Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Nghiên cứu đặc tính hoá sinh, khả năng chống béo phì và rối loạn trao đổi chất của một số hợp chất tự nhiên từ dịch chiết quả phật thủ = (Citrus medica L. var. sarcodactylis (Noot.) Swingle

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.11 KB, 65 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN XUÂN HẠNH
NGHIÊN CỨU ĐẢC TÍNH HÓA SINH, KHẢ NĂNG CHỐNG BÉO PHÍ VÀ RÓI LOẠN
TRAO ĐỐI CHÁT CỦA MỘT SỐ HỢP CHẤT Tự NHIEN TỪ DỊCH CHIẾT
QUẢ PHẬT THỦ 0Citrus medica L. var. sarcodactylis (Noot.) Swingle.)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
HÀ NỘI, 2010
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bệnh béo phì (Obesity) được tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa là tình trạng tích luỹ
mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức
khoẻ. Tổ chức Quốc tế theo dõi bệnh béo phì (Internation Obesity Tast Force - IOTF) cho biết tình
trạng béo phì đang tăng lên với tốc độ báo động, không những ở các quốc gia phát triển mà ở cả các
1
quốc gia đang phát triển. Hiện nay trên Thế giới có khoảng 1,7 tỷ người thừa cân và mắc bệnh béo
phì [3][65]. Ớ Việt Nam, theo điều tra mới nhất của Viện Dinh dưỡng cho thấy tình trạng thừa cân
(2007), béo phì cũng đang tăng nhanh, trong đó tỷ lệ béo phì ở người trưởng thành, từ 25 - 64 tuổi,
lên tới 16,8% [13].
Người bị béo phì ngoài thân hình nặng nề, khó coi còn có nguy cơ mắc nhiều bệnh như rối
loạn lipid máu, rối loạn về tim mạch, đột qụy, tăng huyết áp, sỏi mật, xương khớp, ung thư và Đái
tháo đường (ĐTĐ) trong đó biến chứng của bệnh tim mạch và đột qụy là yếu tố gây tử vong hàng
đầu [3][31].
Do tốc độ phát triển nhanh của bệnh nên nhu cầu về thuốc điều trị cũng tăng nhanh. Ngày
nay, hàng loạt thuốc điều trị bệnh béo phì đã ra đời và đang được sử dụng nhằm hạn chế sự phát
triển của bệnh như: Sibutramine, Orlistat, Metformin , tuy nhiên đây đều là những loại thuốc
không rẻ và thường kéo theo nhiều phản ứng phụ của cơ thế [3].
Uỷ ban chuyên gia của WHO đã khuyến nghị nên phát triển và sản xuất các thuốc có nguồn
gốc thảo dược vì đây là nguồn dược liệu sẵn có, giá thành rẻ và ít độc [19] [31] [56].
Việc nghiên cứu, khảo sát về thành phần hoá học và tác dụng dược lý của các loài cây thuốc
có giá trị của Việt Nam nhằm đặt cơ sở khoa học cho việc sử dụng chúng một cách hợp lí, hiệu quả
có tầm quan trọng đặc biệt trong Y - Dược học. Phật thủ - Citrus medỉca L. var. sarcodactylis


(Noot.) Swingle, thuộc họ Cam - Rutaceae là một cây thuốc quý. Trong dân gian, bộ phận thường
dùng là quả, ngoài ra hoa, lá và rễ cũng được dùng, quả Phật thủ có công dụng: Dùng trị các bệnh
như: trướng đầy bụng, đau dạ dày; chán ăn, nôn mửa; ho dai dẳng có nhiều đờm [5][18]. Tuy nhiên,
về tác dụng chống béo phì và rối loạn trao đổi chất, đặc biệt khả năng hỗ trợ hạ đường huyết các
bệnh ĐTĐ thì hầu như chưa được các nhà khoa học ở Việt Nam đề cập nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tế trên, cùng với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu, phát hiện
thêm các thuốc có nguồn gốc thảo dược để dự phòng và chữa bệnh béo phì, chúng tôi chọn đề tài:
“Nghiên cứu đặc tính hoá sinh, khả năng chống béo phì và rối loạn trao đổi chất của
một số hợp chất tự nhiên từ dịch chiết quả Phật thủ (Citrus medica L. var. sarcodactyỉỉs (Noot.)
Swingle.)”
2. Mục đích nghiên cửu
2.1. Bước đầu nghiên cứu thành phần hóa học cơ bản của quả Phật thủ (Citrus medica L. var.
sarcodactylỉs (Noot.) Swingle.).
2.2. Bước đầu nghiên cứu tác động của các phân đoạn dịch chiết từ qủa Phật thủ lên trọng lượng cơ
2
thể và một số chỉ số hoá sinh (glucose, cholesterol, triglycerid, HDL-C, LDL-C, lipase) trên mô
hình chuột béo phì thực nghiệm.
2.3. Bước đầu nghiên cứu ảnh hưởng của các phân đoạn dịch chiết từ quả Phật thủ lên chỉ so
glucose máu của chuột béo phì được tiêm STZ liều thấp (110 * 120mg STZ/kg) để tạo mô hình
thực nghiệm ĐTĐ type 2.
3. Nhiệm yụ nghiên cún
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu chúng tôi xác định các nhiệm vụ cụ thể của luận văn như sau:
3.1. Đưa ra quy trình tách chiết một số họp chất từ quả Phật thủ.
3.2. Khảo sát thành phần các hợp chất tự nhiên có trong quả Phật thủ ở các phân đoạn dịch chiết.
3.3. Nghiên cún tác dụng của một số phân đoạn dịch chiết từ quả Phật thủ lên sự giảm trọng lượng
và một số chỉ số hoá sinh trên mô hình chuột béo phì thực nghiệm.
3.4. Nghiên cún khả năng điều hoà đường huyết của các phân đoạn dịch chiết từ quả Phật thủ trên
mô hình chuột ĐTĐ mô phỏng theo type 2.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

4.1.1. Mau thực vật
Quả Phật thủ (Citrus medỉca L. var. sarcodactylỉs (Noot.) Swingle). Thời gian thu hái: Được
thu mua vào tháng 11 năm 2009 tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hải Phòng.
4.1.2. Mầu động vật
Chuột nhắt trắng chủng Swiss (14 - 16g) 4 tuần tuổi và thức ăn tiêu chuẩn được mua tại Viện
Vệ sinh Dịch tễ TW.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cún đặc tính hoá sinh của một số phân đoạn dịch chiết (cao EtOH, cao n - hexan, cao
CHCI3, cao EtOAc) từ quả Phật thủ {Citrus medỉca L. var. sarcodactylis (Noot.) Swingle) trên mô
hình chuột béo phì thực nghiệm, chuột béo phì gây ĐTĐ mô phỏng theo type 2, dựa theo các tài
liệu [66] và đã được cải biến trong các nghiên cứu ở Việt Nam [6][ 11].
5. Phương pháp nghiên cửu
5.1. Phương pháp chiết xuất.
5.2. Phương pháp khảo sát thành phần hoá học.
5.2.1. Phương pháp định tính thành phần hoá học của quả Phật thủ.
3
5.2.2. Phương pháp phân lập các hợp chất bằng kĩ thuật sắc kí lóp mỏng [17].
5.2.3. Định lượng polyphenol tổng số theo phương pháp Folin - Ciocalteau (Singleton và cộng sự
1999).
5.3. Phương pháp tạo mô hình động vật thực nghiệm: Chuột béo phì thực nghiệm, chuột ĐTĐ
type 2.
5.4. Phương pháp định lượng một số chỉ số hoá sinh máu [11][17].
5.5. Phương pháp xử lý thống kê toán học [20].
6. Những đóng góp mới của đề tài
s Đưa ra quy trình tách chiết phân đoạn các họp chất tự nhiên từ quả Phật thủ.
S Đánh giá được tác dụng của một số phân đoạn dịch chiết từ quả Phật thủ đến khả năng giảm
trọng lượng và một số chỉ số hoá sinh của chuột béo phì thực nghiệm.
S Đánh giá được khả năng hạ glucose huyết của các phân đoạn dịch chiết lên mô hình chuột
ĐTĐ mô phỏng type 2 thông qua chỉ số glucose huyết.
CHƯƠNG 1. TỎNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Các họp chất thực vật thứ sinh (Plant secondary metabolỉtes)
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản về hợp chất thực vật thứ sinh
Hợp chất thực vật thứ sinh là các sản phẩm của các quá trình trao đổi chất được sinh ra ở
thực vật. Chúng là các chất hoá học thứ cấp (Secondary products) được tổng hợp và chuyển hoá từ
các chất trao đổi bậc nhất (primary compotunds) như axit amin, axit nucleic, carbonhydrate, lipid,
peptid, hoặc từ các sản phẩm trung gian của chu trình đường phân, chu trình pentose - phosphate,
chu trình axit citric Khác với các chất trao đổi bậc nhất, giữ vai trò trung tâm và tham gia trực tiếp
vào các quá trình trao đổi chất của cơ thể, các hợp chất thực vật thứ sinh không phải là các yếu tố
đặc biệt cần thiết cho các quá trình sinh trưởng, phát triến, quang hợp và sinh sản [70]. Chúng được
tạo ra trong các tế bào chuyên biệt với vai trò điều hoà mối quan hệ qua lại giữa các tế bào trong cơ
thể và là các hợp chất phòng thủ giúp thực vật chống chịu lại với các bệnh xâm nhiễm thực vật đối
với môi trường sống xung quanh [61].
Tuỳ thuộc vào cấu trúc hoá học và các thuộc tính lý học của chúng mà các họp chất thực vật
thứ sinh được phân loại thành 3 nhóm chính là: Nhóm terpen, nhóm các hợp chất phenolic và nhóm
alkaloid.
1.1.1.1. Terpen thực vật
4
Terpen là nhóm hydrocacbon thực vật lớn và đa dạng nhất, được hình thành từ quá trình
polymer hoá các tiếu đơn vị isopren (C
5
H8), có công thức cấu tạo chung là (C
5
H8)n. Trong thực
vật, terpen được tổng hợp thông qua con đường trao đổi chất acetate/mevanolate hoặc con đường
glyceraldehydes - 3 - phosphate/pyravate. Hầu hết các terpen đều thuộc nhóm hydrocarbon, tuy
nhiên chúng có thể bị khử hoặc bị oxy hoá để hình thành các hợp chất terpenoid khác nhau như
alcohol, ketone, acid và aldehyde. Vì vậy, một số tác giả sử dụng thuật ngữ “terpen” để chỉ chung
một nhóm lớn các hợp chất bao gồm cả terpen và terpenoid [63].
Hình 1.1. Cấu trúc một số triterpen
1.1.1.2. Các hợp chấtphenolic từ thực vật

Hợp chất phenolic là nhóm các chất khác nhau rất phố biến trong thực vật. Đặc điểm chung
của chúng là trong phân tử có vòng thơm (benzen) mang một, hai hay ba nhóm hydroxyl (-OH) gắn
trực tiếp vào vòng benzen. Dựa vào thành phần và cấu trúc người ta chia hợp chất phenolic thành 3
nhóm nhỏ [34]:
S Nhóm hợp chất phenolỉc đơn giản: Trong phân tử chỉ có một vòng benzen và một vài nhóm
hydroxyl. Tuỳ thuộc vào số lượng nhóm -OH mà chúng được gọi là các monophenol (phenol),
diphenol (pyrocatechin, hydroquinone ), triphenol (pyrogalol, oxyhydroquynol ).
s Nhỏm họp chất phenolic phức tạp: Trong thành phần cấu trúc phân tử của chúng ngoài vòng
thơm benzen (C6) chúng còn có dị vòng, mạch nhánh. Đại diện nhóm này có acid cyamic, acid
ceramic.
s Nhóm họp chất phenolic đa vòng: Là nhóm đa dạng nhất trong các họp chất phenol, có cấu
trúc phức tạp do sự liên kết hoặc trùng họp của các đơn phân. Ngoài gốc phenol còn có các nhóm
phụ dị vòng mạch nhánh hoặc đa vòng. Nhóm này có flavonoid, tannin và coumarin.
Hợp chất phenolic được hình thành một cách dễ dàng trong tất cả các cơ quan thực vật từ
những sản phấm đường phân và chu trình pentose phosphate qua acid sikimic hay theo con đường
acetate manolate qua acetyl-SCoA. Trong số các chất polyphenol tự nhiên, flavonoid là nhóm chất
quan trọng nhất vì chúng phổ biến ở hầu hết các loài thực vật và mang nhiều đặc tính sinh dược
Squalen
5
học có giá trị.
1.1.1.2.1. Flavonoid
Flavonoid là những sắc tố, phần lớn có màu vàng (flavus - nghĩa là màu vàng). Tuy nhiên
một số sắc tố khác như xanh, đỏ, tím, hoặc không màu cũng xếp vào nhóm flavonoid vì chúng
có chung đặc điếm cấu tạo.
* Cấu tạo hoá học và phân loại
về cấu tạo hoá học, khung cacbon của flavonoid là C
6
-C
3
-C6, gồm 15 nguyên tử cacbon,

hai vòng benzen A và B nối với nhau qua dị vòng c, trong đó A kết họp với c tạo khung chroman
[39] [43].
Hình 1.2. Fia van (2 - phenyl chroman)
Tuỳ theo mức độ oxy hoá vòng pyran, sự có mặt hay không có mặt của nối đôi giữa c
2
với
c
3
và nhóm cacbonyl ở c
4
mà có thể phân biệt flavonoid thành các nhóm phụ sau: Flavon và
flavonol, flavanol (đihidro flavon), chalcol, aurol, leucoantoxianidin, catechin, isoflavonoid,
rotenoid và neoflavonoid [72].
2'- -3'
6
Hình 1.3. Một sô nhóm flavonoid chính
* Hoạt tính sinh học của flavonoid Tác dụng chống oxy
hoá (antỉoxỉdant)
Flavonoid có khả năng kìm hãm các quá trình oxy hoá dây truyền gây ra bởi các gốc tự do
hoạt động. Tuy nhiên hoạt tính này mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng flavonoid
cụ thể.
Gốc tự do sinh ra trong quá trình sinh lý bình thường của cơ thế hay do tác động bên ngoài
là nguyên nhân gây phá huỷ ADN, protein, lipid làm phát sinh nhiều bệnh tật nguy hiểm và sự lão
hoá cho cơ thể. Flavonoid có bản chất polyphenol nên dễ dàng biến đổi dưới tác động của các
enzyme có trong tế bào động thực vật. Đặc biệt flavonoid có nhóm hydroxyl ở vị trí ortho dễ dàng
bị oxy hoá bởi xúc tác của enzym polyphenoloxydase tạo semiquynol hoặc quynol [17]. Đây là các
gốc tự do bền vững chúng có thể nhận điện tử và trở thành dạng hidroquynol. Bởi vậy các chất này
có khả năng phản úng với các gốc tự do hoạt động và loại chúng ra khỏi cơ thể. Quá trình được tóm
tắt qua sơ đồ sau:
H

O
Cyanidi
n
Querceti
Epicatechi


Gl
OH
ö
Sapon
Rut
o -
7
0
2
+ Flavonoid (dạng khử) —poiyphenoitKydase
>
Flavonoid (dạng oxy hoá)
(Hidroquynol) (Semiquynol hoặc quynol)
Ngoài ra flavonoid còn có tác dụng bảo vệ các hệ thống sinh học nhờ khả năng tạo phức với
các kim loại chuyển tiếp như Fe2+, Cu2+ hoạt hoá enzym chống oxy hoá và ức chế sự oxy hoá.
Tác dụng thay đổi hoạt độ các enzyme
Hợp chat phenol nói chung và flavonoid nói riêng có khả năng tương tác với protein, nhờ
tính chất này mà các flavonoid có thế làm thay đối hoạt tính enzyme. Năm 1929, A.I. Oparin và
A.L. Kursanop đã phát hiện ra các flavonoid có khả năng ức chế nhiều loại enzyme nhưng tính chất
này không hoàn toàn đặc hiệu. Đây chính là cơ sở hoá sinh để định hướng cho việc sử dụng
flavonoid thiên nhiên vào lĩnh vực sinh - y học phục vụ sức khoẻ vào đời sống con người [17].
Tác dụng kháng khuẩn
Nhiều công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã chứng tỏ tác dụng chống viêm nhiễm

(anti-inflamatory), chống vi khuẩn (anti-bacterial) và virut (antiviral) [2] [8].
Tác dụng làm bền thành mạch máu
Các dẫn xuất đường của flavonoid có hoạt tính của vitamin p như rutin, hesperidin có tác
dụng làm tăng sức bền và tính đàn hồi của thành mao mạch, giảm sức thẩm thấu của hồng cầu qua
thành mao mạch. Hoạt tính này được ứng dụng trong chữa trị các rối loạn chức năng tĩnh mạch,
giãn hay suy yếu tĩnh mạch, trĩ, rối loạn tuần hoàn tĩnh mạch [19].
Tác dụng giảm béo phì và lipid máu
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật cho thấy khi chuột béo phì được điều trị
bằng dịch chiết giàu ílavonoid từ lá Bằng lăng (.Lagerstroemỉa specciosa L.) thì có trọng lượng
giảm đáng kể (~ 10%) [68]. Thí nghiệm tương tự với ílavonoid từ lá Kim ngân (Lonỉcera ịaponìca
Thunb.) đối với chuột cống trắng uống cholesterol cũng cho thấy có tác dụng làm giảm các chỉ số
cholesterol, triglyceride, LDL-C đồng thời tăng HDL-C [29]. Naringin (C17H32O4) và Hesperidin
(C28H34O15) là những Aavonoid có hàm lượng cao trên họ Cam chanh (Rutaceae) đã được nhiều
nhà nghiên cún chiết xuất và thử tác dụng trên mô hình chuột béo phì cho kết quả tốt trong việc làm
hạ các chỉ số lipid máu [28] [34].
Tác dụng hạ glucose huyết
Một số ílavonoid được tách chiết từ nguyên liệu thực vật đã được chứng minh là có tác dụng
điều hoà glucose huyết như: Quercetin có trong Đỗ trọng (Eucommia uỉmoides Oliver.) [56],
8
Hesperidin và Naringin có trong các cây thuộc họ Rutaceae [46] [48]. Genistein và Daidzein có
trong đậu nành (Glycỉne max L.) [11], Myricetin có trong cây Vông vang (Abelmoschus moschatus)
[11] Đã có một số nghiên cứu tác dụng của Naringin của các loài Citrus (họ Cam) có vai trò hạ
glucose và lipid máu của bệnh béo phì và tiểu đường [48].
l. LL2.2.Tannín thực vật
Tannin là các hợp chất phenolic có trọng lượng phân tử cao có chứa các nhóm hydroxyl và
các nhóm chức khác như có khả năng tạo phức với protein và các phân tử lớn khác trong điều kiện
môi trường đặc biệt. Tannin thường là các họp chất vô định hình, có màu trắng, màu vàng nhạt hoặc
gần như không màu, có hoạt tính quang học, vị chát, dễ bị oxy hoá khi đun nóng hay khi để ngoài
ánh sáng.
Tác dụng sinh học của tannin là chất bảo vệ cây trồng trước sự tấn công của vi sinh vật gây

bệnh và côn trùng ăn lá [44][51]. Trong y học, tannin được sử dụng làm thuốc cầm máu, chữa đi
ngoài, ngộ độc kim loại nặng, chữa trĩ, viêm miệng, viêm xoang, điều trị cao huyết áp và đột qụy
[1 ].
Hình 1.4. Cấu trúc hóa học của tannin
1.1.1.2.3. Phân nhóm coumarin
Coumarin là các dẫn chất của a-pyrone có cấu trúc C
6
-C3, dị vòng chứa oxy và có trong
nhiều loại cây. Coumarin là những chất kết tinh không màu, hoặc có màu vàng nhạt, vị đắng, một
số lớn dễ thăng hoa, có mùi thơm giống như mùi thơm của valinin hay của cỏ mới khô [26]. về hoá
học, coumarin có thể tồn tại trong cây ở dạng aglycon tan nhiều trong các dung môi hữu cơ kém
phân cực và dạng kết họp với đường glucose tạo thành glycoside dễ tan trong nước. Hiện nay đã có
hơn 1500 loại coumarin khác nhau tồn tại trong tự nhiên trong 800 loài thực vật đã được nhận dạng
9
[52]. Trong cây, coumarins được coi là một trong số các chất “phòng thủ hoá học hữu hiệu” giúp
thực vật tránh được những bất lợi do môi trường và dịch bệnh gây ra. Trong đời sống hàng ngày,
coumarin được sử dụng làm nước hoa, hương liệu, bán tổng họp các chất hoá học khác nhau, đặc
biệt là các chất chống đông máu và chất diệt loài gặm nhấm. Trong y học, tác dụng đáng chú ý của
dẫn chất coumarin là tác dụng chống co thắt, làm giãn nở động mạch vành, làm bền và bảo vệ thành
mạch. Nhiều chất coumarin có tính kháng khuẩn, một số khác có tác dụng kháng viêm, kháng nấm,
kháng khối u, trừ giun sán, giảm đau và hạ nhiệt.
Hình 1.5. Cấu trúc hóa học của coumarin
1.1.1.3. Alkaloid thực vật
Alkaloid là những hợp chất chứa nitơ, không những chỉ có trong thực vật mà còn có cả trong
động vật. Nguyên tử nitơ có thể là một phần, hoặc không phải là một phần của hệ thống dị vòng.
Chúng có cấu trúc phân tử phức tạp, có hoạt tính Sinh - dược rõ rệt và phân bố hạn chế trong giới
thực vật [69]. Hiện nay đã có hơn 12000 loại alkaloid khác nhau được phân lập. Trong cây, alkaloid
tồn tại dưới 3 dạng: dạng tự do, dạng muối của các axit phổ biến như citric, lactic, oxalic, axetic,
malic .và dạng oxit nitơ. Alkaloid không phổ biến rộng ở tất cả các loài thực vật mà chỉ tập trung
ở một số ít loài, chủ yếu được tìm thấy trong các loài thực vật có hoa, nhưng chỉ có khoảng 20% số

loài thực vật có hoa là có thể sản sinh ra alkaloid. Đa số alkaloid không có mùi, vị đắng, một số ít
có vị cay, ở dạng chất rắn có màu trắng, trừ một vài chất có màu vàng (berberin, palmatin). về vai
trò sinh học, các alkaloid được coi là một trong những “hàng rào phòng thủ hoá học hữu hiệu” bảo
vệ cây trước sự tấn công của vi sinh vật gây bệnh và các loại côn trùng, sâu bệnh ăn lá [72]. về y
học, alkaloid được sử dụng rất đa dạng: làm thuốc gây ức chế, hoặc kích thích hệ thần kinh trung
ương, dùng làm thuốc điều hoà huyết áp, chữa loạn nhịp tim, thuốc diệt ký sinh trùng, kháng khuẩn,
thuốc chống ung thư và nhiều tác dụng quan trọng khác. Dưới đây là 3 dạng alkaloid điển hình:
Caffeine morphine Nicotin
1
Hình 1.6. Các dạng alkaloid điển hình
1.1.2 Vai trò của các họp chất thực vật thử sinh
Các họp chất thứ sinh có rất nhiều vai trò quan trọng, mang chức năng sinh thái đặc biệt,
giúp cho thực vật sống sót, phát triển và tồn tại:
- Giúp cơ thể chống lại bệnh tật, ký sinh trùng và các vi sinh vật gây nhiễm bệnh.
- Giúp cơ thể chống lại các yếu tố bất lợi trong quá trình sinh tồn.
- Tạo lợi thế cạnh tranh giữa các loài khác nhau.
- Tạo thuận lợi cho các quá trình sinh sản: Nhiều sắc tố ílavonoid đóng vai trò là chất dẫn dụ động
vật và côn trùng tham gia vào việc thụ phấn và phát tán hạt. [17][26][56].
1.1.3. ứng dụng của các họp chất thực vật thử sinh
- Công nghệ Y- Dược: Rất nhiều họp chất thứ sinh được sử dụng để sản xuất nhiều loại thuốc điều trị
các bệnh khác nhau như: Quinin dùng làm thuốc trị sốt rét, quinidin dùng làm thuốc trợ tim, daizein
dùng làm thuốc chống ung thư [17][18].
- Công nghệ hoả thực phẩm: Dùng làm gia vị, phẩm màu, hương liệu
- Công nghệ hoả mỹ phẩm: Dùng làm nước hoa, xà phòng, mỹ phẩm
- Sản xuất hàng tiêu dùng: Dùng làm dung môi, keo dán, hàng dệt
may
- Dùng làm nguyên liệu sản xuất thuốc bảo vệ thực vật.
1.2. Bệnh béo phì (Obesity)
1.2.1. Khái niệm và phân loại bệnh béo phì
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa béo phì (obesity) là tình trạng tích luỹ mỡ quá mức

và không bình thường tại một vùng hay toàn bộ cơ thể gây ảnh hưởng tới sức khoẻ.
Đe nhận định tình trạng béo gay WHO thường dùng chỉ số khối cơ thể (BMI - Body Mass
Index). Chỉ số khối cơ thể được tính theo công thức như sau:
w
~ /TT\
2
Trong đó: W: Khối lượng (kg)
H: Chiều cao (m)
1
Bảng 1,1. Phân loại BMI của ngưòl trưởng thành Châu Âu và Châu Á [3]
1.2.2. Thực trạng béo phì trên Thế giới và Việt Nam
Theo tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay số người béo phì trên thế giới đã lên đến hơn 1,7 tỉ
người. Trên thế giới cứ 4 người trưởng thành thì có một người béo phì, tức là số người béo phì ở độ
tuối trưởng thành trên thế giới chiếm 25% [3]. Tình trạng béo phì đang tăng lên với tốc độ báo
động, không những ở các quốc gia phát triển mà ở cả các quốc gia đang phát triến. Tỉ lệ người béo
phì ở Mỹ chiếm tới hơn 30%, Trung Quốc có hơn 20% số người thừa cân và béo phì. số người béo
phì cũng đang báo động ở châu Âu, đúng đầu bảng là nước Anh với hơn 23% số người béo phì, và
châu Âu hiện có tới hon 14 triệu trẻ em thừa cân và béo phì. Còn ở châu Mỹ thì Braxin cũng là
nước có tỉ lệ người dân bị béo phì cao (chiếm 16%) [3] .
Theo tiêu chuẩn châu Á, Việt Nam hiện có 16,8% số người ở độ tuổi từ 25 - 64 đã thừa cân,
béo phì. Theo đó thì cứ 100 người trong độ tuổi trưởng thành thì có 17 người béo phì, và tỉ lệ người
béo phì ở thành phố gấp 3 lần ở nông thôn. Tình trạng thừa cân béo phì tăng nhanh ở tuối ngoài 45
(chiếm 2/3 số người béo phì) và nữ giới có tỉ lệ béo phì cao hơn nam giới. Còn đối với trẻ em thì
tình trạng béo phì cũng ở mức đáng ngại. Theo kêt quả điều tra của Viện dinh dưỡng: Ở Hà Nội có
tới 4,9% số trẻ ở độ tuổi từ 4 - 6 bị thừa cân béo phì. Ớ Thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ này còn cao
hơn nhiều, có tới 6% số trẻ dưới 5 tuổi và 22,7% số trẻ đang học ở cap I bị thừa cân béo phì. Đây
thật sự là mối đe dọa tiềm ẩn trong tương lai, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của mỗi người và sự phát
triển của kinh tế và xã hội [3].
1.2.3. Nguyên nhân gây ra bệnh béo phì
Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng on định là nhờ trạng thái cân bằng giữa năng

lượng do thức ăn cung cấp và năng lượng tiêu hao cho lao động và các hoạt động khác của cơ thể.
Mức độ thể trọng
Người trưởng thành
châu Á
Người trưởng thành
châu Âu
Nhẹ cân <18,5 <18,5
Bình thường 18,5-22,9 18,5-24,9
Quá cân >23 > 25 - 29,9
Béo phì độ 1 >23 - 24,9 30 - 34,9
Béo phì độ 2 25 - 29,9 35 - 39,9
Béo phì độ 3 >30 >40
1
Cân nặng của cơ thể tăng lên có thể do chế độ ăn dư thừa vượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm
việc tĩnh tại ít tiêu hao năng lượng.
Khâu phần ăn và thói quen ăn uống: Năng lượng (calorie) được đưa vào cơ thể qua thức ăn,
thức uống được hấp thụ và được oxy hoá đế tạo thành nhiệt lượng. Năng lượng ăn quá nhu cầu sẽ
được dự trữ dưới dạng mỡ.
Chế độ ăn giàu chất béo (ỉỉpỉđ) có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỉ lệ béo phì. Các thức ăn
giàu chất béo thường ngon nên người ta ăn quá thừa mà không biết. Vì vậy, khấu phần ăn có nhiều
mỡ, dù số lượng nhỏ cũng có thể gây thừa calorie và tăng cân. Không chỉ ăn nhiều mỡ, thịt mà ăn
nhiều chất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo.
Việc thích ăn nhiều đường, ăn nhiều món xào, rán, những thức ăn nhanh nấu sẵn và miễn
cưỡng ăn rau quả là một đặc trưng của trẻ béo phì. Thói quen ăn nhiều vào bữa tối cũng là một
điếm khác nhau giữa người béo và người không béo.
Vận động thế lực kém: Cùng với yếu tố ăn uống, sự gia tăng tỉ lệ béo phì song song với sự
giảm hoạt động vận động thể lực trong một lối sống tĩnh tại hon, thời gian dành cho xem tivi, đọc
báo, làm việc bang máy tính, nói chuyện qua điện thoại nhiều hơn.
Kiểu sống tĩnh tại cũng giữ vai trò quan trọng gây nên béo phì. Những người ít hoạt động
thể lực, thường ăn những thức ăn giàu năng lượng, khi họ thay đổi lối sống và hoạt động nhưng vẫn

giữ thói quen ăn nhiều cho nên họ bị béo phì. Điều này giải thích béo phì biểu hiện ở tuổi trung
niên, hiện tượng béo phì ở các vận động viên sau khi giải nghệ và công nhân lao động chân tay có
xu hướng béo phì khi về hưu.[3][27][31].
Yeu to di truyền: Đáp ứng phát sinh nhiệt kém có thể do yếu tố gen di truyền. Yeu tố di
truyền có vai trò nhất định đối với những trẻ béo phì thường có cha mẹ béo và đã được nghiên cún
trên chuột vói các gen ob ob. Tuy vậy nhìn trên đa số cộng đồng thì yếu tố này không lớn.
Yeu tố kỉnh tế xã hội: Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ người béo phì ở tầng lóp nghèo
thường thấp (thiếu ăn, lao động chân tay nặng, phương tiện đi lại khó khăn) và béo phì thường được
coi là một đặc điểm của người giàu có. Ở các nước đã phát triển, khi thiếu ăn không còn phổ biến
nữa thì tỉ lệ béo phì lại thường cao ở tầng lớp nghèo, do thói quen ăn uống thiếu khoa học của họ.
1.2.4. Tác hại và những nguy cơ của bệnh béo phì
Mất thoải mải trong cuộc sống: Người béo phì thường có cảm giác khó chịu về mùa hè do
lớp mỡ dày như một hệ thống cách nhiệt. Người béo phì cũng thường xuyên cảm thấy mệt mỏi
chung toàn thân, hay nhức đầu, tê buốt ở hai chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái.
1
Giảm hiệu suất lao động: Người béo phì làm việc chóng mệt, nhất là ở môi trường nóng.
Mặt khác do khối lượng cơ thể quá nặng nề nên để hoàn thành một động tác, một công việc trong
lao động, người béo phì mất nhiều thì giờ hơn và mất nhiều công sức hơn. Hậu quả là hiệu suất lao
động của người béo phì giảm rõ rệt hơn so với người bình thường.
Kém lanh lợi: Người béo phì thường phản ứng chậm chạp hơn so người bình thường trong
sinh hoạt cũng như trong lao động. Hậu quả là rất dễ bị tai nạn xe cộ cũng như tai nạn lao động.
[27].
Hai nguy cơ rõ rệt ở người béo phì:
Tỉ lệ bệnh tật cao, béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ chính của các bệnh mãn tính
không lây như rối loạn lipid máu, bệnh mạch vành, đái tháo đường không phụ thuộc insulin
(thường gọi là ĐTĐ type 2), sỏi mật Ớ phụ nữ mãn kinh, các nguy cơ ung thư túi mật, ung thư vú
và ung thư tử cung tăng lên, còn ở nam thì bệnh ung thư thận và ung thư tuyến tiền liệt hay gặp
hơn.[31].
Tỉ lệ tử vong cũng cao hơn, nhất là trong những bệnh kể trên. [53][55].
1.2.5. Giải pháp phòng và điều trị bệnh béo phì

Nguyên tắc cần thiết để phòng và điều trị bệnh béo phì là: Thực hiện một chế độ ăn uống
họp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì sự ổn định cân nặng của cơ thế. Các biện pháp cụ
thể là:
- Chế độ ăn: Đảm bảo đủ năng lượng, ít đường, ít chất béo, đủ đạm, vitamin, nhiều rau quả
- Luyện tập thể dục thường xuyên ở môi trường thoáng đãng.
- Xây dựng nếp sống năng động, tăng cường các hoạt động thể lực.
Đối với những bệnh nhân béo phì, ngoài các biện pháp kể trên còn kết
họp với sử dụng thuốc hoặc phẫu thuật.
- Sử dụng thuốc: Thuốc giảm cân không được sử dụng vì mục đích thẩm mỹ, mà chỉ được sử dụng
cho những bệnh nhân có BMI lớn hon 27 và có các vấn đề về sức khoẻ mà phải giảm cân thì mới
cải thiện được. Các loại thuốc thường được sử dụng hiện nay là:
+ Metformin: Có tác dụng giảm mỡ máu dẫn đến giảm trọng lượng, tuy nhiên nó cũng hay
gây tác dụng phụ là buồn nôn, tiêu chảy, gây toan máu
+ Orlistat (Xenical): Làm ức chế lipase và sự hấp thu mỡ ở một, tác dụng phụ của orlistat là
làm suy giảm khả năng hấp thụ vitamin tan trong mỡ.
+ Các thuốc ức chế sự thèm ăn như: Ephedrine, caffeine [3][31 ].
Tuy nhiên sử dụng thuốc cũng thường gây ra những tác dụng phụ không mong muốn, nên
1
cần hết sức thận trọng khi sử dụng thuốc.
- Phẫu thuật để giảm cân: áp dụng đối với những bệnh nhân có BMI trên 35, kèm theo các bệnh lý và
rối loạn liên quan. Phẫu thuật mang lại thành công rất lớn, nhiều người giảm được đến 50% cân
nặng trong vòng 1 - 2 năm đầu sau phẫu thuật, tuy nhiên nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như
suy nhược, khô da, rụng tóc tạm thời [3][65].
1.2.6. Rối loạn trao đối lipid máu
Huyết thanh người bình thường có 5 - 7 g/1 lipid toàn phần bao gồm acid béo tụ’ do,
triglyceride, cholesterol toàn phần với hai dạng cholesterol tự do và cholesterol este, các
photpholipid. Vì không tan trong nước nên lipid được vận chuyển trong máu dưới dạng kết họp với
các protein đặc hiệu. Các acid béo tự do được vận chuyển chủ yếu bởi albumin, các lipid khác được
lưu hành trong máu dưới dạng phức hợp lipoprotein như: các hạt chymomicron, VLDL, HDL, IDL,
LDL. Các lipoprotein này có kích thước, thành phần, tỉ trọng và chức năng khác nhau trong quá

trình chuyển hoá lipid [9] [24] [53] [73].
Đe đánh giá lượng mỡ trong máu người ta làm xét nghiệm với các chỉ

SÔ:
❖ Cholesterol toàn phần (2,9 - 5,2 mmol/1)
❖ Triglycerid (0,8 - 2,3mmol/l)
❖ HDL - c (0,90 - 1,50 mmol/1)
❖ LDL - c (0,5 - 3,4 mmol/1)
Tình trạng rối loạn hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong máu, hậu quả là sự tạo
thành các mảng xơ vữa gây tắc mạch làm tăng nguy cơ biến chứng tim mạch và đột qụy, tăng các
biến chứng mạch máu khác, hậu quả nặng nề nhất là dẫn đến tử vong hoặc tàn phế gọi là rối loạn
chuyển hoá [3]. Ngày nay người ta đã xem là có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ thành phần của
lipid máu có sự thay đổi. Khái niệm này chỉ rõ rối loạn lipid máu có thể xảy ra từ rất sớm, ngay cả
khi chưa có tăng các giá trị tuyệt đối nồng độ của các thành phần trong máu [3]. Rối loạn này có
thể tiên phát do di truyền hoặc thứ phát sau các bệnh khác như: Béo phì, ĐTĐ, nghiện rượu, suy
giáp trạng.
Fredrickson căn cứ vào kĩ thuật điện di và siêu ly tâm với các thành phần huyết thanh đã phân loại
chứng tăng lipid máu thành 5 type dựa trên những thay đổi thành phần lipoprotein. Cách phân loại
này đã được WHO chính thức sử dụng vào năm 1970 [23]. Nhiều nghiên cún đã chứng minh người
mắc bệnh béo phì có nguy cơ cao mắc các bệnh rối loạn lipid máu dẫn đến xơ vữa động mạch (liên
1
quan chủ yếu đến các lipoprotein) hoặc hiện tượng “nhiễm độc mỡ tế bào” [19][23].
1.2.7. Mối quan hệ giữa béo phì và đái thảo đường
Béo phì và ĐTĐ là hai bệnh không truyền nhiễm nguy hiếm nhất của thế kỷ 21. Hai căn
bệnh này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thế hiện ở chỗ tỉ lệ người béo phì luôn tăng tương
đương với số bệnh nhân bị ĐTĐ. Một cuộc khảo sát của Mỹ gần đây đã chỉ ra rằng có tói 58% số
người bị ĐTĐ type 2 được quy cho là do béo phì. Béo phì liên quan tới ĐTĐ type 2 thông qua sự
đề kháng insulin. Nồng độ acid béo tự do cứ tăng 100|jM thì mức đề kháng insulin tăng khoảng 5 -
10% [3]. Thiếu insulin dẫn đến sự tăng trọng lượng cơ thể, tăng đường máu, cuối cùng dẫn đến
bệnh ĐTĐ type 2.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa béo phì và bệnh ĐTĐ type 2 bao gồm:
Chỉ số khối cơ thể, thời gian béo phì, chế độ dinh dưỡng, sự vận động thân thể Một thống kê đã
chỉ ra rằng những người có chỉ số khối cơ thế lớn hơn 30 kg/m
2
trong 10 năm có nguy cơ mắc bệnh
ĐTĐ type 2 cao gấp 2 lần người bị béo phì dưới 5 năm và nếu trọng lượng tăng 1 kg thì rủi ro về
bệnh ĐTĐ type 2 tăng 4,5% [31]. Đây chính là cơ sở để Reed và cộng sự đưa ra phương pháp gây
mô hình ĐTĐ thực nghiệm ở động vật bằng cách tiêm STZ liều đơn cho chuột đã được vỗ béo
nhiều ngày [60][67]. Tại Việt Nam, Trần Thị Chi Mai đã áp dụng phương pháp này và đạt hiệu quả
90% chuột xuất hiện ĐTĐ với nồng độ glucose máu > 10 mmol/1 [19].
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy acid béo tự do có vai trò trong bệnh sinh ĐTĐ type 2.
Phần lớn người béo phì có nồng độ acid béo trong huyết tương tăng cao. Sự tăng này ức chế quá
trình hấp thu glucose ngoại vi dưới tác dụng của insulin, ức chế sử dụng glucose của toàn cơ thể, ức
chế oxy hoá glucose ở cơ [32].
ĐTĐ đặc trung bởi sự rối loạn chuyển hoá glucid, sự rối loạn này ảnh hưởng đến môi trường
nội môi do đó kéo theo hoặc làm cho quá trình rối loạn chuyển hoá lipid ở mỗi loại ĐTĐ mang
những đặc trưng riêng. Đặc trưng chung của rối loạn chuyển hoá lipid trong ĐTĐ là sự tăng
triglyceride, giảm HDL -c và LDL-C vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên ở ĐTĐ type 1
rối loạn tăng triglyceride sẽ mất đi khi kiểm soát được glucose máu khác với type 2, rối loạn này có
thể vẫn kéo dài mặc dù có sự điều trị giảm glucose máu thích hợp. LDL-C của type 2 cũng có thế
tăng nhẹ và xuất hiện nhiều LDL-C với kích thước nhỏ và nặng hơn khi việc kiếm soát glucose
kém. Đây chính là yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh xơ vữa động mạch [19].
1
1.3. Bệnh đái tháo đường
1.3.1. Khái niệm và phân loại
Danh từ đái tháo đường (diabetes mellitus) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (diabetes: nước
chảy trong ống syphon) và tiếng Latinh (mellitus: ngọt) [73]. Khoảng 1550 năm trước công nguyên
các thầy thuốc Hy Lạp đã mô tả bệnh này với các triệu chứng ăn nhiều, uống nhiều, tiếu nhiều,
nước tiểu có đường và sút cân nhanh [3]. PGS.TS. Tạ Văn Bình thì định nghĩa ĐTĐ là một hội
chứng có đặc tính biểu hiện bằng tăng đường máu, do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc

là do có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết và hoạt động của insulin. Bệnh ĐTĐ được xác định
dựa vào những tiêu chí trong bảng 1.2. [3].
Dựa vào những hiểu biết về nguyên nhân phát sinh bệnh, uỷ ban chuyên gia về chẩn đoán và
phân loại ĐTĐ của WHO chia ĐTĐ thành các loại như sau:
♦♦♦ ĐTĐ type 1: Thường xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên, khởi phát ở các cá thế có tính
mẫn cảm về di truyền với bệnh. Nguyên nhân chính của bệnh là tế bào p đảo tụy Langerhans bị
phân huỷ dẫn đến mất khả năng sản xuất insulin - một hormone điều hoà lượng đường trong máu.
Quá trình huỷ hoại tế bào (3 do cơ chế tự miễn [3][25]. Người ta đã biết đến 18 vùng gen liên quan
đến type này được ký hiệu từ IDDM1 đến IDDM18. Các gen này chủ yếu liên quan đến những yếu
tố kháng nguyên bạch cầu người HLA hoặc gen mã hoá insulin [11].
❖ ĐTĐ type 2: Chiếm 80% - 90% bệnh nhân, có tính quy tụ gia đình và hay gặp ở những người trên
30 tuối. Hai yếu tố chính đóng vai trò quan trọng trong cơ thể sinh ĐTĐ type 2 là khiếm khuyết
chức năng tế bào (3 tuyến tụy và tình trạng kháng insulin [3][31]. Hai yếu tố này luôn có tác động
qua lại với nhau và không thể kết luận yếu tố nào xuất hiện trước. Kháng insulin có thể do bất
thường ở hậu thụ the insulin, bất thường về số lượng receptor insulin hoặc ái lực gắn hormone của
insulin và cũng có thể do acid béo tự do tăng cao gián tiếp làm ảnh hưởng quá trình truyền tin nội
Bảng 1.2. Các tiêu chí để chuẩn đoán ĐTĐ theo WHO [3]
Kết Luận
Đường huyết
lúc đói
(mmol/1)
Đường huyêt 2 giờ sau
khi làm nghiệm pháp
tăng đường huyết
(mmol/1)
Đường huyêt
tại thòi điểm
bất kì
(mmol/1)
Đái tháo đường >7 >11,1

>11,1 kèm
triệu chứng
uống nhiều,
đái nhiêu và
gầy sút
Rôi loạn dung
nạp đường
5,6- 7 7,8- 11 ,1
Bình thường <5,6 <7,8
1
bào của insulin ở tế bào đích. Bởi vậy, bệnh béo bệu là một trong những nguyên nhân môi trường
được đề cập đến nhiều nhất vì chính béo bệu làm gia tăng tình trạng kháng insulin [11].
Sinh bệnh học ĐTĐ type 2 diễn biến qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Mặc dù nồng độ glucose trong máu vẫn bình thường, nhưng có hiện tượng kháng
insulin vì insulin tăng cao hơn mức bình thường trong máu.
- Giai đoạn 2: Tình trạng kháng insulin có xu hướng nặng dần do có hiện tượng tăng glucose huyết
sau ăn.
- Giai đoạn 3: Kháng insulin không đổi nhưng bài tiết insulin suy giảm gây tăng glucose huyết lúc
đói, bệnh ĐTĐ biểu hiện ra bên ngoài.
❖ Ngoài ra còn có ĐTĐ thai nghén và một số type ĐTĐ đặc biệt khác như thiếu hụt chức năng tế bào
(3, thiếu hụt di truyền về tác động của insulin, bệnh tụy ngoại tiết,
1.3.2. Thực trạng đái thảo đường Thế giới và Việt Nam
Cùng với các bệnh không lây nhiễm khác, bệnh ĐTĐ đang phát triến với tốc độ nhanh
chóng cùng sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Năm 1994, toàn Thế giới có 110 triệu người mắc
ĐTĐ. Năm 1995 đã tăng lên 135 triệu người chiếm 4% dân số thế giới. Dự đoán đến năm 2010 có
khoảng 221 triệu và năm 2025 có khoảng 300 triệu bệnh nhân chiếm 5,4% dân số thế giới. Đặc biệt
ngày nay tỉ lệ người mắc bệnh ở châu Á đã vượt xa châu Âu - nơi vẫn được xem là 0 bệnh [1]. Tại
Tây Thái Bình Dương có 12 quốc gia có tỉ lệ ĐTĐ type 2 trên 8%, cá biệt có quốc đảo có tỉ lệ bệnh
vượt 40% [13].
Việt Nam hiện nay ĐTĐ đang gia tăng rất nhanh. Năm 1990, Hà Nội có tỉ lệ mắc bệnh là

1,2%, Huế 0,96%, Thành phố Hồ Chí Minh là 2,52%.
Theo điều tra quốc gia năm 2002 cho thấy tỉ lệ người mắc bệnh ĐTĐ lứa tuổi từ 30 - 64 trong toàn
quốc là 2,7% (khu vực đô thị và khu công nghiệp tỉ lệ tới 4,4%). Đặc biệt bệnh này trong nhóm
người có yếu tố nguy cơ là rất cao (10,3%)- Hiện nay, có khoảng 2 triệu người mắc bệnh ĐTĐ
nhưng có tới 65% số đó không biết mình đã mắc bệnh. Theo PGS. TS Tạ Văn Bình: ĐTĐ type 2 ở
lứa tuối thanh thiếu niên ngày một tăng nhanh, đây là một vấn đề rất đáng lưu tâm.
1.3.3. Tác hại và biến chứng
ĐTĐ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và khả năng làm việc của người lao động, nhưng hơn
cả là nguy cơ biến chứng của bệnh nhân thường rất cao
[3]:
- Biến chứng mắt như: Bệnh lý võng mạc (27,8%), đục thuỷ tinh thể (6,1%) tăng sinh gây mù loà
1
(1,1%) Bệnh về võng mạc tăng dần theo thời gian phát hiện bệnh.
- Biến chúng thận như: Microalbumin niệu (11,6%), macroalbumin (3%), suy thận từ độ 1 đến độ 4
(3,5%)
- Biến chứng thần kinh ngoại vi: Giảm hoặc mất phản xạ gân xương hoặc cảm giác rung
- Tổn thương bàn chân: Tuỳ từng mức độ như phỏng rộp, biến dạng, loét, hoại thư, cắt cụt,
- Biến chứng mạch máu lớn: Mạch vành có tới (38%), đột qụy (1,2%), tăng huyết áp (27,6%)
1.3.4. Phòng và điều trị bệnh ĐTĐ
Trừ những nguyên nhân di truyền thì ăn uống sinh hoạt họp lý điều độ và khám sức khoẻ
định kỳ là phương thức chung đế phòng bệnh nói chung và bệnh ĐTĐ nói riêng. Tuỳ theo loại ĐTĐ
mà việc điều trị bằng thuốc là khác nhau:
- Insulin và các thuốc kích thích bài tiết insulin như Sulfonflurea, Nateglinid (Starlix)
- Thuốc làm tăng tính nhạy cảm của thụ thể với insulin như: Biguanid, nhóm thiazolidinedion
- Các thuốc chống tăng glucose huyết sau bữa ăn: Thuốc ức chế enzyme a - glucosidase
1.3.5. Đái tháo đường với y học cố truyền
Theo quan niệm đông y ĐTĐ thuộc phạm vi chứng tiêu khát với ba triệu chứng chính là ăn
nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều do ăn quá nhiều các chất cay, béo, ngọt làm mất cân bằng âm dương
trong cơ thể tạo thành hoả nhiệt, uất nhiệt làm phần âm của phủ tạng như âm, vị, thận bị hao tổn.
Hoả nhiệt làm phế hư gây chứng tiêu khát, vị âm gây chứng gầy đói, thận hư gây tiểu nhiều và tiểu

ra đường. Xuất phát từ quan niệm đó nên phương pháp điều trị chủ yếu là dưỡng âm, thanh nhiệt
sinh tân dịch làm cơ thể lập lại cân bằng âm dương trong cơ thể. Thảo dược hay dùng là sinh địa, cỏ
ngọt, mưóp đắng, hoàng kỳ, huyền sâm [5][18].
1.3.6. Chuyển hoá glucose và sự điều hoà glucose huyết
Glucose trong cơ thể có nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thông qua quá trình tiêu hoá. Vào các
thời điểm xa bữa ăn hoặc khi glucid thức ăn không đủ, cơ thể sẽ huy động nguồn glucose thứ hai
nhờ sự thoái hoá glycogen ở gan, cơ. Ngoài ra glucose còn có được nhờ quá trình tân tạo glucose
nhò' hệ thống enzyme đặc hiệu riêng biệt (xảy ra ở gan, thận, ruột) từ pyruvat, lactat hay các sản
phẩm trung gian của chu trình Krebs.
Glucose sau khi được hấp thu hoặc tạo thành trong cơ thể sẽ tan trong máu và được vận
chuyển vào trong tế bào nhờ các protein vận chuyến. Cuối cùng glucose sẽ thoái hoá đế tạo năng
lượng hay các sản phẩm trung gian thông qua quá trình đường phân, chu trình pentose phosphate
hay con đường tạo uronic và ascorbic. Glucose dư thừa khi nhu cầu năng lượng của cơ thể thấp lại
1
được chuyển thành dạng glucid dự trữ là glycogen ở gan [24].
Đe duy trì nồng độ glucose ổn định trong máu cơ thể phải huy động nhiều cơ chế, có sự xúc
tác của nhiều loại enzym khác nhau nhằm cân bằng giữa lượng glucose đi vào máu và lượng
glucose được thu nạp bởi các tổ chức. Trong đó quan trọng nhất là việc điều hoà quá trình tân tạo
glucose và quá trình thoái hoá glucose có sự tham gia của nhiều protein vận chuyển glucose qua
màng tế bào (các GLUT).
Glucose trong cơ thể được điều hoà ổn định bởi các hormone mà chủ yếu là các hormone
tuyến tụy nội tiết. Insulin là hormon tiết bởi các tế bào ß của đảo tụy Langerhans có tác dụng làm
giảm glucose máu do làm tăng dự trữ glycogen ở gan, cơ, ức chế quá trình tân tạo đường mới.
Glucagon là hormon tiết bởi tế bào a đảo tụy, có tác dụng ngược với insulin, nghĩa là làm tăng sự
phân giải glycogen và tăng tân tạo đường mới do đó tăng glucose huyết.
1.4. Cây Phật thủ [5]
Phật thủ: Citrus medica L. var. sarcodactyỉis (Noot.) Swingle, thuộc họ Cam - Rutaceae.
1.4.1. Mô tả: Cây bụi hay cây gỗ nhỏ, cao 3- 4m, có gai. Lá hình trúng, chóp hơi tròn, có khi lõm,
gốc thuôn, cuống ngắn. Hoa trắng. Quả dài, vỏ mầu vàng sẫm, có nhiều múi chạy dọc theo quả,
phía ngọn tách ra trông như những ngón tay chụm lại; cùi dày đặc, giòn và có mùi thơm phức.

Cây ra hoa đầu mùa hạ, quả chín vào mùa đông. ỉ.4.2. Bộ phận dùng: Quả - Fructus Citrỉ
Sarcoclactylis, thường gọi là Phật thủ (tay phật). Hoa, lá và rễ cũng được dùng.
1.4.3. Noi sống và thu hái: Là cây trồng lấy quả dùng trang trí mâm quả ngày Tet. Thu hái quả vào
mùa thu đông khi quả chuyển sang mầu vàng. Thái dọc thành từng miếng mỏng rồi phơi hay sấy
khô. Thu hái rễ vào mùa thu. Lá thu hái quanh năm.
1.4.4. Thành phần hoá học: Trong phật thủ có tinh dầu và mầu flavonoid, gọi là hesperidin. vỏ quả
chứa tinh dầu. vỏ quả trong chứa limettin; ngoài ra còn diosmin và hesperidin [54].
1.4.5. Tính vị, tác dụng: Quả có vị cay, chua và đắng, tính ấm, có tác dụng hành khí chỉ thống,
kiện vị, hoá đàm.
1.4.6. Công dụng: Dùng trị: 1. Trướng đầy bụng, đau dạ dày; 2. Chán ăn, nôn mửa; 3. Ho dai dẳng
có nhiều đờm.
1.4.7. Cách dùng: Cũng sử dụng như Thanh yên.
Liều dùng 3 - lOg cùi quả khô, dạng thuốc sắc hoặc dùng với quả ngâm rượu uống.
1.4.8. Đơn thuốc:
1. Viêm dạ dày mạn tính, đau dây thần kinh bụng: Dùng quả tươi 1 0-15 g (hoặc 6g khô), ngâm trong
2
nước sôi và uống thay trà.
2. Ho có đờm, viêm khí quản mạn tính: Nhai cùi cả vỏ nuốt nước; hoặc phối hợp với Bán hạ (đã xử lý
với gừng), mỗi vị 6g, sắc uống, pha them đường kính uống. [5][ 18].
Cũng như Thanh yên, ta có thể dùng hoa, lá và rễ thay thế khi không có
quả.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1. Đối tượng nghỉên cứu
2.1.1. Mầu thực vật
Quả Phật thủ (Citrus medỉca L. var. sarcodactylỉs (Noot.) Swingle). Thời gian thu hái: Được
thu mua vào tháng 11 năm 2009 tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hải Phòng.
A B
Hình 2.1. Quả và cây Phật thủ (A); Quả Phật thủ chín (B)
Xử lí mẫu: Quả tươi được rửa sạch, loại bỏ chất bảo quản bằng máy tạo ozone khử độc
Nonan, đế ráo nước, thái mỏng, sấy khô ở 50°c, sau đó tán thành bột mịn và bảo quản trong dung

dịch ethanol 80%. Tên khoa học được xác định theo Tiến sĩ phân loại thực vật Võ Văn Chi.
2.1.2. Mầu động vật
Chuột nhắt trắng chủng Swiss (14 - 16g) 4 tuần tuổi được mua tại Viện Vệ sinh Dịch tễ TW.
Thức ăn tiêu chuấn được mua tại Viện Vệ sinh Dịch tễ TW.
Thức ăn giàu lipid được trộn từ nhiều thành phần khác nhau như: Ngô, sữa bột nguyên kem,
lạc, lòng đỏ trứng, mỡ lợn, phối trộn theo tài liệu
[60] [71] và dựa theo bảng trích dẫn, phân tích của Viện Dinh Dưỡng Quốc gia [13].
2.1.3. Hoá chất và dụng cụ thí nghiệm
2.1.3.1. Hoả chất
2
- STZ (streptozotocin) Sigma, ST.Louse.
- Silicagel 60 (0,04 - 0,063mm), Merck.
- Các loại dung môi hữu cơ với độ tinh khiết cao như ethanol, n-hexan, chloroform, ethyl acetate của
hãng hoá chất Trung Quốc, các dung môi và hoá chất phân tích của hãng hoá chất Singma (Mỹ),
Merk (Đức).
2.1.3.2. Các dụng cụ thí nghiệm
Máy cô thu hồi dung môi, máy đo quang phổ UV-vis 1000 (Mỹ), máy ly tâm (Sigma, Mỹ),
máy đo đường huyết (Onetouch Ultra, Mỹ) và các dụng cụ thí nghiệm cần thiết khác.
Hình 2.2. Máy đo đường huyết tự động Onetouch Ultra
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tách chiết mẫu nghiên cứu
Quả Phật thủ thái mỏng, sấy khô ở 50°c, sau đó tán thành bột mịn, rồi tiến hành ngâm lạnh
trong EtOH 80%. Chiết rút dịch chiết 3 lần với EtOH 80% (lần 1 ngâm trong 3 tuần, 2 lần sau mỗi
lần ngâm 1 tuần) thu được dịch chiết. Dịch chiết thu được đem lọc 3 lần bằng giấy lọc để loại bỏ
cặn, sau đó được cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được cao EtOH. Cao EtOH hoà
tan trong nước nóng rồi tiếp tục chiết qua các dung môi có độ phân cực tăng dần là n-hexan,
CHCI3, EtOAc, các dịch chiết cũng được loại dung môi thành các cao tương ứng.
2.2.2. Phương pháp khảo sát thành phần hoá học của quả Phật thủ
2.2.2. L Định tỉnh
Cao các phân đoạn được hoà tan trong dung môi thích hợp với từng loại phản ứng

định tính. Các nhóm phản ứng được trình bày tóm tắt trong bảng sau:
2
2.2.2.2. Định lượngpolyphenol tống số theo phương pháp F'olin-Ciocalteau
Nguyên tắc dựa trên phản úng của các hợp chất polyphenol (trong mẫu) với thuốc thử Folin-
Ciocalteau cho sản phẩm màu xanh lam. Soi màu trên máy quang phổ uv VIS 1000 ở bước sóng X
= 765nm, dùng chất chuẩn là acid gallic [66].
Các bước tiên hành như sau:
❖ Chuẩn bị mẫu định lượng và hoá chất
- Dung dịch acid gallic: 0,5g acid gallic + 10 ml C2H5OH + 90 ml H20
bảo quản lạnh. Như vậy dịch chuấn gốc acid gallic có nồng độ 5mg/ml.
- Dung dịch Na
2
C03: 200g Na
2
C0
3
+ 800ml H20 đun sôi. Thêm một vài tinh thể Na
2
CƠ3, sau 24 giờ
đem lọc và dẫn nước cất tới lOOOml.
- Dung dịch mẫu cần định lượng.
Bảng 2.1. Báng các phản ứng định tính đặc trưng [26][39]
Nhóm hoá
chất
Phản ứng Thuốc
thử
Dấu hiệu nhận biết
Flavonoid Shinoda Mg/HCl
Màu đỏ, hồng, da cam xuất hiện chứng tỏ
sự có mặt của flavon, flavonol và các dẫn

xuất hydro của chúng.
Diazo hoá Diazo Phản ứng cho màu da cam là dương tính
Acid
sulfuric
H2SO4
10%
Phản ứng cho màu vàng đậm cho thấy sự
có mặt của flavon và flavonol, màu đỏ
hay nâu cho thấy sự có mặt của chalcon
và auron.
Vanilin/HCl
Màu đỏ son xuất hiện chứng tỏ sự có mặt
của catechin.
Tannin Vanilin/H
2
S0
4
Phản ứng dương tính nếu xuất hiện màu
đỏ đậm.
Dung dịch 5%
Gelatin/1% NaCl
Phản ứng dương tính nếu xuất hiện kết
tủa.
Acetate chì 10%
Phản ứng dương tính nếu xuất hiện kết tủa
.
Polypheno
l
khác
Dung dịch kiềm

Phản ứng dương tính nếu xuất hiện màu
vàng.
FeCl
3
/HCl
Phản ứng dương tính nếu xuất hiện màu
lục, xanh,đen.
Glycoside Keller-Killian
Phản ứng dương tính nếu xuất hiện vòng
đỏ nâu ở bề mặt phân cách giữa hai lớp
chất lỏng
Alkaloid Bouchard
at
Hỗn hợp
KI+I
2
/H
Phản ứng dương tính nếu có mầu đỏ thẫm.
Vans
Mayer
Hỗn hợp
HgCl
2
+
Phản ứng dương tính nếu có kết tủa màu
trắng hoặc vàng nhạt.
Dragendorf
Phản ứng dương tính nếu có kểt tủa màu
da cam.
2

❖ Tiến hành xây dựng đường chuẩn acid gallic
Chuẩn bị cóng định lượng theo số lượng dung dịch gốc như sau: 0, 1,2,
3, 5 và lOml sau đó dẫn nước cất tới lOOml ta thu được các nồng độ 0, 50, 100, 150, 250 và 500 mg/1
acid gallic.
Cho vào mỗi cuvert 20|Lil mẫu thử (dung dịch gallic chuẩn ở các nồng độ hoặc dịch chiết
các phân đoạn) + l,58ml H20 + lOOịil thuốc thử Folin- Ciocalteau sau từ 3 đến 5 phút cho thêm
300|J,1 Na
2
CƠ3. Đe hỗn hợp dung dịch phản úng trong 2 giờ ở 20°c rồi xác định ở bước sóng
765nm. Tiến hành định lượng acid gallic để dựng đường chuẩn.
2
❖ Dụng đường chuẩn acid gallic.
Hình 2.3. Kết quả xây dựng đưòìig chuẩn acỉd gallic
❖ Định lượng phenolic của mẫu nghiên cún bằng cách lấy 20ỊJ1 (0,02ml) để định lượng tương tự như
đã làm với mẫu chuẩn acid gallic.
2.2.2.3. Phương pháp sắc kí lớp mỏng (TLC)
Săc kí lóp mỏng (TLC-thin layer choromatography) là kĩ thuật săc kí khá nhanh gọn và tiện
lợi. Nó giúp nhận biết nhanh được số lượng thành phần có trong mẫu nghiên cứu. Trong phương
pháp sắc kí lớp mỏng, thành phần trong hỗn hợp được xác định nhờ so sánh hệ số lưu của hỗn hợp
(Rf) và hệ số lưu của 1 số chất đã biết.
Nguyên tắc: Kĩ thuật này dựa vào mức độ tương tác của các chất khác nhau với pha tĩnh
(bản mỏng) và pha động (hệ dung môi chạy sắc kí). Pha tĩnh có thế là silicagel, bột AI2O3 hoặc
polyamide Pha động là một hỗn họp từ 2 dung môi trở lên với các độ phân cực khác nhau tuỳ
thuộc vào mẫu phân tích.
ST
T
mg/1
acid
gallic
OD765

nm
1 0
0,009
2
50 0,060
3
100
0,115
4 150 0,168
5 250 0,263
6
500 0,519
2

×