Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.69 KB, 19 trang )

Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
MỤC LỤC
1
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
1. Lý luận chung về phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ
(FTP).
1.1. Định nghĩa.
1.1.1. Hệ thống định giá điều chuyển vốn nội bộ.
Hệ thống định giá chuyển vốn nội bộ (internal funds transfer pricing
system- FTP) là một phần của hệ thống thông tin quản lý và kiểm soát tổng thể,
đo lường giá trị của sản phẩm được cung cấp bởi một trung tâm lợi nhuận (profit
center) cho các trung tâm trách nhiệm có liên quan khác trong công ty. Trao đổi
nội bộ được đo bằng giá chuyển nhượng của doanh thu mà các bộ phận chịu
trách nhiệm bán sản phẩm và chi phí các bộ phận đó mua sản phẩm.
1
Một cách dễ hiểu hơn, đối với ngân hàng, định giá điều chuyển vốn nội bộ
là cơ chế xác định thu nhập hoặc chi phí đối với các bên có liên quan trong quá
trình luân chuyển vốn nội bộ nhằm xác định mức độ đóng góp về lợi nhuận từ
hoạt động mua bán vốn của từng đơn vị kinh doanh trong kết quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Hình 1 – Sơ đồ biểu diễn hệ thống định giá điểu chuyển vốn
Lãi cho vay vốn
Lãi huy động vốn
Thu nhập lãi FTP
Vốn vay
Vốn vay
Vốn gửi
Vốn gửi
Chi phí lãi FTP
TRUNG TÂM QUẢN LÝ VỐN
ĐƠN VỊ TẠO TÀI SẢN NỢ


ĐƠN VỊ TẠO TÀI SẢN CÓ
K/ HÀNG
K/ HÀNG
TT LIÊN NH/ TT VỐN
1 Anthony R. & Hawkins D. & Merchant K. 2004, Accounting Text & cases, McGraw-Hill, New York, p.494.
2
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
(Nguồn: Nguyễn Tuấn Anh, 2009, tạp chí ngân hàng)
Trong mô hình, trung tâm quản lý vốn tập trung sẽ “mua” vốn từ các bộ
phận tạo Tài sản nợ - TSN (thường là tiền gửi khách hàng) của ngân hàng và
“bán” vốn cho các bộ phận tạo tài sản có - TSC (có nhu cầu vốn chẳng hạn như
tín dụng) của ngân hàng. Trung tâm quản lý vốn tập trung này tiến hành mua và
bán vốn theo những mức lãi suất phù hợp với những đặc điểm về định giá lại
của TSC đã đầu tư hoặc TSN đã mua, qua đó cân đối vốn cho mỗi giao dịch.
Trong trường hợp thừa hoặc thiếu vốn, trung tâm quản lý vốn tập trung sẽ giải
quyết trên thị trường tiền tệ. Theo cách này, mọi tác động của rủi ro chênh lệch
lãi suất sẽ được tập trung vào bộ phận quản lý vốn và từng đơn vị kinh doanh sẽ
tập trung vào xử lý rủi ro tín dụng của bộ phận mình. Chênh lệch lãi suất thuần
của bộ phận tạo TSC (cho vay) phản ánh mức chênh lệch giữa lãi suất họ thu
của khách hàng trên tổng dư nợ (trừ đi dự phòng tổn thất tín dụng) với chi phí
điều chuyển vốn họ phải trả cho bộ phận quản lý vốn. Ngược lại, chênh lệch lãi
suất thuần của bộ phận tạo TSN là mức chênh giữa lãi suất họ phải trả cho
khách hàng tính trên tổng dư nợ huy động với thu nhập điều chuyển vốn họ
nhận được từ trung tâm quản lý vốn.
Thu nhập lãi suất thuần của trung tâm quản lý vốn là phần còn lại giữa
phần thu về và phần trả ra cho các bộ phận khác trong ngân hàng. Nó cũng bao
gồm các giao dịch mua vốn hoặc bán vốn trên thị trường tiền tệ. Những giao
dịch này không nhất thiết phải bù đắp chính xác số lỗ hoặc lãi trong điều chuyển
(kinh doanh) vốn với các bộ phận kinh doanh trong ngân hàng. Kết quả thuần
của trung tâm quản lý vốn phản ánh tổng mức rủi ro lãi suất mà ngân hàng sẵn

sàng chấp nhận, dựa theo kỳ vọng về biến động lãi suất trong tương lai mà
trung tâm đưa ra.
2
Giá chuyển nhượng. Mỗi hệ thống định giá vốn điều chuyển dựa trên giá
chuyển nhượng (TP – transfer prices). Giá chuyển nhượng chính là một tỷ suất
nội bộ để tính thu nhập, chi phí chuyển nhượng dựa vào dòng vốn nội bộ của
2 Nguyễn Tuấn Anh, 2009, công cụ định giá vốn điều chuyển trong quản lý Tài sản có/tài sản nợ ngân
hàng và phân tích hiểu hoạt động kinh doanh, tạp chí ngân hàng, số 24.
3
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
các bộ phận trong một tổ chức tài chính. Nó rất giống với tỷ lệ thực tế của lãi
suất thanh toán hoặc nhận được vào một sản phẩm ngân hàng, vì nó liên quan
đến sự cân bằng cùng một giao dịch mà tỷ lệ thực tế không quan tâm. Khi thu
nhập kế toán thực tế nhận được một khoản vay được tính dựa trên lãi suất, chi
phí chuyển giao nội bộ được tính toán bằng cách sử dụng giá chuyển nhượng.
Đối với mỗi khoản vay, có một chi phí chuyển nhượng, trong khi đối với mỗi
khoản tiền gửi, có một thu nhập chuyển nhượng.
1.1.2. Sự cần thiết của hệ thống định giá chuyển vốn nội bộ
Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy FTP để hướng đến mục tiêu:
• Phân bổ lợi nhuận giữa tài sản và nợ phải trả, để phản ánh đúng chi phí
vốn.
• Xác định lợi nhuận của các sản phẩm và khách hàng để thúc đẩy những
thay đổi về cơ cấu tài sản và nợ để tăng tổng lợi nhuận.
• Đánh giá các quyết định kinh doanh trong tổ chức dựa trên sự đóng góp
của các chi nhánh, các lĩnh vực kinh doanh với lợi nhuận tổng thể. Để thực hiện
mục tiêu đặt ra, điều cần thiết là người ra quyết định phải chịu trách nhiệm cho
những kết quả mà họ có thể kiểm soát.
• Kiểm soát được rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất bằng cách chuyển nó
vào đơn vị chịu trách nhiệm quản lý riêng biệt.
Một cách tổng quát, hệ thống định giá chuyển vốn nội bộ có ý nghĩa hết sức

quan trọng. Nó cho thấy sự phân tích của thu nhập lãi (decomposition of interest
income). Trong báo cáo thu nhập của bất cứ một ngân hàng, lãi suất là một bộ
phận lớn lợi nhuận của ngân hàng.
Thu nhập lãi thuần là thành phần lớn nhất của thu nhập một ngân hàng
thương mại tiêu biểu (tiếp theo lệ phí và hoa hồng) và có thể tạo thành lên đến
80% doanh thu của ngân hàng. Trên báo cáo thu nhập, thành phần này được
4
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
chia ra thành thu nhập lãi và chi phí lãi vay cho toàn bộ ngân hàng và không có
phân tích sâu hơn.
3
Sự phân tích chi tiết kết quả ròng kế toán cho thấy trong khi các khoản vay
và tài sản có khác tạo ra thu nhập lãi, các khoản tiền gửi và khoản nợ khác phát
sinh của khoản chi phí lãi. Mỗi khoản tiền gửi với ngân hàng đóng vai trò như là
một nguồn gốc của hoạt động cho vay, và mỗi khoản vay này chịu chi phí sử
dụng vốn từ nguồn đó. FTP đặt một mức giá nội bộ về tiền gửi, trừ đi chi phí vốn
vay.
FTP không những cho phép tính toán lợi nhuận của các khoản vay, tiền gửi
và các sản phẩm khác, mà còn cho phép đo lường thu nhập lãi của các ngành,
lĩnh vực kinh doanh và khách hàng. Đồng thời, FTP hỗ trợ việc đo lường lợi
nhuận cấu thành từ các bộ phần có mức độ đóng góp khác nhau, từ đó cho thấy
sự so sánh nội bộ trong công tác đánh giá hiệu quả và thẩm định.
Giám sát sự tham gia của các nguồn khác nhau trong việc tạo ra lợi nhuận
tổng thể là một trong những yếu tố cần thiết để quản lý một ngân hàng. Từ đó,
nhà quản trị, có thể đưa ra quyết định hợp lý về phân bổ nguồn lực, kiểm soát
chi phí và mức độ lợi nhuận. Thông tin về sản phẩm, về lợi ích của khách hàng,
tạo cơ sở để ngân hàng định giá. Thông tin này cũng chỉ ra những sản phẩm và
khách hàng nào tốt nhất cho ngân hàng. Ra các quyết định kinh doanh dựa trên
lợi nhuận tính toán một cách chính xác trở nên quan trọng hơn với sự gia tăng
cạnh tranh trong dịch vụ tài chính và trong môi trường lãi suất biến động bất

thường.
4
Ý nghĩa của hệ thống FTP luôn được các nhà quản trị đặt lên hàng đầu.
Nếu hệ thống bị lỗi có thể gây ra phá sản, như trường hợp của Ngân hàng Quốc
gia Franklin và nhiều tổ chức tài chính khác tại Mỹ trong thập niên 70.
5
1.2. Các phương pháp định giá.
3 Coffey J. 2001, ‘What is fund transfer pricing’, ABA Bank Marketing, vol. 33 issue 9
4 Convery S. 2003, ‘Keeping banks competitive: a foundation for robust performance management’,
Balance Sheet, vol. 11 issue 3
5 Anthony R. & Hawkins D. & Merchant K. 2004, Accounting Text & cases, McGraw-Hill, New York, p.494.
5
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Các phương pháp định giá vốn điều chuyển nội bộ có tính chính xác và
mức độ phức tạp khác nhau. Sự khác biệt giữa các phương pháp xuất phát từ
cách tiếp cận trong việc tính giá chuyển nhượng, hay mức độ phân tích tài sản
và nghĩa vụ nợ mà Ngân hàng chấp nhận.
Mỗi sản phẩm ngân hàng có đặc tính lãi suất và thời hạn khác nhau, đó là
cơ sở của giao giá chuyển nhượng. Các sản phẩm tốt phổ biến nhất của một
ngân hàng thương mại là: cho vay tiêu dùng, vay thương mại, thế chấp, thẻ tín
dụng, hạn mức tín dụng, tài khoản vãn lai, tài khoản tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn…
Các sản phẩm khác nhau về kỳ hạn, kế hoạch trả nợ, lãi suất,… Bảng dưới đây
trình bày những đặc điểm tiêu biểu nhất của các sản phẩm này
Các khoản vay và tiền gửi có kỳ hạn khác nhau. Chẳng hạn như cho vay
thế chấp có thể có thời gian đáo hạn là vài năm, nhưng cũng có thể là 1 ngày
đối với khoản tiền gửi qua đêm. Ngoài ra, mỗi sản phẩm cũng có lịch thanh toán,
lịch trả nợ khác nhau, lãi suất cũng được tính theo các cách khác nhau.
Có rất nhiều quan điểm đưa ra các phương pháp định giá điều chuyển vốn
nội bộ. Chẳng hạn như nghiên cứu gần đây, Jean Dermine (5/2012)
6

cho rằng có
2 phương pháp, theo cách tiếp cận nền tảng (foudation approach) dựa vào đặc
tính của sản phẩm bao gồm sản phẩm có kỳ hạn cố định (products with fixed
maturities) và sản phẩm có kỳ hạn không xác định. Tuy nhiên, từ kết quả của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến tác giả quan tâm đến cách tiếp cận
mới (Advance approach) bao gồm 5 phương pháp FTP: Sức ảnh hưởng trên thị
trường liên ngân hàng (rationing on the interbank market); Sự thiết lập đệm
thanh khoản dự phòng theo Basel III (the creation of a Basel III contingency
liquidity buffer); Sự cần thiết phải điều chỉnh giá chuyển nhượng vốn đến rủi ro
tín dụng của các tài sản cụ thể của ngân hàng (the necessity to adjust fund
transfer price to the credit riskiness of specific assets of the bank); Sự cần thiết
của phí bảo hiểm thanh khoản trong trường hợp nguồn vốn dài hạn (the need to
include a liquidity premium in the case of long-term funding); Sự lựa chọn một
phương pháp phù hợp với kết hợp biên tín dụng trong nợ riêng của ngân hàng
6 Jean Dermine, 2012, Fund Transfer Pricing for Deposits and Loans, Foundation and Advanced
6
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
dựa trên sự nhận thức nguy cơ vỡ nợ ngân hàng (the choice of a consistent
methodology to incorporate the credit spread on the bank’s own debt due to the
perceived risk of bank default). Các phương pháp đề cập ở trên vẫn còn nhiều
tranh cãi.
Cùng với việc tìm hiểu các nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy việc cân
nhắc, lựa chọn các quan điểm cần phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đồng
thời thích hợp với thực tiễn nói chung trên toàn cầu. Do đó, nhóm tác giả quyết
định lựa chọn quan điểm trước đó của Kawano, Randall T.
7
, làm lý thuyết nền
tảng trong việc tìm hiểu về các phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ.
Cụ thể, bài viết đi sâu vào việc phân tích 3 nhóm phương pháp chính:
- Phương pháp giá mua duy nhất (Single Pool Method - SPM)

- Phương pháp đa giá mua (Multiple Pool Method - MPM)
- Phương pháp khớp kỳ hạn (Matched Maturity Marginal Funds Transfer
Pricing hoặc Matched Rate Method - MRM).
Khi lựa chọn phương pháp FTP, ngân hàng căn cứ vào tình hình hoạt động,
cũng như định hướng trong thời gian sắp tới của bản thân, có thể chỉ dựa theo 1
phương pháp hoặc kết hợp các phương pháp với nhau.
1.2.1. Phương pháp giá mua duy nhất hoặc một giá (SPM)
Phương pháp này xử lý tất cả các giao dịch thống nhất, đặt chúng trong
một nhóm các quỹ. Ngưởi gửi tiền được đưa vào 1 nhóm, và ngân hàng sử
dụng tiền từ khoản đó. Theo phương pháp này, một và chỉ một mức giá chuyển
nhượng được gán cho tất cả các khoản cho vay và tiền gửi. Không có sự khác
biệt trong các sản phẩm dù nó có nhiểu điểm khác nhau.
Cách xác định giá chuyển nhượng thường được tính toán nội bộ - là một
mức lãi suất trung bình trên các sản phẩm của ngân hàng. Tại thời điểm tính
toán, tất cả tiền lãi nhận được các khoản cho vay và tiền gửi thanh toán điều
được gán với một trọng số. Và giá chuyển (TP) chính là tỷ suất lợi nhuận trung
bình trọng của tất cả các tài sản cũng như nghĩa vụ nợ (A&L).
7 Kawano, Randall T., 2000, The Journal of Bank Cost & Management Accounting , Vol. 13, No. 3
7
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Phương pháp một giá là phương pháp đơn giản và dễ thực hiện, mà không
đầu tư hệ thống dữ liệu. Nó không đòi hỏi nhiều bí quyết hoặc mua các hệ thống
IT tốn kém. Trong thực tế, FTP tính toán cho phương pháp này có thể được thực
hiện bởi một người trong một bảng tính. Phương pháp này phù hợp với những
ngân hàng nhỏ, nguổn vốn ổn định, hoạt động như một đơn vị duy nhất, không
có nhiều chi nhánh và lĩnh vực kinh doanh.
Tuy nhiên phương pháp này có một số hạn chế, không phù hợp với các
ngân hàng thương mại lớn có các sản phẩm đa dạng. Những nhược điểm này
bao gồm:
• Không phản ảnh đúng lợi nhuận của đơn vị so với rủi ro về thanh khoản

và lãi suất của các khoản huy động và cho vay.
• Giá chuyển nhượng là duy nhất làm cho nó không thể tạo ra động lực
quản lý để thu hút tiền gửi mà không đồng thời cung cấp cơ chế khuyến khích
bán cho vay.
• Một giá trị tỷ lệ duy nhất không cho phép phân biệt kết quả chuyển giao
theo cơ cấu danh mục đầu tư dài hạn.
1.2.2. Phương pháp đa giá mua (Multiple Pool Method - MPM)
Theo phương pháp này, tát cả các sản phẩm được chia thành các nhóm,
mỗi nhóm có một tiêu chí riêng. Tiêu chí thường gặp nhất là tổng hợp các sản
phẩm dựa trên kỳ hạn của nó. Một cách dễ hiểu hơn chia số dư theo một số kỳ
hạn nhất định ví dụ 1 tháng, 2 tháng…, gom tất cả các khoản huy động vốn có
cùng kỳ hạn vào một nhóm và áp giá theo kỳ hạn cho tổng số dư của kỳ hạn đó.
Các ngân hàng thiết lập một tập hợp các tỷ lệ chuyển nhượng ứng với mỗi
nhóm, phân các sản phẩm ở từng phân khúc hạn mức lãi suất khác nhau. Giá
chuyển nhượng được tính cho mỗi nhóm là được dựa trên kỳ hạn của chính
nhóm đó và trên giá thị trường hiện hành cho kỳ hạn của sản phẩm đó. Nếu giá
thị trường thay đổi liên tục thì TP cũng thay đổi theo.
8
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Phương pháp này khá phù hợp với các ngân hàng có những sản phẩm áp
theo lãi suất thả nổi kết hợp với cấu trúc về thời gian của từng sản phẩm. MPM
có thể được xem là đề xuất hợp lý cho bất kỳ ngân hàng thương mại, với nhiều
chi nhánh, các nguồn tài trợ và danh mục sản phẩm phức tạp. Tuy nhiên, MTM
cũng có những hạn chế nhất định.
• Lợi nhuận của các sản phẩm bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong lãi
suất thị trường.
• Lãi suất lịch sử (lãi suất trả cho khách hàng) tại thời điểm định giá không
được coi.
• Phương pháp này không thích hợp cho các giao dịch lãi suất cố định lâu
dài.

• Tăng chênh lệch giữa giá chuyển và kế toán trong FTP danh mục đầu tư.
• Ngân hàng phải tăng thêm nguồn lực công nghệ thông tin cần thiết so với
phương pháp một giá (SPM).
1.2.3. Phương pháp tỷ lệ phù hợp (Matched Maturity Marginal Funds
Transfer Pricing hoặc Matched Rate Method - MRM).
Khác với phương pháp đa giá (MPM), phương pháp tỷ lệ phù hợp sử dụng
giá được phân bổ cho mỗi giao dịch riêng biệt, tức TP lấy chính xác từ lãi suất
của khách hàng trong mỗi giao dịch. Hai phương pháp MPM và MRM có nhiểu
điểm giống nhau, song, cũng có những điểm khác biệt cơ bản chính là giá
chuyển nhượng mà phương pháp này lựa chọn, mỗi giao dịch với một mức lãi
suất cố định. Chính vì xuất phát điều chuyển từ chính lãi xuất cũng như tính chất
của giao dịch (loại sản phẩm, khách hàng…) đã tách rủi ro lãi xuất với rủi ro tín
dụng. Đây chính là ưu điểm vượt trội của MRM.
Tuy nhiên, phương pháp này rất phức tạp, rất tốn kém, đòi hỏi chi tiết trong
phân tích sản phẩm, do đó, phải có một hệ thống ứng dụng chuyên nghiệp.
Chính vì thế, phương pháp này phù hợp với những ngân hàng cực kỳ lớn, có lợi
9
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
thế về hệ thống công nghệ thông tin. Với tốc độ phát triển của ngày nay, thì việc
hướng đến MRM là một suy nghĩ thông minh đối với các nhà quản trị ngân hàng.
2. Vận dụng hệ thống định giá điều chuyển vốn nội bộ trong thực tiễn
của Việt Nam.
2.1. Thực tế vận dụng các phương pháp FTP tại các ngân hàng
TMCP Việt Nam nói chung.
2.1.1. Tình hình áp dụng FTP tại một số ngân hàng.
Một cách tổng quát, các ngân hàng đều nhận thức được ý nghĩa của hệ
thống định giá điều chuyển vốn nội bộ. Tính đến nay, đa số các ngân hàng đều
áp dụng các phương pháp này. Tuy nhiên, mỗi ngân hàng sẽ có mức độ vận
dụng khác nhau, tùy vào tình hình của chính bản thân ngân hàng. Một vài ngân
hàng đã áp dụng khá tốt hệ thống này.

Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), là ngân hàng đầu
tiên áp dụng công cụ này. Theo đó, FTP nội bộ của BIDV có những nguyên tắc
như: thứ nhất, định giá chuyển vốn được áp dụng trên toán bộ giao dịch phát
sinh liên quan đến sự dịch chuyển dòng vốn của ngân hàng với khách hàng; thứ
hai, việc định giá chuyển vốn hoàn toàn mang tính chất danh nghĩa nhằm xác
định mức đóng góp của các đơn vị kinh doanh trong kỳ mà không có sự dịch
chuyển thật của dòng tiền cũng như không là phát sinh bút toán kế toán. Mức độ
đóng góp của đơn vị kinh doanh qua hệ thống báo cáo định giá chuyển vốn
phản ánh lợi nhuận của đơn vị đó và là căn cứ để giao chỉ tiêu lợi nhuận, tính
toán và đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị kinh doanh trong kỳ; thứ ba, để
bảo đảm an toàn trong hoạt động, các đơn vị kinh doanh vẫn phải tuân thủ các
quy định về giới hạn, hạn mức trong hoạt động cũng như đảm bảo thực hiện hệ
thống các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh.
Tại NHTMCP Hàng Hải (Maritime Bank), bắt đầu thực hiện cơ chế quản lý
vốn tập trung từ ngày 01/01/2009, dựa trên có những nguyên tắc như sau: thứ
nhất, nguyên tắc mua bán toàn bộ vốn và tài sản của các đơn vị kinh doanh
trong hệ thống; thứ hai, nguyên tắc thống nhất (phương pháp một giá – SPM).
10
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Ngoài ra, ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, áp dụng công cụ định
giá điều chuyển vốn nội bộ từ 01/04/2011. Trong quy định của ngân hàng này
cũng nêu rõ các nguyên tắc FTP như: thứ nhất, giá điều chuyển vốn nội bộ được
xác định căn cứ theo mặt bằng lãi suất thị trường, tình hình cân đối nguồn vốn
và sử dụng vốn của NHTM CP Công thương Việt Nam, định hướng phát triển
của ngân hàng có tính đến các yếu tố rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản của từng
loại nguồn vốn, từng loại sản phẩm với từng đối tượng khách hàng; thứ hai, giá
điều chuyển vốn được quy định riêng đối với từng loại Tài sản nợ, tài sản Có;
thứ 3, đối với các giao dịch phát sinh có đồng tiền giao dịch phát sinh có đồng
tiền giao dịch là ngoại tệ, chi phí FTP/thu nhập FTP được tính theo nguyên tệ và
được quy đổi sang đồng nội tệ theo tỷ giá được quy định.

8
2.1.2. Đánh giá chung về tình hình vận dụng FTP tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam tuy ý thức và đưa vào vận dụng các
phương pháp FTP, song vẫn con khá chậm, và cũng còn vấp nhiều vấn đề.
Phi tập trung hóa công tác quản lý vốn
9
Một cách mang tính khái quát hóa, hiện nay hầu hết các ngân hàng thương
mại (NHTM) Việt Nam (bao gồm cả các NHTM nằm trong nhóm lớn nhất về quy
mô tổng tài sản cũng như giàu truyền thống kinh nghiệm nhất) đều chưa thực sự
nắm rõ vai trò của việc áp dụng “khái niệm” công cụ FTP nhất là trong quản lý
TSC/TSN. Tất nhiên, về mặt đặc thù, mỗi ngân hàng đang hoạt động đều có
những hệ thống quản lý riêng (ví dụ: Ủy ban ALCO), nhưng thực sự công tác
quản lý TSC/TSN mới dừng ở cấp độ khớp kỳ hạn.
Một cách điển hình, mô hình tổ chức của các NHTM Việt Nam hiện nay là
trụ sở chính và các chi nhánh, trong đó mỗi chi nhánh hoạt động độc lập tương
đối. Chi nhánh đó có bảng cân đối riêng, trong đó có phân loại TSC và TSN theo
8 ThS. Phan Thị Hoàng Yến, 2012, Định giá điều chuyển vốn nội bộ, công cụ mới trong quản trị tài sản –
nợ tại Ngân hàng thương mại Việt Nam, Quản trị Ngân hàng và doanh nghiệp.
9 Nguyễn Tuấn Anh, 2009, công cụ định giá vốn điều chuyển trong quản lý Tài sản có/tài sản nợ ngân
hàng và phân tích hiểu hoạt động kinh doanh, tạp chí ngân hàng, số 24.
11
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
kỳ hạn và theo mức độ rủi ro. Nếu như tách biệt vấn đề về hạch toán, có thể coi
mỗi chi nhánh như một ngân hàng độc lập. Và nếu như trên cùng một địa bàn có
nhiều hơn một chi nhánh của một ngân hàng, thì bản thân các chi nhánh đó
cũng cạnh tranh với nhau tương tự như đối với một ngân hàng khác.
Thực tiễn quản trị dễ dàng đối với trụ sở chính của các NHTM Việt Nam là
giao chỉ tiêu kế hoạch cho các chi nhánh của mình, trong đó yêu cầu các chi
nhánh của mình phải đạt các chỉ tiêu về TSN, TSC và theo đó là lợi nhuận.

Thông thường kèm theo đó không bao gồm các hỗ trợ về quản trị rủi ro, đặc biệt
rủi ro thanh khoản. Một số ngân hàng thường yêu cầu chi nhánh của mình làm
luôn việc tự cân đối TSN và TSC, mà phần lớn là nguồn vốn huy động và cho
vay tín dụng. Trong khi đó, ở cấp độ chi nhánh, việc quản lý rủi ro lãi suất và rủi
ro thanh khoản là không thể thực hiện hiệu quả. Chính việc phi tập trung hóa
công tác quản lý vốn này khiến cho bản thân ngân hàng gặp phải rủi ro cực lớn.
Thứ nhất, rủi ro lãi suất: Do các chi nhánh được yêu cầu tự cân đối vốn kinh
doanh theo nghĩa tự huy động TSN chi nhánh (tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh
nghiệp) để dùng làm nguồn cho các TSC của chi nhánh (chủ yếu là cho vay
thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ thương mại ); một biến động tương đối
lớn trong lãi suất áp dụng cho TSN trong khi mức lãi suất của TSC có độ trễ lớn
hơn sẽ tạo ngay lập tức một áp lực lên hoạt động kinh doanh của chi nhánh gây
ra rủi ro lãi suất. Đối với loại rủi ro này, một số NHTM Việt Nam áp dụng cơ chế
khống chế trần lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay như một hình thức quản
trị kiểu “song sắt”. Cơ chế này dẫn đến hậu quả tất yếu là cạnh tranh trong chính
nội bộ các chi nhánh của ngân hàng đối với nguồn vốn rẻ (ví dụ: tiền gửi không
kỳ hạn) và dự án cho vay đối với khách hàng tốt, trong khi đó vai trò trụ sở chính
của ngân hàng trong kinh doanh và hỗ trợ kinh doanh hầu như không có. Thứ
hai, rủi ro thanh khoản: Phổ biến nhất khi TSN tại chi nhánh đáo hạn với kỳ hạn
vốn ngắn hơn kế hoạch (hay còn gọi là đoản vốn ) khiến chi nhánh không có khả
năng chi trả các khoản rút TSN đó. Thứ ba, rủi ro tín dụng: Đây là rủi ro mang
tính gián tiếp nhưng lại là nguy cơ mất vốn lớn nhất, vì khi bản thân cán bộ làm
công tác khách hàng tại chi nhánh vừa phải đi lo về nguồn vốn huy động, vừa
12
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
phải trực tiếp bán các sản phẩm tín dụng sẽ làm suy yếu nghiêm trọng khâu
quản lý rủi ro, thẩm định hồ sơ và giám sát quá trình sử dụng vốn vay; trong khi
đó, về mặt nguyên tắc, các cán bộ này chỉ cần lo về khâu khách hàng vay vốn.
Không có mô hình phân tích hiệu quả theo bộ phận kinh doanh
Mô hình tổ chức của các NHTM Việt Nam hiện nay đã có nhiều thay đổi tiến

bộ so với trước đây, đặc biệt đối với các NHTM vốn tiền thân là các ngân hàng
quốc doanh. Sự thay đổi này chủ yếu theo cách hướng trọng tâm phục vụ vào
khách hàng; theo đó, các phòng chức năng tại trụ sở chính và chi nhánh được
lập theo từng phân đoạn thị trường nhất định để kinh doanh. Ví dụ: Bộ phận
khách hàng doanh nghiệp, bộ phận khách hàng cá nhân Nhiều ngân hàng đặt
ra mục tiêu hướng tới những cái mà họ gọi là “thành tựu” như: Giao dịch một
cửa, one-stop service (chỉ cần đến một nơi khách hàng được phục vụ tất cả nhu
cầu)
Tuy nhiên, mô hình tổ chức này dẫn đến một khiếm khuyết lớn trong quản
trị kinh doanh khiến cho hầu hết các ngân hàng sai lầm trong sử dụng và phân
bổ nguồn lực của mình. Đó là mô hình này triệt tiêu động lực để các ngân hàng
thực hiện phân tích hiệu quả theo bộ phận kinh doanh, từ đó cũng không đạt
được mục tiêu là phục vụ khách hàng theo phân đoạn.
2.2. Vận dụng phương pháp FTP tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Á Châu
Hiện nay ACB sử dụng phương pháp khớp kì hạn để tính giá vốn nội bộ.
Phương pháp này cho phép định giá vốn theo kỳ hạn và tính chất cả giao dịch
(sản phẩm, loại hình lãi suất, đối tượng khách hàng), rất linh hoạt trong quá trình
điều chuyển vốn nội bộ. Chương trình cho phép người sử dụng điều chỉnh thu
nhập và chi phí điều chuyển vốn *Quy định giá mua bán vốn FTP tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Á Châu
Hiện nay ACB sử dụng phương pháp khớp kì hạn để tính giá vốn nội bộ.
Phương pháp này cho phép định giá vốn theo kỳ hạn và tính chất cả giao dịch
(sản phẩm, loại hình lãi suất, đối tượng khách hàng), rất linh hoạt trong quá trình
13
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
điều chuyển vốn nội bộ. Chương trình cho phép người sử dụng điều chỉnh thu
nhập và chi phí điều chuyển vốn theo đúng kỳ hạn thực tế của giao dịch.
2.2.1. Nguyên tắc xác định lãi suất mua bán vốn nội bộ FTP tại ACB
theo nguyên tắc

a. Nguyên tắc xác định lãi suất mua bán vốn VNĐ.
- Lãi suất Hội sở mua vốn:
Lãi suất mua vốn = lãi suất huy động công bố + A + B
Trong đó:
A = Các chi phí huy động ACB trả cho khách hàng trong từng thời kì tỷ lệ
với số tiền gửi, chi phí khuyến mãi quà tặng,…
B = Margin do Tổng giám đốc quy định trong từng thời kỳ.
Lãi suất mua vốn được cập nhật vào hệ thống áp dụng một giá cho mỗi loại
kì hạn không phân biệt là khoản mở mới hay tái tục
- Lãi suất Hội sở bán vốn:
- LS
KNQ-mua
: Lãi suất Khối Ngân quỹ mua vốn
b. Nguyên tắc xác định lãi suất mua bán vốn USD:
14
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Lưu ý: Lãi suất mua bán vốn nội bộ sẽ do Khối Ngân Quỹ cung cấp (chỉ bao
gồm các kỳ hạn chuẩn). Đối với các kỳ hạn khong có trong bảng lãi suất mua
bán vốn nội bộ thì sẽ được tính bằng phương pháp nội suy đường thẳng theo
công thức:
LS
X ngày
= LS
loại kỳ hạn A
+ (LS
loại kỳ hạn B
- LS
loại kỳ hạn A
)/(b-a)*(X-a)ngày
LS

loại kỳ hạn A
= Lãi suất của kỳ hạn nhỏ hơn liền kề với X ngày
LS
loại kỳ hạn B
= Lãi suất của kỳ hạn lớn hơn liền kề với X ngày
a: số ngày của kỳ hạn A
b: số ngày của kỳ hạn B
2.2.2. Biểu lãi suất Hội sở ACB mua bán vốn được áp dụng hiện nay:
a. Biểu lãi suất Hội sở ACB mua bán vốn VNĐ:
15
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
b. Biểu lãi suất Hội sở ACB mua bán vốn USD:
2.2.3. Chương trình truy xuất thông tin thu nhập FTP tại ACB:
ACB cũng thiết kế chương trình để truy xuất thông tin thu nhập FTP:
16
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
Chương trình được thiết kế và cài đặt thêm chức năng xem thu nhập FTP
theo tài khoản hoặc mã khách hàng, giúp các đơn vị có thể khai thác các thông
tin này trên hệ thống một cách dễ dàng và đầy đủ các thông tin, theo khoảng
thời gian mà nhà quản trị mong muốn. Để từ đó giúp nhà quản trị kiểm soát
được thu nhập và chi phí điều chuyển vốn của đơn vị, cũng như theo dõi được
mức thu nhập từ Khách hàng để có chính sách phát triển khách hàng một cách
hiệu quả, kịp thời.
2.2.3. Một vài nhận định về Phương pháp khớp kì hạn để tính giá vốn
nội bộ FTP tại Ngân hàng ACB:
Hệ thống FTP theo phương pháp khớp kì hạn tại ACB đi vào vận hành đã
hỗ trợ có hiệu quả và tăng cường công tác quản trị, điều hành vốn và phân tích
thông tin, cụ thể: hệ thống đã cung cấp công cụ mạnh để linh hoạt trong công
tác quản lý rủi ro Lãi suất, thanh khoản mạnh và linh hoạt vì nó khớp với Kỳ hạn
và tính chất của giao dịch, giúp Nhà quản trị có thể linh hoạt trong chính sách lãi

suất và đưa ra các định hướng về kỳ hạn cho toàn hệ thống.
Đồng thời, với chương trình truy xuất thông tin FTP hiện đại, cung cấp các
báo cáo về tiền gửi, cho vay, và lợi nhuận của đơn vị, giúp cho thông tin đến các
lãnh đạo đơn vị kịp thời hơn, giảm thiểu thời gian vì giảm bớt được khối lượng
công việc thủ công và rủi ro tác nghiệp tại đơn vị, tiết kiệm thời gian dành cho
việc phân tích và đề ra chiến lược kinh doanh, quan hệ khách hàng, nâng cao
17
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
hiệu quả hoạt động kinh doanh cho đơn vị, từ đó đảm bảo hiệu quả chung cho
toàn hệ thống.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hệ thống FTP này, cũng đã xảy ra
những sai sót về việc áp dụng lãi suất FTP do lỗi của hệ thống hoặc do lỗi điều
chỉnh trễ đối những khoản vay ưu đãi. Hiện tại ACB cần nên trang bị hệ thống
thông tin hiện đại hơn cũng như nguồn nhân lực vững mạnh hơn để khắc phục
những lỗi này để giúp hệ thống vận hành trơn tru và hiệu quả.
3. Một số đề xuất và kiến nghị.
Từ nền tảng cơ bản của lý thuyết chung về hệ thống định giá điều chuyển
vốn nói chung và đặc biệt là các phương pháp FTP, cũng như từ việc nhìn nhận
sự vận dụng các phương pháp nói trên hiện nay của các ngân hàng TMCP Việt
Nam, bài viết đưa ra một số đề xuất và kiến nghị nhằm thúc đẩy tiến trình vận
dụng hệ thống FTP một cách hiệu quả.
- Từ chính các nhà quản trị ngân hàng cẩn nẵm vững và hiểu rõ, khái niệm,
nguyên tắc vận hành, cũng như là ý nghĩa của FTP, để có thể tuy ứng vận
dụng vào mỗi ngân hàng sao cho phù hợp với chính tình hình hoạt động
của Ngân hàng.
- Chuyên môn hóa các công tác của cán bộ ngân hàng. Như đã phân tích ở
trên, bản thân cán bộ làm công tác khách hàng tại chi nhánh vừa phải huy
động vốn, vừa chay chỉ tiêu tín dụng, sẽ làm suy yếu nghiêm trọng khâu
quản lý rủi ro, thẩm định hồ sơ và giám sát quá trình sử dụng vốn vay. Việc
chuyên môn hòa, tức là các cán bộ này chỉ cần lo về khâu khách hàng vay

vốn, sẽ nâng cao chất lượng hoạt động hơn.
- Cần đẩy mạnh công tác vận dụng FTP, tập trung hóa công tác quản lý vốn,
tránh tình trạng tranh giành khách giữa các chi nhánh của cùng một ngân
hàng như hiện nay. Từ đó, nâng cao vai trò của hội sở trong kinh doanh và
hỗ trợ hoạt động kinh doanh, với vai trò là người điều phối vốn giữa các chi
nhánh.
- Nâng cấp cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ thông tin để hỗ trợ cho hoạt
động của hệ thống FTM được diễn ra thuận lợi.
18
Đề tài 13 - Phương pháp định giá điều chuyển vốn nội bộ ngân hàng
19

×