
công cộng. Hành động bạo lực này là có chủ ý và có sự chuẩn bị từ trước nhằm lật
đổ chính quyền nhân dân và lập nên Nhà nước tự trị Đề Ga. Biểu tình không kèm
theo hành động bạo lực, nếu có bạo lực xảy ra trong lúc biểu tình thì hành động đó
chỉ là những biến tướng. Người có hành động bạo lực ấy sẽ bị xử lý riêng biệt và
hành động ấy không được xem là biểu tình. Ý chí chủ đạo của đoàn biểu tình vẫn
là ôn hòa, không chủ trương dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Thông thường bạo
lực chỉ xảy ra vào giai đoạn cuối. Cuộc biểu tình ngày 2 - 6 - 2007 của người dân
thành phố Rostock là một ví dụ. “Cuộc biểu tình bắt đầu trong tinh thần hòa hoãn,
phần lớn người biểu tình không có ý muốn bạo động. Tuy nhiên, một số trong đoàn
biểu tình đã gây hấn với lực lượng cảnh sát và bạo động xảy ra đã đẩy thành phố
cảng Rostock ở phía bắc nước Ðức vào tình trạng hỗn loạn[16]”.
Thứ hai: về mục đích. Bạo động và bạo loạn nhằm gây rối an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, hoặc lật đổ chính quyền. Trong khi đó, mục đích của người
biểu tình không phải đi gây rối an ninh chính trị hoặc lật đổ chính quyền mà họ đòi
hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho toàn xã hội thông qua đấu tranh
ôn hòa. Ví dụ cuộc biểu tình chống đạo luật hôn nhân gia đình sửa đổi của Italia
ngày 12 – 5 - 2007. “Những người biểu tình đã yêu cầu Quốc hội bác bỏ đạo luật
kể trên bởi nó "phi truyền thống" và sẽ hủy hoại các gia đình truyền thống[17]”.
Các nước phát triển Châu Âu thường có tỷ lệ sinh thấp. Vì thế, việc Chính phủ
thông qua Luật hôn nhân gia đình sửa đổi có nội dung trao thêm quyền cho những
cặp kết hôn đồng giới đã thật sự đe dọa đến tương lai của xã hội. Đặc biệt, nó vi
phạm tính truyền thống của người Italia. Họ đi biểu tình vì muốn bảo vệ những giá

trị truyền thống và sự phát triển bình thường của cả dân tộc.
3. Ý nghĩa của biểu tình
Hoạt động biểu tình là sự thể hiện sự dân chủ. Thông qua hoạt động biểu
tình người dân được thực hiện cả hai quyền rất quan trọng nằm trong các quyền cơ
bản của công dân đó là quyền tự do ngôn luận và tự do tụ họp. Bên cạnh đó thông
qua hoạt động biểu tình người dân được quyền nói lên những quan điểm của mình
một cách công khai và mạnh mẽ nhất đối với các chủ thể khác mà đặc biệt là đối
với Nhà nước. Sự tự do dân chủ thể hiện ở chỗ người dân không chỉ dừng lại ở
việc nói lên các quan điểm suy nghĩ của mình, mà trong những trường hợp cụ thể
họ có thể đấu tranh thông qua hoạt động biểu tình làm cho các chủ thể khác đáp
ứng quyền lợi chính đáng của mình.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, điều này toàn toàn phù hợp với chủ
trương xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh của Đảng và Nhà
nước. Theo Điều 3 Hiến Pháp 1992 có ghi nhận: “Nhà nước đảm bảo và không
ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh…”
Luật hóa quyền biểu tình sẽ làm nâng cao tính dân chủ trong đời sống xã
hội, thể hiện rõ Nhà nước ta là Nhà nước của dân do dân và vì dân. Một xã hội mà
người dân không được tự do nói lên những gì mà mình muốn chứng tỏ xã hội đó
còn bị hạn chế dân chủ.
Chính vì có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện một nền dân chủ trong xã hội.
Bên cạnh đó, Nhà nước chúng ta đang xây dựng là Nhà nước của dân do dân và vì
dân. Lấy mục tiêu luôn đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển của xã
hội.
4 .Vì sao phải luật hóa biểu tình trong trong thời gian sớm nhất.
Khi nghiên cứu vấn đề biểu tình trong thực tiển nước ta,, các tác giả cho rằng việc
xây dựng luật biểu tình trong điều kiện nước ta ngày nay là hoàn toàn phù hợp và
cần thiết. Điều này thể hiện qua những mặt sau đây:
Sự đòi hỏi của một nền pháp chế.
Trong quá trình xây dựng mô hình Nhà nước của dân do dân và vì dân,

Đảng và Nhà nước ta đã tiếp thu nhiều quan điểm tiến bộ để thực hiện mục tiêu
của mình. Trong đó, quan điểm về một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
được thừa nhận rộng rãi là một trong những bước đi tiếp theo trong quá trình xây
dựng mô hình Nhà nước của dân do dân và vì dân. Nhận thức này ngày càng thống
nhất trong toàn Đảng và được khẳng định rõ tại Đại hội IX của Đảng (4 - 2001):
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.[18]
Quan điểm này đã được thể hiện trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và cụ thể
hóa trong Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Khái niệm về Nhà nước pháp quyền được hiểu theo nguyên nghĩa là sự tối
thượng của pháp luật hay chế độ chính trị pháp trị (The rule of law). Nó bao gồm
hai nội dung sau (1) Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và (2) Nhà nước bị
ràng buộc bởi pháp luật[19].
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền không chỉ dừng lại ở việc thiết lập một
khuôn khổ pháp lý nhằm chế ngự quyền lực nhà nước, thực hiện quyền dân chủ mà
còn hướng tới một xã hội phát triển bền vững, toàn diện và tích cực nhằm giải
phóng con người[20].
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là nhà nước dân chủ của dân, do
dân, vì dân nên nhiệm vụ của hệ thống pháp luật nước ta là phải đảm bảo các
quyền con người, quyền công dân cho nhân dân ta được thực thi trong đời sống. Ý
chí lợi ích của nhân dân không chỉ dựa trên các văn bản pháp luật mà cần phải trở
thành những ứng xử trên thực tế.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước xây dựng một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân bằng việc từng bước hoàn
thiện một hệ thống pháp luật dân chủ và tiến bộ nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhân
dân. Tuy nhiên, vẫn còn những quyền công dân mà thực tế chưa đi vào đời sống,

chưa thực sự trở thành những ứng xử trên thực tế. Bởi vì, Nhà nước ta vẫn chưa
ban hành những văn bản quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh, điển hình là
vấn đề biểu tình.
Đây là một hoạt động sinh hoạt chính trị phổ biến ở các nước có hệ thống
pháp luật phát triển, là một hình thức thể hiện tính dân chủ của công dân trong đời
sống xã hội. Đặc biêt là trong một Nhà nước dân chủ như chúng ta thì đây còn là
một hoạt động thể hiện ý chí của người dân đối với các vấn đề của xã hội nói
chung và của Nhà nước nói riêng, để từ đó thể hiện quyền làm chủ của công dân.
Biểu tình là một trong những kênh thông tin tốt nhất để Nhà nước nắm bắt
được tâm tư nguyện vọng của người dân
Chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước có phù hợp hay không được phản ánh qua sự
đón nhận như thế nào của nhân dân. Thông qua hoạt động biểu tình, người dân sẽ
phản ánh một cách trung thực những quan điểm của họ đối với những chính sách
được ban hành. Khi những đường lối không được lòng dân thì biểu tình là một
cách để Nhà nước nhận ra những điểm chưa hợp lý. Nhà nước càng lắng nghe ý
kiến của dân một cách tích cực thì người dân cũng có những phản ứng tích cực
hơn. Nếu ý kiến của mình không được lắng nghe người dân sẽ tiếp tục có sự đấu
tranh. Sự đấu tranh ấy mà Nhà nước tiếp tục thể hiện sự thờ ơ thì nhân dân sẽ phản
ứng bằng nhiều cách khác nhau như: không quan tâm gì đến những chính sách của
Nhà nước, không đóng góp ý kiến khi Nhà nước tổ chức lấy ý kiến. Tiêu cực hơn,
nhiều người còn bất mãn tổ chức những cuộc bạo loạn, khủng bố, nội chiến làm
cho đất nước cực kỳ hỗn loạn. Gốc rễ sự ổn định của đất nước là ở nhân dân. Vì
thế, việc Nhà nước tiếp thu và giải quyết những bức xúc trong lòng dân là một
trong những cách để duy trì sự ổn định xã hội, tận dụng mọi nguồn lực trong nhân
dân để phát triển đất nước.
Đòi hỏi của sự ổn định chính trị và trật tự xã hội
Thực tế nhiều năm nay ở Việt Nam, các phần tử phản động, thù địch
thường kích động, lôi kéo, dụ dỗ người dân biểu tình ở nhiều địa phương[21]. Hệ
quả của các cuộc biểu tình này là gây mất ổn định xã hội rất cao.

Việc các thế lực thù địch, phản động có thể tiến hành các hoạt động chống
phá ta bằng hình thức biểu tình một phần là do sự nhận thức kém của người dân
nên dễ bị kẻ xấu lợi dụng, nhưng một phần cũng không kém quan trọng là do việc
chúng ta thiếu những quy định về mặt pháp lý trực tiếp điều chỉnh vấn đề biểu tình
từ đó tạo ra khe hở để những thế lực nêu trên lợi dụng. Bên cạnh đó, các hình thức
gần giống với biểu tình như bạo động, bạo loạn vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng
với biểu tình trên cơ sở pháp lý nên các phần tử xấu đồng nhất các hoạt động bạo
động bạo loạn là biểu tình và cho rằng đó là sự thể hiện dân chủ.
Từ đó cho thấy, Nhà nước cần phải có một công cụ pháp lý để hạn chế việc
lợi dụng biểu tình của các phần tử xấu nhằm chống phá chế độ ta. Vì vậy xây dựng
luật biểu tình nhằm đáp ứng được yêu cầu này.
Biểu tình là một cách để nhân dân hạn chế sự lạm dụng quyền lực từ phía
cơ quan Nhà nước
Hầu hết các Nhà nước sau khi ra đời đều có xu hướng lạm dụng quyền lực.
Từ sự lạm dụng quyền lực này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực phát sinh. Tuy có quyền
lực rất lớn nhưng Nhà nước không thể bất chấp mọi phản ứng của nhân dân để làm
tất cả mọi việc theo quan điểm của mình. Thông qua biểu tình, nhân dân có thể
ngăn ngừa hoặc ít nhất cũng làm giảm bớt sự lạm dụng quyền lực của Nhà nước.
Sự hạn chế quyền lực này của nhân dân thông qua cơ chế tự do ngôn luận, tự do
hội họp, tự do thông tin, bàn bạc tranh luận. Nhân dân có thể kiểm tra và theo dõi
việc thực hiện quyền lực Nhà nước và có thể thách thức hoặc “đạp đổ” hoặc “đuổi
Chính phủ đi”[22]. “Sự giám sát của nhân dân sẽ dẫn đến một hệ quả rất quan
trọng là nhân dân sẽ chế ngự bằng việc biểu tình phản đối hoặc thay đổi Chính phủ
một cách hòa bình hoặc phương thức cuối cùng là nổi dậy bằng khởi nghĩa, đấu
tranh vũ trang”[23].
5. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác.
Theo nhóm tác giả thì quyền là khả năng của một chủ thể được làm hay
không làm một việc gì đó trong giới hạn mà những chủ thể khác không được phép
ngăn cản.
Từ nhận định trên, ta có thể rút ra quyền biểu tình được hợp thành bởi hai

yếu tố đó là: quyền cộng với khái niệm biểu tình.
Như vậy, quyền biểu tình là khả năng của bất cứ ai, tự nguyện tập hợp từ
mười người trở lên, hành động mang tính phi bạo lực, để bày tỏ thái độ phản đối
hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước, tổ chức hoặc cá
nhân. Mục đích làm cho những chủ thể đó phải có những biện pháp thích hợp để
đáp ứng lợi ích của mình, của chủ thể khác hoặc của xã hội.
5.1. Quan hệ giữa biểu tình và quyền biểu tình là mối quan hệ giữa lý luận
và thực tiễn
Biểu tình là một hiện tượng trong xã hội có Nhà nước. Hành động biểu tình
vẫn cứ tồn tại mặc cho Nhà nước có thừa nhận nó hay không. Biểu tình góp phần
bày tỏ tiếng nói của mọi cộng đồng người. Khi mà xã hội vẫn còn sự bất bình đẳng
thì đây là đòi hỏi khách quan. Vì vậy, Nhà nước không thể mãi mãi ngăn cản.
Hành động biểu tình tồn tại một cách dai dẳng trong đời sống kinh tế xã hội, đến
một thời điểm nhất định nó trở nên phổ biến. Nhà nước nhận thức được tầm quan
trọng và sức ảnh hưởng to lớn không chỉ đến kinh tế mà cả chính trị xã hội. Từ đó,
Nhà nước buộc phải thừa nhận và nâng chúng lên thành luật, nhằm ổn định trật tự
xã hội và áp đặt ý chí lên giai cấp khác nhằm điều chỉnh hệ tư tưởng theo đúng quỹ
đạo của mình. Biểu tình và quyền biểu tình là hai mặt của một vấn đề. Chúng có
mối quan hệ mật thiết không thể tách rời nhưng không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Quyền biểu tình là hình thức bề ngoài. Nó được thể hiện bằng những quy
phạm pháp luật đã được Nhà nước thừa nhận hoặc xây dựng lên[24]. Biểu tình
chính là nội dung của quyền biểu tình thông qua những hoạt động biểu tình trong
thực tiễn. Nếu không có biểu tình thì sẽ không bao giờ có quyền biểu tình vì mọi
cái mà chúng ta ghi nhận được đều xuất phát từ cuộc sống. Chẳng hạn như các
cuộc biểu tình nhằm phản đối việc đối xử không công bằng với người da đen vào
những năm 1955 - 1968 ở Mĩ đã buộc nhà cầm quyền phải ban hành các đạo luật
như The Civil Rights Act of Năm 1964 [25].
Chính nhờ những cuộc biểu tình liên tiếp nổ ra trong một thời gian dài, đã
buộc Nhà nước phải thừa nhận quyền biểu tình bằng những quy phạm pháp luật cụ
thể. Nhưng để hoạt động biểu tình thực sự trở thành một quyền cơ bản của công

dân, là công cụ để bảo vệ tự do dân chủ thì phải trải qua giai đoạn nhận thức và
điều chỉnh pháp luật. Sự hoàn thiện về lý luận về biểu tình góp phần thúc đẩy hoạt
động biểu tình phát triển theo hướng tích cực hơn. Sự phát triển song hành giữa
biểu tình và quyền biểu tình là điều kiện tốt nhất để họat động biểu tình phát huy
vai trò của nó. Cái mà người biểu tình thực sự quan tâm đó là quyền biểu tình được
thực thi như thế nào trên thực tế. Thực tiễn là gốc rễ của mọi vấn đề, định hướng
cho pháp luật bám sát cuộc sống nhưng lý luận cũng có vai trò rất quan trọng. Có
sự ghi nhận quyền biểu tình bằng những quy định cụ thể thì hoạt động biểu tình
mới có thể diễn ra dễ dàng và dân chủ hơn.
5.2. Mối quan hệ giữa quyền biểu tình và quyền tự do ngôn luận
Tự do ngôn luận là sự tự do phát biểu (freedom of expression) mà không bị
kiểm duyệt hoặc hạn chế[26].
Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người,
quyền này đã được thừa nhận như là một quyền con người trong Tuyên ngôn Quốc
tế về Nhân quyền và được thừa nhận tại Điều 19 Công ước quốc tế về các Quyền
Dân sự và Chính trị International Covenant on Civil and Political Rights -
ICCPR).
Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm,
tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng
truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất
cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của mình". [27]
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận"[1][2] [28] có nghĩa là mọi người được tự
do bày tỏ ý kiến quan điểm của mình dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm tìm
kiếm, chia sẻ thông tin, tư tưởng và biểu đạt những tư tưởng đó. Trong số những
hình thức thể hiện quyền này thì hoạt động biểu tình là một phần trong đó. Bởi vì,
tự do ngôn luận là tự do bày tỏ ý kiến quan điểm của mình trước một vấn đề hay sự
kiện nào đó, biểu tình cũng mang tính chất như vậy. Nó cũng là hoạt động bày tỏ
quan điểm ý kiến của mình nhưng ở góc độ lớn hơn, tập hợp được nhiều quan điểm
mang tính tập thể hơn. Như vậy, biểu tình chính là một hình thức của tự do ngôn
luận.

Trở lại với khái niệm biểu tình đã nêu trước đó. “Biểu tình là sự tập hợp tự
nguyện từ mười người trở lên, hành động mang tính phi bạo lực, để bày tỏ thái độ
phản đối hay ủng hộ công khai về một vấn đề nào đó trước Nhà nước, tổ chức
hoặc cá nhân nhằm đòi hỏi quyền lợi cho mình, cho chủ thể khác hoặc cho xã
hội”. Giữa biểu tình và tự do ngôn luận có những điểm tương đồng là đều thể hiện
ý kiến quan điểm của người tham gia trước vấn đề được bày tỏ. Quan điểm này
không bị giới hạn, trừ khi đó là việc giới hạn là để đảm bảo các lợi ích của xã hội,
cộng đồng hay an ninh quốc gia…
Sự khác nhau giữa hai khái niệm này ở chỗ. Tự do ngôn luận gắn với cá
nhân thường mang màu sắc cá thể, phản ánh những gì mà một chủ thể ghi nhận
được và muốn bày tỏ nó. Trong khi đó, biểu tình là một hoạt động mang tính tập
thể, ý kiến quan điểm được bày tỏ là quan điểm của số đông được tập hợp lại trên
cơ sở những quan điểm cá nhân cùng mục đích.
Tự do ngôn luận thường không mang tính chất mong muốn một sự thay
đổi, chỉ đơn thuần là việc bày tỏ quan điểm, ý kiến. Ví dụ: như một người bày tỏ
quan điểm của mình về một bộ phim thì sẽ cho những ý kiến khen chê. Trong khi
đó, biểu tình lại mang tính chất mong muốn sự thay đổi. Đó là việc người tham gia
biểu tình mong muốn quan điểm của mình sẽ được lắng nghe và tiếp thu một cách
tích cực. Ví dụ: một bộ phim gây ra nhiều phản cảm thì mọi người biểu tình, ở đây
không chỉ là bày tỏ thái độ một cách công khai mà còn thể hiện sự phản ứng, yêu
cầu không công chiếu.
Tuy nhiên, các tác giả cho rằng tự do ngôn luận là một trong những tiền đề
để có được quyền biểu tình. Sự tự do về phát biểu, tự do bày tỏ ý kiến quan điểm
thì con người mới có thể tụ họp nhau lại để cùng nêu lên những ý kiến, những quan
điểm chung về cùng một vấn đề. Trên cơ sở đó, họ mới thể hiện một sự đòi hỏi
mạnh mẽ quyết liệt hơn thông qua biểu tình. Bản chất của hoạt động biểu tình là
bày tỏ ý kiến và mong muốn thay đổi. Do đó, sự tự do về bày tỏ về ý kiến quan
điểm là cơ sở để xây dựng nên quyền biểu tình. Với những phân tích trên, ta có thể
kết luận rằng biểu tình là một trong những hình thức thể hiện của quyền tự do ngôn
luận và quyền tự do ngôn luận là tiền đề của quyền biểu tình.

5.3. Quyền biểu tình và quyền tự do hội họp
Như đã định nghĩa ở trên, hoạt động biểu tình phải gắn liền với sự tụ họp
của nhiều người và sự tụ họp này phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Chính
vì vậy, bất cứ ai muốn biểu tình thì trước tiên phải có quyền tự do hội hop.
Quyền tự do hội họp là quyền được liên kết lại của một nhóm người trước một vấn
đề nào đó mà họ quan tâm. Mục đích để tiến hành hội họp là để trao đổi ý kiến với
nhau. Đứng trước một vấn đề, mọi người thường có nhu cầu chia sẻ, bàn luận với
những người có cùng suy nghĩ, quan điểm với mình. Tự do hội họp là một trong
những quyền cơ bản của con người và được ghi nhận rộng rãi trong Tuyên Ngôn
Về Nhân Quyền Quốc Tế, Điều 20 của tuyên ngôn này.
Điều 20:
1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và tham gia hội họp một cách hòa bình.
2. Không ai bị bắt buộc phải tham gia một hiệp hội nào.
Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 cũng ghi nhận
quyền này ở Điều 21.
Quyền hội họp hoà bình phải được công nhận. Việc thực hiện quyền này
không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong
một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để
bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những người
khác.
Từ những ghi nhận mang tính quốc tế về quyền tự do hội họp và sự phân
tích của tác giả cho thấy. Quyền biểu tình và quyền tự do ngôn luận có quan hệ mật
thiết với nhau. Quyền tự do hội họp là tiền đề quan trọng để có được quyền biểu
tình. Nếu không có tự do hội họp sẽ không bao giờ có được quyền biểu tình và hoạt
động biểu tình. Bởi lẽ, khi đã có được sự tự do bày tỏ ý kiến và quan điểm cộng với
việc được phép tự do hội họp với những người có cùng quan điểm, cùng suy nghĩ
về một vấn đề cùng quan tâm thì khi đó biểu tình mới có thể diễn ra theo đúng bản
chất của nó. Tức là việc thực hiện một quyền, một hoạt động chính trị trong khuôn
khổ của pháp luật với mục đích đòi hỏi những quyền lợi.
Việc luật hóa quyền biểu tình có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện

hệ thống pháp luật ở quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh nước ta đang theo đuổi mục
tiêu xây dựng một mô hình Nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa. Quy định về
quyền biểu tình một cách cụ thể là việc đảm bảo cho các quyền tự do dân chủ của
nhân dân được thực thi trong cuộc sống. Vì vậy, quyền tự do ngôn luận, quyền tự
do hội họp, quyền biểu tình của người dân là không thể thiếu.
6. Xu hướng phát triển của biểu tình trên thế giới
6.1. Xu hướng phát triển chung của thế giới
Ngày càng có nhiều quốc gia trên thế giới công nhận quyền biểu tình hơn.
Biểu tình không thể đơn thuần là thừa nhận trên luật nữa mà quan trọng là đưa
quyền này thực sự đi vào cuộc sống. Nhìn vào tiến trình phát triển của biểu tình có
thể thấy quyền biểu tình ngày càng được mở rộng. Mọi vấn đề người dân đều có
thể bày tỏ quan điểm của mình. Phạm vi biểu tình đã không chỉ dừng lại ở một địa
phương hay một quốc gia mà nó đã và đang trở thành một cách sinh hoạt chính trị
của công dân nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là khi họ có chung quan điểm hay ý
kiến về một vấn đề nào đó.
Nhiều quốc gia tiến tới hoàn thiện pháp luật về vấn đề biểu tình, tiếp thu
mọi thông tin phản hồi của xã hội để có thể giải quyết những vấn đề của hiện tại,
dự báo xu hướng phát triển trong tương lai nhằm đưa ra những quyết sách có lợi
nhất. Trước kia, biểu tình được cho là những hoạt động làm mất trật tự trị an,
những hành động chống đối nhưng những điểm tiêu cực đó dần được hạn chế bớt
do quá trình dân chủ hóa, quyền lợi của nhân dân được đề cao hơn. Hầu hết mọi
chính quyền đều nhận thức được để ổn định xã hội thì điều quan trọng nhất cần
phải làm gì và một điều cần nói tới là Nhà nước có khả năng đảm bảo an ninh để
đối phó với một số âm mưu lợi dụng biểu tình để chống phá, chia rẽ dân tộc. Biểu
tình là một hình thức thể hiện sự dân chủ công khai. Nếu được phát huy tốt thì nó
sẽ đem lại những lợi ích cho đất nước. Điều 19 “Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân
quyền” năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bầy tỏ
quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp
nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ
phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới”. Có thể thấy,

những quyền cơ bản của con người ngày càng được thế giới có trách nhiệm hơn
theo hướng mở rộng tối đa trong khả năng và điều kiện kinh tế. Khoản 2 Điều 5
công Ước quốc tế về Quyền Dân Sự Và Chính Trị năm 1966 cũng là một sự khẳng
định đối với việc bảo vệ những quyền cơ bản của con người trong đó có quyền
biểu tình. “Không được hạn chế hoặc huỷ bỏ bất kỳ quyền cơ bản nào của con
người mà đã được công nhận hoặc hiện đang tồn tại ở bất kỳ quốc gia thành viên
nào của Công ước này trên cơ sở luật, điều ước, các quy định pháp luật hoặc tập
quán, với lý do là Công ước này không công nhận những quyền ấy hoặc công nhận
ở một mức độ thấp hơn”. Thế giới ngày càng văn minh. Việc đảm bảo quyền con
người là một tất yếu vì thế đòi hỏi phải mở rộng dân chủ hơn hay ít nhất cũng phải
duy trì những quyền đã được thừa nhận. Hạn chế quyền con người chính là đi
ngược lại lợi ích nhân dân, cản trở sự phát triển. Biểu tình đóng một vai trò rất
quan trọng để nhân dân thế giới đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Vì
thế, chúng ta phải xem biểu tình là một hoạt động chính trị bình thường của cả
cộng đồng.
6.2. Xu hướng quốc tế hóa biểu tình
Trong một quốc gia, hoạt động biểu tình là hiện tượng mang tính thường
xuyên và phổ biến, thể hiện mối tương tác giữa Nhà nước với nhân dân. Nhưng
không chỉ chỉ có thế, trong lịch sử đã từng diễn ra nhiều cuộc biểu tình của nhân
dân các nước đối với những nước khác. Ví dụ: trong chiến tranh giữa Pháp - Việt
Nam, Mỹ - Việt Nam không chỉ nhân tiến bộ Pháp, Mỹ biểu tình phản đối chiến
tranh đối với chính quyền chính quốc mà nhân dân yêu chuộng hòa bình trên khắp
năm châu cũng biểu tình thể hiện sự ủng hộ đối với cách mạng Việt Nam. Gần đây
nhất là cuộc chiến tranh tại Iraq do Mỹ phát động đã vấp phải một làn sóng biểu
tình mạnh mẽ trên thế giới. “Trên khắp các đường phố trung tâm ở các thành phố
lớn của Mỹ và Châu Âu, đoàn người biểu tình giơ cao khẩu hiệu phản đối cuộc
chiến tranh và yêu cầu đưa binh lính trở về. Đây là những cuộc biểu tình có quy
mô và thể hiện sự bất bình của dân chúng đối với cuộc chiến đang ngày càng bế tắc
tại Iraq[29]. Thế nhưng, những hoạt động biểu tình chưa thực sự mạnh mẽ, còn
chậm trễ và cục bộ. Thế giới hiện nay với sự phát triển vượt bậc của công nghệ

thông tin. Mọi tin tức được truyền đi nhanh chóng. Mọi diễn biến trên hành tinh
chúng ta có thể cập nhật liên tục gần như không có biên giới. Xu hướng quốc tế
hóa làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau. Mỗi nền kinh tế là một
mắt xích của thế giới. Vì thế, lợi ích của toàn nhân loại có liên quan mật thiết với
nhau nên bất cứ ở nơi đâu có biến động tiêu cực thì lập tức nhân dân của nhiều
quốc gia liền tổ chức biểu tình. Ví dụ: hội nghị thượng đỉnh ở Copenhagen (Đan
Mạch) bàn về vấn đề cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Khi hội nghi đang
diễn ra thì nhiều nơi trên thế giới đặc biệt là những nước nhỏ chịu ảnh hưởng nặng
nề của biến đổi khí hậu đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình phát đi những thông điệp
rõ ràng yêu cầu những nước lớn phải có trách nhiệm trong việc làm trái đất ấm lên
và phải có hành động ngay lập tức để cứu trái đất. “Nằm trong chuỗi hoạt động
biểu tình ngày 12 - 12 , khoảng 130 thành phố trên thế giới tham gia tổ chức các
cuộc biểu tình tại địa phương”[30]. Ngay trên đất nước Đan Mạch “gần 100.000
người biểu tình ngày 12 - 12 gây áp lực trước địa điểm tổ chức Hội nghị biến đổi
khí hậu Liên hiệp quốc tại Copenhage, thúc đẩy các bên nhanh chóng đạt được
hiệp định biến đổi khí hậu toàn cầu”[31].
Kết luận chương I
Biểu tình có vai trò quan trọng trong một xã hội dân chủ, nó thể hiện quyền
của người dân. Thông qua biểu tình mọi người có thể tự do bày tỏ chính kiến hay
quan điểm trước những đối tượng mà mình hướng tới. Biểu tình nằm trong nhóm
quyền cơ bản của công dân, đã được nhiều nước chính thức thừa nhận, Việt Nam
cũng thể hiện sự ghi nhận quyền này tại các bản Hiến pháp. Tuy nhiên, nước ta
đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nên một số lĩnh
vực còn chưa có những quy định cụ thể, điển hình như lĩnh vực biểu tình. Vì vậy,
hoạt động biểu tình trong thời gian qua diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau,
Nhà nước gặp khó khăn trong quản lý còn người dân thì không biết phải biểu tình
như thế nào là hợp pháp.
Trong Chương I, các tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm về biểu tình
đứng dưới cái nhìn thực tiễn nhưng mục tiêu của đề tài này là kiến nghị xây dựng
luật biểu tình để Nhà nước có thể kiểm soát xã hội tốt hơn mà vẫn đảm bảo quyền

lợi cho nhân dân. Vì vậy, các tác giả đưa ra khái niệm chính thức về biểu tình đứng
trên phương diện pháp lý. Mục 2 là sự phân biệt biểu tình với một số hoạt động
khác tương tự như bạo loạn, bạo động. Qua sự phân biệt đó mọi người sẽ thấy
được những đặc trưng riêng có của biểu tình và sẽ không bị lẫn lộn với các hoạt
động khác. Mục 3 các tác giả nêu lên ý nghĩa của biểu tình và Mục 4 nêu lên mối
quan hệ của quyền biểu tình với biểu tình và một số quyền khác. Qua đó, chúng ta
thấy rõ quyền biểu tình là một trong những quyền cơ bản phải được luật quy định
và đưa vào thực thi. Mục 5 các tác giả đã nêu lên vai trò to lớn của biểu tình đối
với người dân và Nhà nước. Biểu tình không phải hoàn toàn tiêu cực như một số
người nghĩ, đó là một môi trường tương tác giữa mọi người trong xã hội với nhau,
giữa người dân với Nhà nước để tìm ra những cách giải quyết tốt nhất cho các vấn
đề còn vướng mắc. Cuối cùng, các tác giả nêu lên xu hướng phát triển của biểu
tình trên thế giới, Nhà nước ngày càng mở rộng và đảm bảo tốt hơn cho quyền lợi
của người dân. Thế giới thể hiện một xu hướng tiến bộ như vậy, Việt Nam ngày
càng hòa nhập với thế giới sâu rộng hơn. Vì thế, chúng ta cũng nên theo xu hướng
ấy của thế giới nhằm mở rộng dân chủ, khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân
dân.
Chương II:
PHÁP LUẬT VỀ BIỂU TÌNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI. THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
Biểu tình là một trong những hình thức biểu hiện của quyền tự do ngôn luận và
quyền tự do hội họp. Do đó, khi xem xét các quy định về quyền biểu tình trong hệ
thống pháp luật của các quốc gia ta sẽ bắt gặp các quy định gián tiếp về quyền biểu
tình thông qua các quy định về tự do ngôn luận hay tự do hội họp.
Luật pháp của Cannada đã ghi nhận quyền này tại Điểm c Điều 2 Hiến
chương về nhân quyền của Cananda[32].
Điều 1 Tu chính thứ nhất (First Amendment) của Quốc hội Hoa Kỳ cũng
công nhận những quyền này.
“Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo
hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân

chúng được hội họp và yên cầu chính phủ sửa chữa những điều gây tranh
chấp[33]”.
Luật pháp của Anh có những quy định cụ thể về biểu tình tại hai đạo luật,
đó là Công đạo luật 1986 – Public Oder Act (POA 1986)[34] và Đạo luật các tội
phạm nghiêm trọng có tổ chức và cảnh sát 2005-Serious Organised Crime and
Police Act 2005 (SOCPA 2005)[35].
Bên cạnh đó, nhiều quốc gia theo hệ thống luật Civil Law cũng ghi nhận
quyền biểu tình trong các văn bản pháp luật của mình đặc biệt trong Hiến pháp.
Tại Điều 57 Hiến pháp của Ba lan có đề cập tới quyền tụ do hội họp của công
dân[36]. Điều 27 Hiến pháp cộng hòa hồi giáo Iran
Tự do hội họp (Freedom of Assembly)
“Cuộc tụ họp công cộng và cuộc tuần hành có thể được tự do tổ chức, không được
cung cấp vũ khí tiến hành và rằng họ không gây phương hại đến các nguyên tắc cơ
bản của đạo Hồi”[37].
Điều 21 Hiến pháp Nhật Bản[38] thì tự do hội họp, lập hội, ngôn luận, báo
chí với tất cả các hình thức biểu hiện được đảm bảo, Điều 14 Hiến pháp Singapore
cũng quy định về vấn đề này[39].
Cộng đồng Châu Âu còn ghi nhận quyền này trong công ước riêng của
mình trong khuôn khổ các nước thành viên như một lời cam kết về việc thực thi
việc bảo vệ quyền cơ bản của công dân tại Điều 11 Công ước nhân quyền Châu
Âu[40].
Có thể nói dù hình thức thể hiện có khác nhau nhưng quyền biểu tình đều
được các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong các quyền cơ bản của công
dân. Nhận thức sâu sắc điều đó và thấy được sự cần thiết phải hợp tác quốc tế. Các
quốc gia đã cùng ngồi lại với nhau, cùng đưa ra tuyên bố chung cam kết đảm bảo
thực hiện các quyền này bằng bản Tuyên ngôn nhân quyền thế giới và sau đó là
Công ước về các quyền dân sự và chính trị (1966) cũng như các văn bản pháp luật
quốc tế khác.
Hiện nay, tại Việt Nam quyền biểu tình vẫn chỉ mới được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp[41]. Ngoài ra, vẫn chưa có một văn bản chính thức ghi nhận về

vấn đề này.
Liên quan đến tụ tập nơi đông người, Chính phủ đã ban hành nghị định
38/2005/NĐ - CP, trong đó có quy định “Việc tập trung đông người ở nơi công
cộng phải đăng ký trước với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt
động đó và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký[42]”.
Đây chỉ là văn bản điều chỉnh việc tụ họp của công dân một phần của hoạt động
biểu tình chứ không phải điều chỉnh toàn bộ họat động biểu tình.
Tham khảo luật pháp Việt Nam trước đây thì nước ta đã từng có luật liên
quan đến biểu tình đó là Luật số 101/SL – L - 003 ngày 20 – 5 - 1957 của nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa quy định về quyền tự do hội họp của công
dân[43], một trong những nội dung của quyền biểu tình.
Như vậy, chúng ta đã từng có luật “tiếp cận khá gần” với quyền biểu tình. Nhưng
để có thể có những quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp vấn đề này thì không
phải dễ dàng. Đó là một việc làm đòi hỏi sự cẩn trọng cần thiết, đặc biệt biểu tình

×