HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN TUYẾT ÁNH
hoµn thiÖn ph¸p luËt
vÒ gia ®×nh ë viÖt nam hiÖn nay
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LU N VÀ L CH S NHÀ N
Mã số: 62 38 01 01
HÀ NỘI - 2015
C VÀ PHÁP LU T
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Ngư ờ i hư ớ ng dẫ n khoa họ c: GS.TS. Lê Minh Tâm
Phả n biệ n 1:.........................................................
.........................................................
Phả n biệ n 2:.........................................................
.........................................................
Phả n biệ n 3:.........................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20.....
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng
hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, tạo nguồn nhân lực để phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, gia đình cũng là tổ ấm, nơi
bình yên, an toàn, nơi duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống về gia đình,
bảo tồn các phong tục, tập quán tốt đẹp, đấu tranh loại bỏ những tiêu cực, tệ nạn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, giữa gia đình và xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau:
“Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là
gia đình”.
Trong gần ba mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, những thành tựu to lớn đạt
được trong phát triển kinh tế, xã hội đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho mọi gia đình. Pháp luật về gia đình ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý
xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, bình đẳng. Hệ thống cơ quan nhà nước
và tổ chức tham gia công tác gia đình ngày càng kiện toàn và hoạt động có hiệu quả.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm đề ra nhiều chủ trương, chính sách để phát huy vai trò
của gia đình Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều hiện tượng tiêu cực mới nẩy sinh trong quan hệ gia đình có xu
hướng ngày càng phức tạp. Công tác quản lý nhà nước về gia đình chưa thực sự hiệu
quả. Bạo hành trong gia đình còn diễn biến rất phức tạp. Ở nhiều nơi, trong nhiều gia
đình vẫn còn nặng tư tưởng trọng nam, khinh nữ, chưa bảo đảm bình đẳng giới trong
gia đình. Hiện tượng các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, HIV/AID xâm nhập vào
gia đình chưa thuyên giảm... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình nói trên, trong
đó có một số nguyên nhân như: Sự nhận thức về vị trí, vai trò của gia đình và công tác
gia đình, công tác quản lý nhà nước về gia đình còn một số bất cập, chưa huy động sự
tham gia của xã hội và cộng đồng. Pháp luật về gia đình đã được sửa đổi, bổ sung
nhưng chưa theo kịp sự phát triển của gia đình trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế. Các quy định pháp luật về gia đình tồn tại rải rác trong nhiều
văn bản khác nhau. Nhiều quy phạm chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu minh bạch, không phù
hợp điều kiện thực tế khách quan nên tính khả thi còn hạn chế. Nhiều vấn đề phát sinh
trong lĩnh vực gia đình chưa được phản ánh và xử lý kịp thời; chính sách, pháp luật về
gia đình chưa đồng bộ; công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình và trang bị
các kiến thức, kỹ năng ứng xử trong các quan hệ về gia đình chưa được coi trọng…
Việc tổng kết thực hiện pháp luật về gia đình, nghiên cứu chính sách, pháp luật về gia
2
đình chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, vì vậy, cho đến nay chưa có cơ sở khoa
học và thực tiễn đúng đắn phục vụ cho công tác hoạch định chính sách, xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về gia đình.
Do vậy, nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện pháp luật về gia đình, xây dựng
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về gia đình, hướng tới mục tiêu
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững là cần thiết và có
ý nghĩa hết sức quan trọng ở nước ta hiện nay.
Xuất phát lý do trên, Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Hoàn thiệ n pháp luậ t về gia
đình ở Việ t Nam hiệ n nay” làm Luận án tiến sĩ của mình tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mụ c đích nghiên cứ u củ a đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là trên cơ sở phân tích, làm rõ cơ sở lý luận
hoàn thiện pháp luật về gia đình, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt
Nam, từ đó đề ra quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u củ a đề tài
- Phân tích khái niệm pháp luật về gia đình; làm rõ vai trò, nội dung và những
đặc điểm của pháp luật về gia đình Việt Nam; nghiên cứu hình thành các tiêu chí để
xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình; các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam. Ở mức độ nhất định, đề tài nghiên cứu
pháp luật về gia đình ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có thể tham
khảo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về gia đình ở Việt
Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay để khẳng định những bước phát triển, những ưu điểm cần phát
huy, đồng thời tìm ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp
luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
Pháp luật về gia đình có nội dung rất rộng, luận án chỉ tập trung nghiên cứu pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong đó gia đình là một chủ thể, không nghiên cứu
quan hệ hôn nhân.
Có nhiều nhóm quan hệ xã hội mà gia đình là chủ thể, bao gồm: 1/ quan hệ về
bình đẳng giới trong gia đình; 2/ quan hệ về phòng, chống bạo lực gia đình; 3/ quan hệ
về trách nhiệm của gia đình trong ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; 4/
quan hệ dịch vụ gia đình; 5/ quan hệ hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn; 6/
quan hệ phát triển kinh tế gia đình; 7/ quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý nhà
nước đối với gia đình.
Trong các quan hệ xã hội nói trên, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu 4 nhóm pháp
luật điều chỉnh các nhóm quan hệ 1, 2, 3, 7 bởi vì việc hoàn thiện các nhóm quy phạm
pháp luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần hoàn thành mục tiêu
hàng đầu được nêu trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030, đó là: “Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và
cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn
nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ nạn
xã hội xâm nhập vào gia đình”.
Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về gia đình ở Việt
Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước
và pháp luật nói chung, về gia đình và pháp luật về gia đình nói riêng. Bên cạnh đó, đề
tài chú trọng những quan điểm, tri thức khoa học có tính phổ biến ở trong nước và
nước ngoài về gia đình và pháp luật về gia đình để tham khảo và phục vụ cho việc tiếp
cận và giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án.
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tác giả luận án sử dụng những phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng trong chương 2,
3, 4 để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn
thiện pháp luật về gia đình.
- Phương pháp hệ thống được sử dụng trong các chương 2,3,4 để làm rõ nội
dung, vai trò, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình,
4
các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về gia đình ở
Việt Nam.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lô gíc được sử dụng ở
chương 2, 3, 4: Luận án nghiên cứu từng vấn đề trong mối quan hệ chặt chẽ giữa lý
luận với thực tiễn, giữa quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước với
thực tiễn thực hiện pháp luật về gia đình. Ba chương của luận án được nghiên cứu
trong mối quan hệ lô gíc xuyên suốt từ cơ sở lý luận đến thực trạng và quan điểm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về gia đình.
- Phương pháp thống kê và xã hội học pháp luật được sử dụng trong chương 3
khi đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 để làm rõ tình hình nghiên
cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này cũng được sử dụng
ở chương 2 để so sánh các pháp luật về gia đình của một số nước.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện
về hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận
án sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
- Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về pháp
luật về gia đình, luận án đã xây dựng khái niệm khoa học pháp luật về gia đình, chỉ ra
vai trò, đặc điểm của pháp luật về gia đình, với nội dung bao gồm các nhóm quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước về gia đình, phòng
chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới trong gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội xâm
nhập vào gia đình; đồng thời, xây dựng các tiêu chí về nội dung và hình thức để xác
định mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình; phân tích làm rõ các yếu tố ảnh
hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
- Chỉ rõ quá trình phát triển của pháp luật về gia đình ở Việt Nam; phân tích,
đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt Nam, khẳng định những bước phát
triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế đó. Từ đó, luận án đề xuất 4 quan điểm và 6 nhóm giải pháp hoàn thiện
pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung và làm giàu thêm những kiến
thức lý luận về gia đình và pháp luật về gia đình; xây dựng cơ sở khoa học cho việc
phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình; xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về gia đình và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật về gia đình trong thực tiễn.
5
Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học và
văn hóa pháp lý chuyên sâu về gia đình và pháp luật về gia đình. Luận án cũng là tài
liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và trách nhiệm xã hội
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về gia đình; xây dựng
và thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch cụ thể tổ chức thực hiện có hiệu quả
pháp luật về gia đình ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả liên
quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIA ĐÌNH,
PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về gia đình
Các công trình đã phân tích các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến lĩnh vực
gia đình: Gia đình, hôn nhân, hộ, hộ gia đình, các chức năng cơ bản của gia đình; vai
trò của gia đình đối với các thành viên, đối với cộng đồng và xã hội; các văn bản pháp
luật, chính sách về hôn nhân gia đình; chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
của Nhà nước về gia đình.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu pháp luật về gia đình
Báo cáo Đánh giá hệ thống chính sách và pháp luật Việt Nam hiện hành liên
quan đến gia đình - khuyến nghị hướng hoàn thiện do nhóm chuyên gia pháp luật,
Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp, thực hiện tháng 12 năm 2004. Báo
cáo đã phân tích thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành về gia đình và
đưa ra những khuyến nghị nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về gia
đình Việt Nam.
1.1.3. Nhóm công trình liên quan đến quản lý nhà nước về gia đình
Các công trình đã phân tích nội dung quản lý Nhà nước đối với gia đình; Thực
trạng và những thách thức của quản lý Nhà nước về gia đình ở Việt Nam và kiến nghị
nhằm tăng cường quản lý nhà nước về gia đình.
6
1.1.4. Nhóm tài liệu nghiên cứu về phòng, chống bạo lực gia đình
Các công trình đã phân tích thực trạng tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam,
các nguyên nhân, hậu quả của bạo lực gia đình, đánh giá công tác phòng, chống bạo
lực gia đình trong thời gian vừa qua, từ đó đề xuất giải pháp có tính đột phá nhằm giảm
thiểu bạo lực gia đình.
1.1.5. Nhóm tài liệu nghiên cứu về bình đẳng giới trong gia đình
Các công trình đã phân tích làm rõ các khái niệm về “giới”, “bình đẳng giới”,
“pháp luật về bình đẳng giới”, phân tích đặc điểm của thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới ở Việt Nam; các yêu cầu thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện
nay; nghiên cứu pháp luật và thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở một số nước, qua
đó rút ra những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo và tiếp thu; đánh giá thực
trạng pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam, đề xuất và luận chứng các quan điểm và
giải pháp thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC
1.2.1. Nhóm công trình liên quan đến pháp luật gia đình ở nước ngoài
Các công trình đã nghiên cứu về những thay đổi của pháp luật về gia đình trên
thế giới trong thế kỷ XX, việc quản lý nhà nước về gia đình trong các văn bản pháp
luật; phân tích các nội dung của pháp luật gia đình quốc tế trong mối tương quan so
sánh với pháp luật gia đình trong nước.
1.2.2. Nhóm công trình nước ngoài nghiên cứu các nội dung pháp luật về
gia đình của Việt Nam
Một số công trình đã giới thiệu chính sách, pháp luật về bình đẳng giới để phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho sự
phát triển của gia đình, cộng đồng, đất nước và thực hiện bình đẳng giới…
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Để hoàn thành mục tiêu của đề tài, luận án còn phải tiếp tục nghiên cứu
những vấn đề mà các công trình nghiên cứu khoa học nói trên chưa có điều kiện
làm rõ sau đây:
1.3.1. Về mặt lý luận
- Xây dựng khái niệm pháp luật về gia đình; phân tích nội dung và những đặc
điểm của pháp luật về gia đình Việt Nam; làm rõ vai trò của pháp luật về gia đình ở
Việt Nam.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí làm cơ sở để xác định mức độ hoàn thiện của pháp
luật về gia đình ở Việt Nam.
7
- Phân tích làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về gia
đình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu pháp luật về gia đình ở một số nước trên thế giới, rút ra một số giá
trị có thể tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam.
1.3.2. Về thực tiễn
- Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về gia đình ở Việt
Nam từ 1945 đến nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về gia đình ở Việt Nam theo các tiêu
chí đã được xác định ở phần lý luận; chỉ ra những bước phát triển, những ưu điểm cần
phát huy, đồng thời tìm ra những hạn chế, nhược điểm và nguyên nhân dẫn đến những
hạn chế, nhược điểm đó.
- Luận chứng các quan điểm và đề xuất giải pháp cụ thể, toàn diện nhằm hoàn
thiện pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.1.1. Khái niệm gia đình và đặc trưng của gia đình Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệ m gia đình
Gia đình là một phạm trù có tính lịch sử, là một khái niệm phức hợp bao gồm
các yếu tố sinh học, tâm lý, kinh tế, văn hóa, xã hội và nhân văn; gia đình là một thiết
chế đặc biệt, bao gồm một cộng đồng người có quan hệ mật thiết với nhau, có quan hệ
mật thiết với nhau bởi hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng; có sự gắn kết với nhau
trên cơ sở đạo đức và niềm tin; có các quyền, nghĩa vụ tương ứng về nhân thân và tài
sản. Theo đó: Gia đình được hiểu là một thiết chế xã hội đặc thù, bao gồm một cộng
đồng người có quan hệ mật thiết với nhau bởi hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng, có sự gắn kết với nhau để cùng chung sống, quan tâm, chia sẻ và
giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở của đạo đức, niềm tin và thực hiện các quyền, nghĩa vụ về
nhân thân và về tài sản, nhằm thỏa mãn những ước muốn, lợi ích về vật chất và tinh
thần của mỗi cá nhân và của cả gia đình.
2.1.1.2. Đặ c trư ng củ a gia đình Việ t Nam
Gia đình Việt Nam có các đặc trưng cơ bản: Gia đình phải sống chung một mái
nhà; trong một gia đình phải có giới tính (nam, nữ); quan hệ trong gia đình phải là quan
8
hệ ruột thịt, huyết thống nghĩa là có quan hệ tái sản xuất con người; các thành viên
trong gia đình phải gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý; gia đình phải có ngân
sách chung. Do đó gia đình phải là một nhóm xã hội ít nhất có từ 02 người trở lên.
Trong xã hội hiện đại, sự tác động của các yếu tố khách quan như nền kinh tế thị
trường, quá trình giao lưu hợp tác quốc tế, sự thâm nhập của những giá trị mới, cùng
với việc bản thân giá trị truyền thống trong gia đình Việt Nam chưa có những cơ chế
vững chắc để có thể tự bảo lưu, tiếp tục phát triển là những nguyên nhân dẫn đến sự
biến đổi của gia đình truyền thống. Sự bảo lưu phải vừa tích cực, giữ lại được những
tinh hoa của giá trị gia đình truyền thống, vừa phải biết bổ sung thêm những giá trị tích
cực của thời đại mới.
Tóm lại, đặc trưng của gia đình Việt Nam có quy luật phát triển mang tính chất
và đặc thù riêng với tư cách là một thể thống nhất, một tế bào hoàn chỉnh và là một đơn
vị cơ sở của một xã hội cụ thể.
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về gia đình ở Việt Nam
2.1.2.1. Khái niệ m pháp luậ t về gia đình
Pháp luật về gia đình là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật chứa
đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo hình thức, trình tự, thủ tục nhất định và các tập quán tốt đẹp được nhà
nước thừa nhận, thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, không trái với những
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình và các điều cấm của Hiến pháp và
pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về gia đình, hướng tới xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
2.1.2.2. Đặ c điể m củ a pháp luậ t về gia đình
Pháp luật về gia đình có những đặc điểm của pháp luật nói chung, đồng thời có
những điểm đặc thù.
Thứ nhất, về tính chất: Pháp luật về gia đình cùng loại với pháp luật dân sự,
nhưng không đồng nhất với pháp luật dân sự. Sự khác biệt đó thể hiện rõ nét ở đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, về nguồn pháp luật: Pháp luật về gia đình có hệ thống nguồn pháp luật
rất phong phú, chủ yếu trong Hiến pahps và các văn bản quy phạm pháp luật về gia
đình, các tập quán tốt đẹp của các dân tộc.
Thứ ba, về phạm vi điều chỉnh: Pháp luật về gia đình có hệ thống các nguyên
tắc, quy phạm đặc trưng bao gồm: những quy định về chế độ hôn nhân và gia đình; về
những chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; về quyền và
9
trách nhiệm của gia đình, của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây
dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ ở Việt Nam.
Thứ tư, về mục đích: Pháp luật về gia đình quy định, xây dựng và bảo vệ một
trật tự pháp luật về gia đình hợp lý, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của cá nhân, gia
đình và xã hội; phản ánh, bảo vệ và bảo đảm các giá trị xã hội lớn như an toàn, bình
đẳng, tiến bộ, nhân ái, phát huy các giá trị đạo đức, các phong tục tập quá tốt đẹp của
các địa phương, dân tộc để điều chỉnh và hướng tới xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
Thứ năm, về mối quan hệ của pháp luật về gia đình với pháp luật quốc tế: Ở
những mức độ khác nhau, pháp luật về gia đình còn phản ánh mối quan hệ giữa pháp
luật quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực gia đình, phù hợp với xu hướng phát triển
chung pháp luật quốc tế về gia đình, hướng tới những mục tiêu chung về gia đình của
nhân loại trên thế giới.
2.1.3. Nội dung của pháp luật về gia đình
Pháp luật về gia đình là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nói chung, nhưng
đồng thời với vị trí, vai trò là một lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, có những đặc điểm
riêng, có đối tượng và phương pháp điều chỉnh đặc thù, đến lượt mình, pháp luật về gia
đình cũng là một hệ thống có hình thức biểu hiện khá phong phú với những bộ phận
hợp thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bao gồm:
Thứ nhất: Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về gia đình.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về gia đình là những nguyên lý, tư tưởng
chỉ đạo quán xuyến và xuyên suốt trong tổng thể hệ thống quy phạm pháp luật về
gia đình.
Thứ hai: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ về gia đình.
Xét ở góc độ chung, hệ thống các quy phạm pháp luật về gia đình bao gồm các
nhóm lớn để điều chỉnh các nhóm quan hệ tương ứng là: các quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và các con và giữa những người thân
thích, ruột thịt khác trong gia đình; và nhóm quan hệ xã hội mà gia đình là chủ thể.
Xét ở mức độ cụ thể, hệ thống các quy phạm pháp luật về gia đình bao gồm các
nhóm quy phạm sau:
- Các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản có giá trị pháp lý
cao nhất, những quy định của Hiến pháp là cơ sở để hình thành và phát triển hệ thống
pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về gia đình nói riêng. Các Hiến pháp của
nước ta đều có các quy định chung về những nguyên tắc, những giá trị mà Hiến pháp
và pháp luật bảo vệ và bảo đảm thực hiện, về các quyền cơ bản của con người, quyền
10
công dân và những quy định trực tiếp về gia đình là cơ sở cho việc xây dựng và phát
triển gia đình. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 có rất nhiều quy định cụ thể về các
nguyên tắc và về những quyền cơ bản của của con người, công dân làm cơ sở cho việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về gia đình.
- Các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Đây là hệ thống các quy phạm
pháp luật chuyên ngành thể hiện một cách toàn diện và có hệ thống để điều chỉnh các
nhóm quan hệ cụ thể trong lĩnh vực gia đình.
- Các quy phạm được ghi trong các văn bản pháp luật khác có chứa các quy
định có liên quan để điều chỉnh quan hệ về gia đình. Ví dụ, các quy định có liên quan
được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật giáo dục, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân,
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật bình đẳng giới, Luật phòng, chống
bạo lực gia đình...
- Các quy định được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để
hướng dẫn thi hành các văn bản luật liên quan đến gia đình hoặc cụ thể hóa và bổ sung
những quy định cụ thể, cần thiết để kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh
trong lĩnh vực gia đình.
- Bên cạnh hệ thống các quy phạm pháp luật có tính truyền thống của pháp luật
về gia đình được phân tích ở trên, trong những thập kỷ gần đây, để phù hợp với trình
độ phát triển chung của pháp luật về gia đình của nhiều nước trên thế giới và phù hợp
với các công ước quốc tế về bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực gia đình và tăng
cường trách nhiệm của nhà nước, các quốc gia có xu hướng tăng cường các giải pháp
hài hòa hóa, bổ sung và hoàn thiện các nhóm quy phạm về bình đẳng giới; về phòng
chống bạo lực gia đình; về trách nhiệm của nhà nước trong việc quản lý và ngăn chặn
các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; cung cấp các dịch vụ gia đình và hỗ trợ các
gia đình khó khăn phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội…
Như vậy, xét về nội dung, pháp luật về gia đình điều chỉnh các nhóm quan hệ xã
hội như sau:
Nhóm 1: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về bình đẳng giới trong
gia đình.
Nhóm 2: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về phòng, chống bạo lực
gia đình.
Nhóm 3: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về trách nhiệm của gia
đình trong ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình
Nhóm 4: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về dịch vụ gia đình.
11
Nhóm 5: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hỗ trợ các gia đình có
hoàn cảnh khó khăn.
Nhóm 6: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát triển kinh tế gia đình.
Nhóm 7: Các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình
quản lý nhà nước về gia đình.
Như trong phần phạm vi nghiên cứu đã nêu, Luận án tập trung nghiên cứu 4
nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ 1,2,3,7 bởi vì việc hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh 4 nhóm quan hệ này trực tiếp góp phần hoàn thành mục tiêu quan
trọng hàng đầu được nêu trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020,
tầm nhìn 2030, đó là: “Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình
và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về
hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, ngăn chặn các tệ
nạn xã hội xâm nhập vào gia đình”.
2.1.4. Vai trò của pháp luật về gia đình
Một là: Pháp luật về gia đình là phương tiện để thể chế hoá quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam.
Hai là: Pháp luật về gia đình là phương tiện bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản
lý nhà nước về gia đình.
Ba là: Pháp luật về gia đình là phương tiện góp phần xây dựng gia đình no ấm,
hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, làm nền tảng cho cộng đồng xã hội văn minh.
Bốn là: Pháp luật về gia đình có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền
con người, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của các thành viên gia đình; đảm
bảo sự phát triển lành mạnh của trẻ em; đồng thời đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
2.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.2.1. Khái niệm về tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về
gia đình
Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về gia đình là những chuẩn
mực, thước đo hay là những tính chất, những dấu hiệu làm căn cứ để tiến hành hoàn
thiện pháp luật về gia đình.
2.2.2. Các tiêu chí ánh giá m c
hoàn thi n c a pháp lu t v gia ình
2.2.2.1. Tiêu chí về tính toàn diệ n củ a pháp luậ t về gia đình
2.2.2.2. Tiêu chí về tính thố ng nhấ t, đồ ng bộ củ a pháp luậ t về gia đình
2.2.2.3. Tiêu chí về tính phù hợ p củ a pháp luậ t về gia đình
12
2.2.2.4. Tiêu chí về tính khả thi củ a pháp luậ t về gia đình
2.2.2.5. Về trình độ , kỹ thuậ t xây dự ng và hoàn thiệ n pháp luậ t về gia đình
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
2.3.1. Yếu tố về chính trị
Yếu tố về chính trị có ảnh hưởng mang tính định hướng, chỉ đạo quan trọng đối
với việc hoàn thiện pháp luật về gia đình. Ở Việt Nam, yếu tố về chính trị thể hiện chủ
yếu trong chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những quan điểm đó
là định hướng quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về gia đình. Các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xây dựng pháp luật về gia đình cần quán triệt đầy đủ, toàn diện,
đúng đắn và kịp thời các chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về gia
đình để pháp luật về gia đình đạt được mục đích điều chỉnh hướng tới xây dựng và
phát triển gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ.
2.3.2. Trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
về gia đình
Kết quả việc hoàn thiện pháp luật về gia đình phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực xây dựng pháp luật. Trước hết, các cơ quan xây dựng pháp luật về gia đình
phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng về gia đình. Trên cơ sở đó, xác định rõ
ràng mục tiêu của văn bản, phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy
phạm pháp luật mà mình có trách nhiệm xây dựng. Đặc biệt, năng lực phân tích chính
sách, xây dựng báo cáo tác động của văn bản pháp luật về gia đình tới đời sống có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật.
Việc xây dựng các phương án điều chỉnh, phân tích, so sánh các phương án, cung cấp
số liệu, dữ liệu cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân đóng góp ý kiến cho dự thảo văn
bản pháp luật cũng lý văn bản là khâu cần thiết để bảo đảm tính phù hợp và khả thi của
văn bản pháp luật về gia đình. Tiếp đó, trình độ, kỹ năng tiếp thu, chỉnh lý văn bản, kỹ
thuật trình bày các quy phạm pháp luật sao cho hợp lý, khoa học, lô gic là yếu tố chi
phối chất lượng pháp luật về gia đình.
2.3.3. Yếu tố về ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, là cơ sở
bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật.
Văn hóa pháp lý (còn gọi là văn hóa pháp luật) được hiểu “là sự hiểu biết và
chuyển hóa các quy phạm pháp luật vào hành vi ứng xử của con người”.
13
Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của các chủ thể có tác động ảnh hưởng tích
cực hoặc tiêu cực đến hoàn thiện pháp luật về gia đình.
2.3.4. Vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan, tổ chức xã
hội tham gia cong tác gia đình
Pháp luật về gia đình hiện hành quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước và một số cơ quan, tổ chức khác trực tiếp liên quan đến gia đình. Đó là các cơ
quan: Bộ LĐTB&XH, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Hội LHPN Việt Nam,
UBVCVĐXH của Quốc hội, UBQGVSTBCPN Việt Nam...
2.4. PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ CÓ THỂ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
Qua nghiên cứu pháp luật về gia đình của một số nước, luận án rút ra một số bài
học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam hiện nay: Đề cao vị thế của gia đình trong
xã hội và khẳng định nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về gia đình; tuân thủ đầy đủ các
chuẩn mực của pháp luật quốc tế về gia đình; pháp luật về gia đình phải quy định rõ
ràng phạm vi, đối tượng điều chỉnh, làm cơ sở cho các chủ thể có liên quan thực hiện
pháp luật; quy định rõ ràng các nguyên tắc bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ; bảo
đảm “lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật”; quy
định rõ biện pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và phòng chống BLGĐ; quy định việc
thành lập hệ thống cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về gia đình; tổ chức giám
sát công tác gia đình.
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH
3.1.1. Giai đoạn trước đổi mới (năm 1986)
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, pháp luật về gia đình
được xác lập, tiếp thu được những tư tưởng pháp lý tiến bộ của thời đại, trong đó đã
khẳng định nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ. Hiến pháp năm 1980 quy định
quyền bình đẳng nam, nữ trong gia đình và xã hội rõ ràng, đầy đủ hơn; quy định rõ
ràng, cụ thể hơn trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo đảm bình đẳng
giới. Đây là những điểm mới, tiến bộ, phát triển về nhận thức, là căn cứ rất quan
trọng bảo đảm cho quyền bình đẳng nam, nữ ở Việt Nam được thực hiện một cách
thực chất hơn.
14
3.1.2. Giai đoạn sau đổi mới
Pháp luật về gia đình ở Việt Nam giai đoạn sau đổi mới đã có những quy định
tương đối rõ về vị trí và vai trò của gia đình, quản lý nhà nước về gia đình, bình đẳng
giới, phòng chống bạo lực gia đình. Những quy định đó được thể hiện trong Hiến
pháp, luật và các văn bản dưới luật.
Tuy nhiên, pháp luật về gia đình giai đoạn này còn nhiều bất cập: Nhiều quy
định của pháp luật về gia đình chưa phù hợp điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. Một
số quy định thể hiện sự nóng vội, tính duy ý chí, tính bao cấp của Nhà nước trong
nhiều lĩnh vực. Pháp luật về gia đình chưa phát huy được tiềm năng, sự đóng góp và
trách nhiệm của gia đình trong xây dựng và thực hiện pháp luật về gia đình; Nhiều quy
định không khả thi, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Điều kiện bảo
đảm cho việc thực hiện pháp luật về gia đình, đặc biệt là pháp luật về bình đẳng nam,
nữ trong giai đoạn này là rất khó khăn nên kết quả thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới còn hạn chế.
Mặt khác, trình độ năng lực quản lý nhà nước, điều hành kinh tế, xã hội của
nhiều cán bộ các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị còn hạn chế, lúng túng, nặng theo
Nghị quyết, mang tính phong trào, chưa tuân theo pháp luật; những vi phạm pháp luật
về gia đình trên các lĩnh vực chưa được thống kê, xem xét, xử lý đúng pháp luật. Đặc
biệt, về mặt nhận thức, định kiến giới, “trọng nam khinh nữ” vẫn tồn tại trong suy nghĩ
và thói quen của nhiều cán bộ, nhân dân, kể cả đối với không ít phụ nữ. Nhìn chung
pháp luật về gia đình giai đoạn này vẫn còn thiếu tính hệ thống, thiếu đầy đủ và toàn
diện. Chẳng hạn như thiếu các quy phạm pháp luật quy định cụ thể, chi tiết về các chức
năng của gia đình và chế độ pháp lý của việc thực hiện các chức năng của gia đình.
Những quy phạm pháp luật về vị trí và vai trò của gia đình thường được quy định đơn
lẻ, rải rác trong các văn bản điều chỉnh những quan hệ xã hội khác nhau mà chưa được
quy định độc lập, tập trung trong văn bản riêng.
3.2. TH C TR NG PHÁP LU T V GIA ÌNH
VI T NAM HI N NAY
3.2.1. Thành tựu của pháp luật về gia đình ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Về nộ i dung quả n lý nhà nư ớ c về gia đình
Thứ nhất: Pháp luật quản lý nhà nước về gia đình đã thể chế hóa quan điểm xây
dựng gia đình tiến bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với các công ước, điều
ước quốc tế về gia đình mà Việt Nam là thành viên
Thứ hai: Pháp luật quản lý nhà nước về gia đình đã bước đầu xây dựng đồng bộ,
thống nhất và phù hợp với thực tiễn nước ta.
15
3.2.1.2. Về nộ i dung pháp luậ t phòng chố ng bạ o lự c gia đình
Thứ nhất: Đã xây dựng được một hệ thống nguyên tắc phòng, chống bạo lực
gia đình.
Thứ hai: Đã hình thành các biện pháp pháp lý phòng ngừa bạo lực gia đình phù
hợp với đặc điểm gia đình Việt Nam.
Thứ ba: Pháp luật về PCBLGĐ đã quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng về quyền và
nghĩa vụ của các nạn nhân BLGĐ và người có hành vi BLGĐ.
Thứ tư: Đã hình thành hệ thống các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực
gia đình khá đồng bộ, hợp lý, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của việc bảo vệ, hỗ trợ
nạn nhân bạo lực gia đình.
Thứ năm: Đã có các quy định cụ thể về trách nhiệm của gia đình trong phòng,
chống bạo lực gia đình.
Thứ sáu: Đã hình thành các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống
bạo lực gia đình hợp lý, có tác dụng ngăn chặn một cách hiệu quả.
3.2.1.3. Về nộ i dung pháp luậ t về bình đẳ ng giớ i
Thứ nhất: Pháp luật về bình đẳng giới đã thể chế được mục tiêu bình đẳng
giới nói chung và bình đẳng giới trong gia đình nói riêng theo xu hướng tiến bộ của
nhân loại.
Thứ hai: Pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình đã thể hiện chính sách đúng
đắn, toàn diện của Nhà nước về bình đẳng giới:
Thứ ba: Pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình quy định rõ ràng, đầy đủ các
nội dung bình đẳng giới trong lĩnh vực gia đình, phù hợp Hiến pháp, tương thích với
các công ước, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ tư: Pháp luật hiện hành đã quy định rõ ràng, cụ thể về các hành vi vi phạm
pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình.
3.2.1.4. Pháp luậ t về vai trò và trách nhiệ m củ a gia đình trong phòng chố ng tệ
nạ n xã hộ i xâm nhậ p vào gia đình
Thứ nhất: Pháp luật về gia đình đã đề cao vai trò của gia đình trong phòng,
chống tệ nạn ma tuý
Thứ hai: Về vai trò và trách nhiệm của gia đình trong đấu tranh phòng chống tệ
nạn mại dâm
Thứ ba: Pháp luật về gia đình đề cao vai trò và trách nhiệm của gia đình trong
đấu tranh phòng chống HIV/AID
16
3.2.2. Hạn chế của pháp luật về gia đình.
Th nh t: M t s quy nh pháp lu t v gia ình còn thi u rõ ràng, minh b ch.
Pháp luật về gia đình còn tồn tại một số quy định chưa rõ ràng về các hành vi
bạo lực gia đình và đối tượng của bạo lực gia đình.
Chưa có sự tổng hợp những hành vi bị coi là “bạo lực gia đình” được quy định
tại những văn bản pháp luật khác nhau để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật về
PCBLGĐ.
Thứ hai: Pháp luật về gia đình còn tồ tại một số quy định thiếu hợp lý.
Ví dụ: Quy định về nguồn ngân sách Nhà nước cho công tác quản lý nhà nước
về gia đình chưa hợp lý và chưa được quan tâm đúng mức; quy định về hình thức phạt
tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình
hiện nay là chưa hợp lý.
Quy định của pháp luật chưa đề cập đến trách nhiệm của gia đình trong việc
giáo dục phòng ngừa chung
Thứ ba: Pháp luật về gia đình còn có các quy định chưa khả thi.
Pháp luật về gia đình còn một số quy định thiếu tính khả thi, chẳng hạn:
về biện pháp cấm tiếp xúc giữa người có hành vi BLGĐ và nạn nhân; về những
điều kiện áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc; quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình còn rất mờ nhạt, chưa có quy
định chặt chẽ để ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan này; trình tự xử lý hành vi
BLGĐ còn rườm rà, phức tạp, dẫn đến việc bảo vệ nạn nhân BLGĐ không kịp thời.
Thứ tư: Pháp luật về gia đình trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình và
bình đẳng giới trong gia đình chưa thật đầy đủ.
Một số hành vi bạo lực gia đình, một số hành vi bóc lột sức lao động của trẻ em,
đối xử tàn nhẫn với trẻ em… vẫn chưa có các quy định mang tính cưỡng chế mạnh mẽ
để răn đe.
Thứ năm: Pháp luật về gia đình còn chứa đựng các quy định thiếu cụ thể, rõ
ràng, minh bạch.
Pháp luật về gia đình còn tồn tại một số quy định chưa bảo đảm tính cụ thể, chi
tiết, rõ ràng, gây khó khăn cho công tác tổ chức thực hiện; chưa có văn bản quy định rõ
ràng về biểu mẫu báo cáo, thống kê về PCBLGĐ cho nên việc thực hiện chế độ báo
cáo, thống kê về PCBLGĐ của các địa phương, các cơ quan thiếu thống nhất.
17
Th sáu: Pháp lu t v gia ình còn t n m n, k thu t l p pháp còn h n ch , ti n
ban hành các v n b n quy ph m pháp lu t quy nh chi ti t thi hành còn ch m.
Hệ thống pháp luật về PCBLGĐ và bình đẳng giới trong gia đình tản mạn trong
nhiều văn bản pháp luật nên thiếu tập trung, thống nhất; còn nhiều quy định dưới dạng
Công văn, Hướng dẫn, Quy chế… nên giá trị pháp lý thấp. Một số quy định trong các
văn bản luật chỉ dừng ở mức độ nguyên tắc chung, mang tính luật khung, thiếu các quy
định cụ thể và tính quy phạm chưa cao.
3.2.3. Đánh giá kết quả và hạn chế trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về
gia đình
3.2.3.1. Nhữ ng kế t quả đạ t đư ợ c
- Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình được quan
tâm với nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
- Việc tổ chức, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình được tăng cường.
- Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về gia đình được
chú trọng.
3.2.3.2. Mộ t số hạ n chế trong thự c hiệ n pháp luậ t về gia đình
Thứ nhất: Công tác tổng kết báo cáo đánh giá của Chính phủ, Bộ, ngành cũng
như chính quyền địa phương về công tác quản lý nhà nước về gia đình, về công tác gia
đình chưa được coi trọng đúng mức.
Thứ hai: Việc thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới còn nhiều
bất cập.
Thứ ba: Thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình chưa có sự
chuyển biến mạnh mẽ.
Những hạn chế trên là do các nguyên nhân sau đây:
Một là: Một số đơn vị, địa phương chưa quan tâm thúc đẩy công tác gia đình,
chưa thực sự gắn công tác này với hoạt động quản lý của các cấp, ngành.
Hai là: Các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp không thường xuyên kiểm tra,
phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời đối với những vi phạm pháp luật về gia đình. Đặc
biệt, chế tài đối với hành vi bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới và vi phạm pháp luật
PCBLGĐ và bình đẳng giới về gia đình khác chưa mạnh, chưa đủ mức nghiêm minh
để ngăn ngừa và chống hành vi bạo lực gia đình, bất bình đẳng giới.
Ba là: Việc xây dựng đội ngũ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác gia đình
chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức.
18
Bốn là: Hội LHPN các cấp, nhất là ở cơ sở hoạt động chưa hiệu quả, chưa phát
huy vai trò là tổ chức tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ.
Năm là: Công tác thống kê về BLGĐ còn nhiều hạn chế do các địa phương chưa
xác định rõ ràng hành vi nào là hành vi BLGĐ.
Sáu là: Công tác tuyên truyền, PBGDPL về gia đình, giám sát thực hiện pháp
luật về gia đình còn gặp nhiều khó khăn.
3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế của pháp luật về gia đình
3.2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Do chịu ảnh hưởng bởi truyền thống, phong tục tập quán xã hội nên trong quá
trình xây dựng pháp luật về gia đình, các cơ quan có thẩm quyền chưa quan tâm đầy đủ
và kịp thời việc phân tích chính sách, đánh giá tác động của các văn bản quy phạm
pháp luật về gia đình tới đời sống xã hội, tới đối tượng tác động của văn bản. Đồng
thời, do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên Nhà nước và các cấp chính quyền
địa phương chưa có điều kiện đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất thỏa đáng cho công tác
gia đình.
3.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là: Việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về gia đình thuộc thẩm quyền của
nhiều Bộ, ngành khác nhau. Việc nhận thức về vai trò, chức năng của gia đình, vai trò
của pháp luật về gia đình trong quá trình xây dựng pháp luật về gia đình chưa thống
nhất, có nhiều cách tiếp cận khác nhau; quan điểm hoàn thiện pháp luật về gia đình
chưa đầy đủ, chưa mang tính hệ thống, toàn diện; những sửa đổi, bổ sung chưa mang
tính tổng thể, làm cho pháp luật về gia đình thiếu tính ổn định.
Hai là: Công tác quản lý nhà nước về gia đình còn nhiều biến động. Việc triển
khai công tác gia đình và triển khai thi hành pháp luật về gia đình còn chưa được tiến
hành bài bản, có hệ thống.
Ba là: Hoạt động nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về
gia đình chưa được quan tâm đúng mức. Việc tham khảo, lấy ý kiến của các tầng lớp
nhân dân đối với pháp luật về gia đình chưa được tiến hành thường xuyên, chưa hiệu
quả; một số cơ quan chủ trì soạn thảo chưa chủ động nghiên cứu xây dựng chính sách;
thiếu nguồn thông tin và cơ sở dữ liệu xây dựng pháp luật. Đặc biệt, kiến thức và kỹ
năng về lồng ghép giới của đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng và hoạch định chính
sách, pháp luật về gia đình còn hạn chế.
19
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.1.1. Quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng trong việc hoàn thiện
pháp luật về gia đình
Pháp luật về gia đình ở Việt Nam là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về gia đình. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về gia đình phải
quán triệt đầy đủ, kịp thời quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình. Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, quan điểm rất sâu sắc và toàn diện về gia
đình. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về gia đình, các cơ quan có thẩm quyền xây
dựng pháp luật cần quán triệt một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời những quan điểm
nêu trên nhằm sớm hoàn thành mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh
phúc, tiến bộ.
4.1.2. Tăng cường tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về gia đình trong
hệ thống pháp luật, đồng thời nâng cao kỹ năng lập pháp, lập qui trong việc hoàn
thiện pháp luật về gia đình.
Tính thống nhất là đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các quy
phạm pháp luật về gia đình không mâu thuẫn, chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm
sự liên kết chặt chẽ, sự phối hợp tác động điều chỉnh của các văn bản theo một chiều
hướng nhất định và sự thống nhất giữa nội dung văn bản với đối tượng điều chỉnh, tức
là các quan hệ kinh tế, xã hội hiện thực, nhằm bảo đảm giá trị thực tế của hệ thống
pháp luật về gia đình.
Tính đồng bộ là phải đảm bảo việc ban hành các văn bản pháp luật về gia đình
không chồng chéo nhau; không mâu thuẫn các văn bản của cấp trên; văn bản dưới luật
phải phù hợp với Hiến pháp và luật.
Kỹ năng lập pháp, lập qui có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng pháp
luật và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về gia đình nói riêng. Khi hoàn thiện
pháp luật về gia đình có ba điểm quan trọng, cần chú ý:
Một là: Kỹ năng thể hiện tính tối ưu trong áp dụng pháp luật.
Hai là: Kỹ năng thể hiện chính xác các yếu tố cấu thành các quy phạm pháp luật.
Ba là: Kỹ năng biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý chính xác, cô đọng, logic, và
một nghĩa.
20
4.1.3. Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn việc tổ chức thi hành pháp luật
và công tác rà soát, hệ thống hóa pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về gia đình
Việc hoàn thiện pháp luật về gia đình trước hết phải bắt đầu từ việc rà soát lại
toàn bộ các văn bản liên quan đến gia đình, từ văn bản luật đến các văn bản dưới luật
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật có liên quan. Đồng thời, việc hoàn
thiện pháp luật về gia đình đòi hỏi phải chú trọng mối quan hệ giữa nội dung các quy
định của pháp luật với cơ chế pháp lý, quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo nội dung đó
dược thực hiện trong thực tế. Cùng với nội dung của pháp luật, cơ chế pháp lý cũng
phải bảo đảm chuyển tải những nội dung trên bởi các quy trình, thủ tục đơn giản,
thuận tiện.
4.1.4. Bảo đảm nguyên tắc pháp luật quốc gia phải phù hợp với điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Công ước CEDAW, Công ước về quyền con
người, Công ước quyền trẻ em…) trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
gia đình
Trong xu thế toàn cầu hóa, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về gia đình
phải đảm bảo cho pháp luật trong nước tương đồng với pháp luật quốc tế. Quá trình đó
đòi hỏi phải dựa trên những nội dung và nguyên tắc của pháp luật quốc tế, để từ đó có
sự so sánh, lựa chọn những qui phạm nào phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
chính trị, văn hóa; những quy phạm pháp luật nào khắc phục được sự khác biệt về
truyền thống, phong tục tập quán, khác biệt về chế độ chính trị giữa các nước. Việc
hoàn thiện pháp luật về gia đình trong bối cảnh hội nhập quốc tế phải bảo đảm hài hòa
lợi ích, chủ quyền quốc gia và nghĩa vụ quốc tế đốivới các công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia ký kết và phê chuẩn.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.2.1. Tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về gia đình
Định kỳ tổng kết thực trạng, kết quả thực hiện các văn bản hiện hành của Đảng,
Nhà nước liên quan đến gia đình và công tác gia đình để trên cơ sở đó tiếp tục hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật về gia đình và công tác gia đình, tạo cơ sở cho
việc bảo đảm, tác động, hỗ trợ, thúc đẩy việc xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc.
Việc tổng kết phải đảm bảo đánh giá một cách khách quan, toàn diện đầy đủ,
chính xác quá trình thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam trên cơ sở bám
sát mục tiêu, yêu cầu, nội dung của Chiến lược; bảo đảm sự chỉ đạo chặt chẽ của các
21
cấp ủy đảng, sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan; việc
đánh giá kết quả thực hiện cần căn cứ vào quan điểm chỉ đạo được xác định trong
Chiến lược; làm rõ kết quả đạt được, chưa đạt được so với mục tiêu mà Chiến lược đã
đề ra và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của từng cơ quan đơn vị; phân
tích nguyên nhân của thành công, hạn chế rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải
pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển
gia đình Việt Nam, góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về gia đình trong những
năm tiếp theo.
4.2.2. Xây d ng lu n c khoa h c v gia ình, h th ng c s d li u v
gia ình
Xây dựng cơ sở lý luận, khoa học của việc hoàn thiện pháp luật về gia đình; Rà
soát, đánh giá thực trạng các chỉ số, chỉ báo về gia đình. Nâng cao chất lượng thu thập,
xử lý thông tin số liệu về gia đình trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin và hoàn thiện
hệ thống các chỉ số, chỉ báo; xây dựng bộ chỉ số về gia đình; bộ chỉ số giám sát, đánh
giá tình hình thực hiện Luật hôn nhân và gia đình, Luật phòng, chống bạo lực gia đình,
Luật bình đẳng giới.
4.2.3. Xây d ng, ki n toàn
i ng chuyên gia, cán b làm công tác gia ình
Một là: Củng cố, phát triển đội ngũ cán bộ thực hiện công tác gia đình từ Trung
ương đến cơ sở.
Hai là: Đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác
gia đình các cấp và mạng lưới cộng tác viên cơ sở:
Ba là: Phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc
kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình.
4.2.4. Tiếp tục hoàn thiện nội dung pháp luật về gia đình
Một là: Nghiên cứu xây dựng Bộ luật về gia đình.
Nghiên cứu xúc tiến xây dựng Luật về gia đình, từng bước hình thành một hệ
thống văn bản pháp luật về gia đình đầy đủ, đồng bộ, thống nhất
Hai là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về PCBLGĐ
- Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về khái niệm, phân loại bạo lực
gia đình và đối tượng của hành vi bạo lực gia đình.
-Cần xác định rõ các đối tượng của hành vi bạo lực gia đình, từ đó có thể bảo vệ
các nạn nhân bạo lực gia đình một cách triệt để.
- Hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi bạo lực gia đình.
Sửa đổi một số quy định về hình thức phạt tiền, bổ sung hình thức phạt lao động
công ích để xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình.
22
Ba là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình.
- Sửa đổi quy định về giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.
- Sửa đổi, bổ sung quy định trong Nghị định 70/2009/NĐ - CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới.
- Sửa đổi, bổ sung quy định trong Nghị định 48/2009/NĐ - CP quy định về các
biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Bốn là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với gia đình,
ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan
tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình (2014), Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007; Nghị định số
08/2009/NĐ-CP ngày 04/02/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo
lực gia đình; Nghị định số 02/2013/NĐ-CP ngày 03/01/2013 quy định về công tác gia
đình... Vụ Gia đình, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Trung ương Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, các cơ quan, đơn vị liên quan thuộc Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tiến hành xây dựng và ban hành Thông tư của Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch hướng dẫn xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình hạnh phúc, phát
triển bền vững.
Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch cần chủ động trong chủ trì, phối hợp với các
Bộ, ngành liên quan xây dựng văn bản quy định hệ thống tiêu chí gia đình hạnh phúc.
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc có liên quan mật thiết với trách nhiệm của gia đình
trong ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình. Vì vậy, việc sớm ban hành
những văn bản nêu trên sẽ tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về gia
đình, ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
4.2.5. Tăng cường tính công khai, minh bạch trong quy trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật về gia đình
Một là: Bảo đảm sự phù hợp hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về gia đình
Hai là: Tăng cường tính minh bạch, công khai và sự tham gia đóng góp ý kiến
của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy
phạm pháp luật về gia đình
23
Ba là: Rà soát, đối chiếu, sửa đổi các quy phạm pháp luật bảo đảm tính thống
nhất, phù hợp với các Công ước quốc tế có liên quan đến vấn đề gia đình mà Việt Nam
là thành viên
4.2.6. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về gia đình
Một là: Đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về gia đình.
Thứ nhất: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình thông qua
nhiều hình thức phong phú, đa dạng.
Thứ hai: Về nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình.
Thứ ba: Gắn biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về gia đình
với việc tạo dư luận cộng đồng lên án mạnh mẽ các hành vi vi phạm pháp luật về
gia đình.
Thứ tư: Phát huy vai trò, trách nhiệm của UBND các cấp trong công tác gia đình.
Hai là: Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính
trị thực hiện pháp luật về gia đình.
Ba là: Tăng cường công tác thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về
gia đình.
Bốn là: Đẩy mạnh xã hội hóa công tác gia đình.
Năm là: Tăng cường các nguồn lực và các điều kiện đảm bảo phục vụ việc tổ
chức thực hiện pháp luật về gia đình.
KẾT LUẬN
Pháp luật về gia đình là hệ thống các nguyên tắc, quy phạm pháp luật chứa đựng
trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo hình thức, trình tự, thủ tục nhất định và các tập quán tốt đẹp được nhà nước
thừa nhận, thể hiện bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, không trái với những nguyên tắc
cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, các điều cấm của Hiến pháp và pháp luật,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về gia đình, hướng tới xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Pháp luật về gia đình vừa có thể được tiếp cận với ý nghĩa “luật công” về gia
đình, vừa tiếp cận với ý nghĩa luật tư điều chỉnh các quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản trong gia đình. Pháp luật về gia đình là một hệ thống đa dạng và mang tính liên
ngành, có hình thức thể hiện rất phong phú, chủ yếu trong Hiến pháp và các văn bản
quy phạm pháp luật về gia đình, các tập quán tốt đẹp của các dân tộc.