Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP NĂM HỌC 2014 - 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA
NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP
NĂM HỌC 2014 - 2015”
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
VŨ QUANG VINH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC CỦA
NỮ SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH SAU 1 HỌC KỲ HỌC TẬP
NĂM HỌC 2014 - 2015”

Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Người Hướng Dẫn Khoa Học: Sinh viên thực hiện:
Th.S Nguyễn Anh Thuận Vũ Quang Vinh
Chuyên ngành: GDTC
Lớp Điền kinh, Khoá: 34
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
2
Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy – Cô Trường Đại học Thể Dục Thể Thao
Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ và truyền đạt những kiến thức chuyên


môn và xã hội cho em trong suốt quá trình học tập tại trường.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Nguyễn Anh Thuận - Thạc sĩ - Hướng
dẫn đề tài - Giảng viên trường Đại học Thể Dục Thể Thao Thành phố Hồ Chí Minh.
Xin cảm ơn thầy Nguyễn Văn Quận - Thạc sĩ - Trưởng bộ môn giáo dục thể
chất trường Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
giúp em thu thập số liệu.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên và giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Sinh viên
Vũ Quang Vinh
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
3
MỤC LỤC
Trang
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT CÁC TỪ VIẾT TẮT NỘI DUNG
1 BGD&ĐT : Bộ giáo dục và đào tạo.
2 CĐ : Chưa đạt.
3 (cm) : Centimét.
4 Đ : Đạt.
5 ĐH SPKT : Đại học Sư Phạm Kỹ Thuật.
6 ĐH TDTT : Đại Học Thể Dục Thể Thao.
7 GDTC : Giáo dục thể chất.
8 Kg : Kilôgam.
9 KQ : Kết quả.
10 l/(s) : Lần trên Giây.
11 (m) : Mét.
12 ml : Mililít.

13 mm Hg : Milimét thủy ngân
14 Nxb : Nhà xuất bản.
15 RLTT : Rèn luyện thân thể.
16 T : Tốt.
17 TCTL : Tố chất thể lực.
18 SV : Sinh viên.
19 TDTT : Thể dục thể thao.
20 TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh.
21 TT : Thứ tự.
22 XL : Xếp loại.
23 XPC : Xuất phát cao.
24 VĐV : Vận động viên.
DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG
TT Số NỘI DUNG Trang
1 3.1
Thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT
TP.HCM
31
2 3.2
So sánh thực trạng thể lực của nữ sinh viên Trường ĐH
SPKT TP.HCM theo quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT
của Bộ GD&ĐT ban hành (lứa tuổi 19).
33
3 3.3
Tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thực trạng thể lực
ban đầu của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT TP.HCM
theo quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ GD & ĐT
ban hành.
34
4 3.4 Đánh giá sự phát triển các chỉ tiêu thể lực của nữ sinh 37

5
viên Trường ĐH SPKT TP.HCM ban đầu và sau 1 học kỳ
học tập.
5 3.5
Bảng 3.5: So sánh các chỉ tiêu thể lực của nữ sinh viên
Trường ĐH SPKT TP.HCM sau 1 học kỳ học tập theo
quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ GD&ĐT ban
hành (lứa tuổi 19).
40
6 3.6
Tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thể lực sau 1 học
kỳ học tập của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT TP.HCM
theo quyết định 53/2008/QĐ-BGDĐT của Bộ GD & ĐT
ban hành ( lứa tuổi 19).
41
ontents
6
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
TT Số NỘI DUNG Trang
1 3.1
Tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thể lực ban đầu
của nữ sinh viên Trường ĐH SPKT TP.HCM.
35
2 3.2
Giá trị trung bình các chỉ tiêu thể lực của nữ sinh viên
Trường ĐH SPKT TP.HCM ban đầu và sau 1 học kỳ học
tập.
39
3 3.3
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Lực bóp tay thuận (kg) ban đầu

và sau 1 học kỳ học tập.
42
4 3.4
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Nằm ngửa gập bụng (lần/30 s)
ban đầu và sau 1 học kỳ học tập.
42
5 3.5
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Bật xa tại chỗ (cm) ban đầu và
sau 1 học kỳ học tập.
43
6 3.6
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy 30m XPC (s) ban đầu và
sau 1 học kỳ học tập.
43
7 3.7
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy con thoi 4 x 10m (s) ban
đầu và sau 1 học kỳ học tập.
44
8 3.8
Tỷ lệ % xếp loại chỉ tiêu Chạy tùy sức 5 phút (m) ban
đầu và sau 1 học kỳ học tập.
44
9 3.9
So sánh tỷ lệ phần trăm mức phân loại chỉ tiêu thể lực
ban đầu và sau 1 học kỳ học tập của nữ sinh viên Trường
ĐH SPKT TP.HCM.
46
Contents
7
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong thời kỳ hội nhập và phát triển như hiện nay đòi hỏi đất nước phải có
nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó thực tiễn đã đặt ra cho nền giáo dục và
toàn xã hội là phải đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ về nghề nghiệp. trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bồi dưỡng nhân cách- phẩm chất- năng lực, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thể dục thể thao là một bộ phận bộ phận của nền văn hoá của mỗi dân tộc,
cũng như của nền văn minh nhân loại. Trong Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục
đăng trên báo Cứu quốc (ngày 27-3-1946), Bác Hồ đã nêu rõ: “Ngày ngày tập
luyện thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ để giữ gìn dân chủ, xây dựng
nước nhà, gây đời sống mới ” Qua đó ta thấy vai trò của TDTT rất quan trọng
đối với quốc gia, mà muốn phát triển phong tràoTDTT, thì cần chú trọng tới phát
triển bộ môn Giáo dục thể chất (GDTC), Giáo dục thể chất (GDTC) được thực
hiện chủ yếu trong nhà trường, quá trình dạy và học các động tác, bài tập thể dục
thể thao.
Trong các môn thể thao thì Điền kinh không chỉ là một môn thể thao phong
phú, đa dạng, hấp dẫn phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính, Điền kinh luôn được
coi là phương tiện cơ bản, quan trọng trong giáo dục thể chất (GDTC) ở mọi
quốc gia mà là môn học chủ yếu ở trong chương trình giảng dạy thể dục thể thao
(TDTT) trong các trường trung học phổ thông, đại học,…
Điền kinh là một môn thể thao cơ bản chính vì vậy tập luyên môn Điền
kinh có khoa học, có hệ thống sẽ có tác dụng tăng cường sức khỏe và chữa được
một số bệnh như: Thần kinh cơ quan vận động, hệ tim mạch, hệ hô hấp, nội
tạng, các bài tập đi bộ hoặc chạy thường xuyên tim co bóp khỏe hơn, thành
mạch máu co dãn tốt hơn, khả năng hô hấp tốt hơn. Tập luyện Điền kinh không
8
những tác dụng tốt cho sức khỏe con người mà còn là cơ sở phát triển thể lực
cho các môn thể thao khác.
Vì vậy, nhiệm vụ cụ thể của các giờ GDTC ở các trường đại học là: giáo
dục cho sinh viên những hiểu biết và những kỹ năng cần thiết về TDTT, về

những môn thể thao quần chúng và trên cơ sở này bảo đảm phát triển thể lực
toàn diện, củng cố sức khỏe cho các em.
Trong số những bài tập nhằm phát triển thể lực toàn diện, các bài tập điền
kinh đóng vai trò chủ yếu. Những hình thức tập luyện như chạy, nhảy, ném luôn
được đưa vào nội dung trong từng giờ học GDTC. Tập luyện các môn Điền kinh
thường xuyên sẽ tạo điều kiện cho sinh viên phát triển các tố chất thể lực, qua đó
giúp các em tự tin, hoạt bát, năng động hơn trong quá trình học những môn văn
hóa khác.
Học tập Điền kinh còn giúp cho sinh viên phát triển đều đặn những nhóm
cơ chủ yếu, tạo điều kiện hình thành tư thế đúng, điều chỉnh trọng lượng cơ thể,
trong quá trình học tập môn điền kinh sẽ có tác dụng tăng độ dài xương, làm
chiều cao của các em tăng lên. Ngoài ra, việc tập luyện thường xuyên các môn
điền kinh còn góp phần rèn luyện ý chí, giáo dục ý thức, khắc phục khó khăn
cho sinh viên.
Hiện nay, những bài tập điền kinh trở thành nội dung bắt buộc trong
chương trình GDTC cho sinh viên các trường đại học để phát triển các tố chất
thể lực chung (nhanh, mạnh, bền, mềm dẻo khéo léo) cho các em. Chính vì thấy
được vai trò quan trọng của các tố chất thể lực chung nên Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo ra quyết định( số 53/2008/QĐ-BGDĐT) ngày 18 tháng 9 năm 2008 để đánh
giá thể lực chung của học sinh và sinh viên. Tuy nhiên thực tế cho thấy các tố
chất thể lực chung của nữ sinh viên các trường đại học so với tiêu chuẩn của Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo còn nhiều em chưa đạt chuẩn.
9
Vì vậy tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Đánh giá sự phát triển thể lực của
nữ sinh viên trường đại học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM sau 1 học kỳ học
tập năm học 2014-2015”.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Những quan điểm của Đảng và nhà nước về giáo dục thể chất trong

trường học.
1.1.1. Giáo dục thể chất là một mặt của mục tiêu giáo dục toàn diện.
Giáo dục thể chất là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục Xã Hội Chủ
Nghĩa nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện,có tri thức, có đạo đức và hoàn
thiện thể chất. Trong các trường Đại học – Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp,
GDTC cho học sinh, sinh viên được coi là một mặt giáo dục, vừa là một nhiệm vụ
quan trọng, góp phần bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những con người phát triển
toàn diện, có sức khỏe dồi dào, có thể chất cường tráng, có dũng khí kiên cường để
kế tục sự nghiệp của Đảng và nhân dân một cách đắc lực. Cùng với các mặt hoạt
động khác, quá trình GDTC giúp cho học sinh – sinh viên hoàn thiện nhân cách và
các phẩm chất khác, nhằm đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống và nghiệp vụ chuyên
môn.
Tư tưởng về con người phải được phát triển hài hòa giữa thể chất và tinh
thần đã xuất hiện trong kho tàng văn hóa chung của xã hội loài người từ nhiều thế
kỷ trước đây. Từ nhà triết học cổ Hi Lạp A-ris-tốt, những nhà theo chủ nghĩa nhân
đạo thời phục hưng như Mông-ten, những người theo Chủ Nghĩa Xã Hội không
tưởng như Xanh-Xi-Mông, Ô-oen, đến những nhà bác học và giáo dục nổi tiếng
của Nga như M.V.Lômôlôxốp, V.G.Bêlinski, N.G.Strecnưsepski và nhiều người
khác nữa, đã ra sức phát triển, bảo vệ tư tưởng của học thuyết về phát triển hài ḥa
giữa năng lực phát triển thể chất và tinh thần của con người [12].
10
Các Mác và Ăng-Ghen đã chứng minh sự giáo dục phụ thuộc vào điều kiện
sống vật chất, khám phá ra bản chất xã hội, bản chất giai cấp, đồng thời còn chỉ ra
rằng trong Xã hội Chủ nghĩa Cộng Sản tương lai con người phát triển toàn diện là
một tất yếu khách quan, bởi vì đó là nhu cầu của xã hội. Nhấn mạnh vấn đề này
Mác đã viết: “kết hợp với lao động sản xuất với trí dục và thể dục. Đó không những
là biện pháp để tăng thêm sức sản xuất của xã hội, mà còn là biện pháp duy nhất để
đào tạo con ngýời toàn diện” [1].
Lê-Nin tiếp tục đi sâu và phát triển sáng tạo học thuyết về giáo dục toàn
diện. Ngýời nhấn mạnh: “Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần có

thể thao lành mạnh, thể dục, bõi lội, tham quan, các bài tập thể lực, những hứng thú
phong phú về tinh thần: học tập, phân tích, nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả
các hoạt động ấy với nhau” [2].
1.1.2. Giáo dục con người toàn diện theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới và được thế giới
công nhận danh hiệu Anh hùng giải phóng dân tộc. Suốt đời Bác đã hy sinh vì độc
lập dân tộc, lãnh đạo tài tình cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thành công. Bác là người trung thành với học
thuyết Mác-Lênin. Trong chỉ đạo công tác Cách mạng và lãnh đạo sự nghiệp giải
phóng dân tộc Bác cũng rất quan tâm đến công tác TDTT, coi đó là mục tiêu quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục Cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên.
Tháng 3 năm 1941, trong chương trình cứu nước của mặt trận việt Minh,
Bác Hồ đã nêu rõ: “khuyến khích và giúp đỡ nền TDTT quốc dân, làm cho nòi
giống thêm khỏe mạnh”, và ngay sau khi giành chính quyền tháng 8 năm 1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe của nhân dân. Trong
lời kêu gọi toàn dân tập thể dục tháng 3 năm 1946 Người khẳng định vị trí của sức
khỏe trong chế độ mới: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi người dân yếu ớt, tức làm cho cả
nước yếu ớt, mỗi người dân khỏe mạnh tức làm cả nước mạnh khỏe”. Và vì thế
“luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước” [15].
11
Trong thư gửi Hội nghị Cán bộ thể dục thể thao toàn miền Bắc Bác đã dạy:
“muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt, thì cần có sức khỏe. Muốn có
sức khỏe thì nên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao. Vì vậy, chúng ta nên phát
triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời Bác còn căn dặn: “Cán
bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công
tác” nhằm phục vụ sức khỏe nhân dân. Về vị trí của TDTT trong xã hội, Người
khẳng định: “là một trong những công tác cách mạng khác”.
Tư tưởng bao trùm của Bác Hồ trong việc đặt nền tảng xây dựng nền TDTT
mới của nước ta là: Sự khẳng định có tính chất cách mạng của công tác TDTT là

nhu cầu khách quan của một xã hội phát triển, là nghĩa vụ của mỗi người dân yêu
nước. Mục tiêu cao đẹp của TDTT là bảo vệ, tăng cường sức khỏe của nhân dân,
góp phần cải tạo nòi giống, làm cho dân cường nước thịnh, Những ý tưởng đó được
xuyên suốt trong các văn kiện, bài viết của Bác.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và nhà nước về GDTC.
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như trong sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ta hiện nay, thực hiện tư tưởng chỉ đạo của
Hồ Chủ tịch, Đảng và nhà nước ta không ngừng tạo điều kiện để biến học thuyết
phát triển con người toàn diện thành hiện thực.
Chỉ thị 36 CT/TW ngày 24/03/1994 của Ban bí thư Trung ương Đảng(khóa
VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo Dục và Đào Tạo và Tổng cục TDTT thường
xuyên phối hợp chỉ đạo tổng kết công tác GDTC [5]. Cải tiến chương trình giảng
dạy, tiêu chuẩn RLTT, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các
trường học, làm cho việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hằng ngày của hầu hết
học sinh – sinh viên, qua đó phát hiện và tuyển chọn được nhiều tài năng thể thao
cho đất nước.
Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Năm 1992 tại điều
41 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển TDTT, quy định
chế độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các
12
hình thức tổ chức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để không
ngừng mở rộng các hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể
thao” [14].
Luật Giáo dục được Quốc hội khoá IX, Nuớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 02/12/1998 và Pháp lệnh TDTT được Ủy ban thường vụ Quốc
hội thông qua tháng 09/2000 quy định: “Nhà nước coi trọng TDTT trường học,
nhằm phát triển và hoàn thiện thể chất cho tầng lớp thanh thiếu niên và nhi đồng.
GDTC là nội dung giáo dục bắt buộc đối với học sinh, sinh viên được thực hiện
theo hệ thống giáo dục quốc dân từ mần non đến đại học. TDTT trường học bao

gồm việc tiến hành chương trình GDTC bắt buộc và tổ chức hoạt động TDTT ngoại
khoá cho người học. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho học sinh, sinh
viên được tập luyện TDTT phù hợp với đặc điểm lứa tuồi và điều kiện từng nơi.
GDTC là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa ” [16].
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Giáo dục - Đào tạo cùng với khoa
học công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, chuẩn bị tốt hành trang
cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI ” Đồng thời khẳng định “ Sự cường tráng về thể
chất là nhu cầu của bản thân con người, là vốn quý để tạo ra tài sản, trí tuệ và vật
chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội
của các cấp, các ngành, các đoàn thể ” [11].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu
tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ năm 2000 đến 2010 là: “ Đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân ”.
Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23/10/2002 của Ban bí thư Trung ương Đảng nêu rõ
“ Đẩy mạnh hoạt động TDTT ở trường học, đảm bảo mỗi trường học đều có giáo
viên TDTT Tăng cường đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực TDTT” [8].
13
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp thể thao nước nhà, Thủ
tướng chính phủ đã ban hành chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng quy hoạch ngành
TDTT, trong đó ghi rõ: “Ngành TDTT phải xây dựng định hướng có tính chất chiến
lược, trong đó quy định các môn thể thao và các hoạt động mang tính phổ cập đối
với mọi đối tượng, lứa tuổi, tạo thành phong trào tập luyện rộng rãi của thể thao
quần chúng, khỏe để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Bộ Giáo dục và đào tào đã kịp thời có những chỉ thị, quyết định chỉ đạo thực
hiện công tác GDTC trong trường học, như việc ban hành Quy chế GDTC và Y tế
trường học trong nhà trường các cấp. Theo quyết đinh số: 14/2001 ngày 03 tháng 5
năm 2001, Bộ tiếp tục khẳng định vị trí vai trò GDTC là hoạt động giáo dục bắt

buộc nhằm giáo dục, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, phát triển thể chất, góp phần
hình thành và bồi dưỡng nhân cách đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho học
sinh, sinh viên [6].
Gần đây Bộ Giáo dục và đào tạo – Ủy ban Thể dục thể thao thống nhất ban
hành Thông tư liên tịch số 34/2005/TTLT-BGD& ĐT- UBTDTT ngày 29/12/2005,
hướng dẫn phối hợp quản lý và chỉ đạo công tác Thể dục thể thao trường học giai
đoạn 2006-2010, xác định “Thể thao trường học là một bộ phận đặc biệt quan trọng
trong việc nâng cao sức khoẻ và thể lực, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí, giáo
dục nhân cách cho học sinh, sinh viên góp phần đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước , phát triển TDTT trường học theo hướng đổi mới và nâng
cao chất lượng giờ học thể dục nội khoá, đa dạng hoá các hình thức hoạt động
ngoại khoá, đồng thời tổ chức chặt chẽ việc kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể
đối với người học ”
Luật Thể dục, thể thao được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 mục 2 điều 20 quy định GDTC là môn
học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận
động cơ bản cho người học, thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần
thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện [17].
14
Nghị quyết số 16/NQ-CP của Thủ tướng chính phủ ngày 14 tháng 01 năm
2013 ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08-
NQ/TW ngày 01 tháng 12 năm 2011 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục thể thao đến năm 2020, nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả GDTC và hoạt động thể thao trong trường học, góp
phần đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao cho nước nhà.
Tóm lại: Chăm lo con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói
chung, của ngành TDTT nói riêng. Đó cũng chính là phương hướng cơ bản, quan
trọng nhất của nền giáo dục ở nước ta.
Để đảm bảo cho công tác TDTT phát triển đúng hướng, cần tạo sự quản lý
thống nhất của Nhà nước, xúc tiến quá trình xã hội hoá TDTT trong các tổ chức và

cơ sở hoạt động, nhất là trong mạng lưới rộng lớn các trường học từ mẫu giáo đến
đại học, bởi vì thể thao học đường là cái nôi đào tạo tài năng thể thao cho đất nước.
1.1.4. Thực trạng nội dung chương trình, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực của
Bộ môn GDTC trường ĐH SPKT TP.HCM.
Cơ sở vật chất
Cán bộ giảng dạy
Nội dung chương trình
Họ và tên Chức vụ
-Sân bãi:
+ Sân Bóng Đá.
+Đường chạy 100m.
+Hố cát.
+Sân bóng chuyền.
+Sân bóng rổ.
+Nhà tập võ.
+Sân cầu lông.
+Nguyễn Văn Quận Trưởng bộ môn
-Thể chất 1: 30 tiết trong
15 tuần, khối lượng học tập
mỗi tuần 2 tiết.
+Nội dung: Nhảy xa ưỡn
thân, chạy cự li trung bình
(800m nữ).
+Kiểm tra giữa kỳ vào tuần 9.
+Kiểm tra thể lực vào tuần
14 và 15
+ Nguyễn Hùng Anh Giảng viên
+Nguyễn Thanh Bình Giảng viên
+ Trần Văn Hải Giảng viên
+ Phạm Đức Hậu Giảng viên

+ Đỗ Hoàng Long Giảng viên
+ Lưu Thanh Phương Giảng viên
+ Trần Văn Tuyền Giảng viên
+Trần Phong Vinh Giảng viên
15
1.2. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi (18-20).
1.2.1. Đặc điểm tâm lý
Từ 18- 20 tuổi là giai đoạn sau dậy thì, lứa tuổi đầu thanh niên, các em đã trở
nên giống người lớn hơn về nhiều phương diện. Các em đã có cách suy nghĩ, nhận
xét, cam kết, chín chắn của người lớn trong quan hệ với công việc, trong quan hệ
với người khác. Các em giống người lớn hơn trong nhận thức, tự đánh giá về bản
thân, trong nhìn nhận các giá trị đạo đức, đạo lý, về mục đích sống của bản thân và
có tính thực tế hơn. Các em được thừa nhận về mặt xã hội như người lớn. Tuy
nhiên, các em vẫn cần một khoảng thời gian nữa để thực sự trưởng thành.
Thời kì này sự phát triển trí tuệ đợc đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí
tuệ, biểu hiện rõ nhất trong việc tư duy sâu sắc và rộng, có năng lực giải quyết
những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn, phức tạp hơn, có tiến bộ rõ rết trong các
lập luận logic, trong việc lĩnh hội tri thức. ở lứa tuổi này trí tưởng tượng, sự chú ý
và ghi nhớ đã phát triển thành khả năng hình thành trý tưởng tượng trìu tượng, khả
năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập. Một đặc trưng quan trọng trong phát
triển trí tuệ của thời kỳ chuyển tiếp là "tính nhạy bén cao độ". Sinh viên có khả
năng giải thích và gán ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào những kinh
nghiệm và tri thức đã có trước đây. Chính sự phát triển nêu trên kết hợp với óc
quan sát tích cực, nghiêm túc sẽ tạo cho sinh viên biết cách lĩnh hội một cách tối ưu
và đó chính là cơ sở của toàn bộ quá trình học tập ở đại học và cả sau khi tốt
nghiệp. Sự phát triển tình cảm của lứa tuổi sinh viên được đặc trưng bằng "thời kỳ
bão táp và căng thẳng". Đây là một thời kỳ đầy xúc cảm đối với mỗi cá nhân. Có
nhiều tình huống mới nảy sinh trong cuộc sống sinh viên, đòi hỏi họ phải phán
đoán và quyết định trong khi họ còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết xã hội. Vì vậy,
dễ nảy sinh những tình cảm không thích hợp khi phải ứng xử trước những tình

huống đó.
Đặc điểm tâm lí quan trọng của thời kỳ chuyển tiếp ở lứa tuổi thanh niên sinh
viên là sự phát triển tự ý thức. Tự ý thức là một loại đặc biệt của ý thức trong đời
16
sống cá nhân, có chức năng điều chỉnh nhận thức và thái độ đối với bản thân. Tự ý
thức là quá trình tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh giá về hành động,
kết quả của hành động của chính bản thân về mặt tư tưởng, tình cảm, phong cách,
đạo đức, hứng thú Tự ý thức chính là điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân
cách, hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Tự ý thức của sinh viên được hình
thành trong quá trình xã hội hoá và liên quan chặt chẽ với tính tích cực nhận thức
của sinh viên [20].
Nhân cách đang trong giai đoạn được định hình với nội dung phong phú và
có chiều sâu: sự phát triển trong đời sống nội tâm, ý thức rõ rệt hơn về cái tôi
những suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp, mối quan tâm
đến tình cảm giữa nam và nữ, nhu cầu xác định thần tượng định hướng cho mẫu
người mong muốn trở thành… [18].
1.2.2. Đặc điểm sinh lý
Về mặt sinh lí: Hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và sự phối
hợp các chức năng. Đầu thời kỳ này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3
trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Riêng não bộ đã đạt trọng lượng tối đa (trung
bình là 1400 gram) và số tế bào thần kinh đã phát triển đầy đủ tới trên một trăm tỷ
nơron. Quan trọng hơn, chính ở lứa tuổi này, hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt
đến mức trưởng thành. Khoa học đã chứng minh rằng: ở nơron của lứa tuổi sinh
viên hoàn hảo hơn, cách ly tốt hơn, đốt nhánh nhiều; nhiều tế bào thần kinh não đến
tuổi sinh viên có thể nhận tin từ 1200 nơron trước và gửi đi 1200 nơron sau. Điều
này đảm bảo một sự liên lạc vô cùng rộng, chi tiết, tinh tế giữa vô số kênh vào và
vô số kênh ra, làm cho trí tuệ của sinh viên vượt xa trí tuệ của học sinh phổ thông.
Đặc điểm quan trọng của thời kỳ này là các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình
phát triển đầy đủ. Giới tính đã phân biệt rõ rệt và phát triển đầy đủ ở mỗi giới cả về
biểu hiện bên ngoài lẫn biểu hiện nội tiết tố. Hơn nữa, ở lứa tuổi thanh niên sinh

viên còn có nhiều yếu tố bẩm sinh di truyền đã được biến đổi dưới ảnh hưởng của
điều kiện sống và giáo dục [20].
a. Các hệ thống cơ bắp
17
Ở lứa tuổi này hệ thống cơ bắp của các em có sự phát triển mạnh mẽ.
b. Hệ xương
Các xương chậm phát triển về chiều dài nhưng lại phát triển về bề dày xương.
c. Hệ cơ
Hệ cơ phát triển mạnh, sự phát triển chiều cao của các em rất chậm, nhưng thay
vào đó cơ thể phát triển về bề dày của cơ thể.
d. Hệ thần kinh
Kích thước não và hành tủy đạt đến mức của người trưởng thành, có khả năng
tư duy trừu tượng cao. Hoạt động trí tuệ của các em có thể phát triển tới mức cao.
Khả năng hưng phấn và ức chế ở vỏ não tăng lên rõ rệt có thể hình thành mối liên
hệ thần kinh tạm thời phức tạp hơn. Tư duy ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí có
điều kiện phát triển mạnh. Ở tuổi này, các em dễ bị kích thích và sự biểu hiện của
nó cũng giống như ở tuổi thiếu niên. Tuy nhiên tính dễ bị kích thích này không phải
chỉ do nguyên nhân sinh lý như ở tuổi thiếu niên mà nó còn do cách sống của cá
nhân (như hút thuốc lá, không giữ điều độ trong học tập, lao động, vui chơi…).
e. Hệ tuần hoàn
- Nhịp tim: 70-80 lần/phút.
- Thể tích phút của dòng máu tính trên 1 kg trọng lượng: khoảng 60 ml.
- Thể tích phút tối đa: 24-28 lít/phút.
- Huyết áp tối đa: từ 90 đến 139 mm Hg.
- Huyết áp tối thiểu: bình thường từ 60 đến 89 mm Hg [4].
f. Hệ hô hấp
- Tần số hô hấp: 143-18 lần
- Thể tích khí lưu thông: 400-500ml [4].
1.3. Một vài phương pháp và nguyên tắc dạy học.
1.3.1. Các phương pháp dạy học TDTT.

- Phương pháp chỉ đạo trong dạy học TDTT:
+ Phương pháp dùng ngôn ngữ: Đó là phương pháp dùng các loại hình ngôn
ngữ để chỉ đạo học sinh trong quá trình dạy học TDTT nhằm đạt được các nhiệm
18
vụ, yêu cầu trong hoạt động này. Phương pháp đó giúp học sinh nhận rõ nhiệm vụ
học tập; xác định thái độ học tập đúng; khêu gợi tư duy tích cực; hiểu và nắm vững
nhanh nội dung dạy học (kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật, thể lực); bồi dưỡng năng lực
tự phân tích và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp trực quan: Đó là một phương pháp dạy học rất phổ biến và
quan trọng trong dạy học TDTT; chủ yếu là tác động vào các cơ quan cảm giác của
học sinh để tạo cho họ có tri giác tốt và hiểu, nắm được nhanh nội dung học tập.
Quá trình nhận thức sự vật của con người bao giờ cũng bắt đầu từ cảm giác. Do đó
nó rất cần thiết để giúp học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trong dạy học
TDTT, các phương pháp trực quan thường là làm mẫu động tác, bài tập; giải thích
bằng giáo cụ và mô hình; kết hợp với phim ảnh, ti vi hoặc các phương tiện dẫn dắt
rất đa dạng khác [21].
- Phương pháp hoàn chỉnh và phân giải:
+ Phương pháp dạy học hoàn chỉnh: Đó là phương pháp học ngay toàn bộ
động tác từ đầu đến cuối, không phân phần, đoạn. Ưu điểm của nó là tiện cho học
sinh nắm được động tác hoàn chỉnh, không phá vỡ cấu trúc hoặc mối liên hệ nội tại
giữa các phần của động tác. Tuy vậy, không thể học nhanh những động tác khó,
phức tạp cho nên những phương pháp này chỉ dùng khi dạy học những động tác
tương đối đơn giản hoặc là tuy tương đối phức tạp nhưng nếu phân chia ra sẽ phá
vỡ cấu trúc động tác.
+ Phương pháp dạy học phân giải: Đó là phương pháp đem chia hợp lý một
động tác hoàn chỉnh thành mấy phần đoạn rồi lần lượt dạy học cho đến cuối cùng
học sinh nắm được toàn bộ động tác. Ưu điểm của phương pháp này ở chỗ đơn giản
hóa, giảm độ khó cần thiết cho quá trình dạy học, có lợi cho việc luyện tập củng cố
từng phần, giảm thời gian học tập, tăng cường tự tin cho học sinh. Nhưng nếu vận
dụng không thỏa đáng sẽ dễ phá vỡ cấu trúc của động tác, ảnh hưởng đến hình kỹ

thuật hoàn chỉnh [21].
- Phương pháp phòng sửa động tác sai:
19
Trong dạy học TDTT, mắc sai sót trong khi học động tác là hiện tượng bình
thường. Giáo viên cần nhìn nhận đúng để phòng sửa cho tốt. Trong dạy học TDTT,
việc phòng sửa sai sót trong động tác không chỉ nhằm nắm được kiến thức, kỹ thuật
động tác mà còn tạo điều kiện rèn luyện thân thể tốt và phòng tránh chấn thương.
Nếu để động tác sai hình thành định hình động lực rồi mới chữa thì còn mất nhiều
thời gian công sức hơn so với học động tác mới tương đương. Do đó, phải kịp thời
phòng và sửa sai sót. Muốn thế trước hết phải làm rõ nguyên nhân tạo nên sai sót
rồi căn cứ vào nguyên nhân chủ yếu mà chọn phương pháp phòng và sửa chữa
thích hợp. Làm việc này phải có lý lẽ, nhiệt tình và kiên tâm chỉ bảo, hướng dẫn
học sinh [21].
- Phương pháp luyện tập trong dạy học TDTT:
+ Phương pháp luyện tập lặp lại: Đó tức là tập lặp lại động tác nhiều lần theo
nhiệm vụ dạy học TDTT đã đề ra và trong điều kiện tương đối cố định. Điều kiện
tương đối cố định là cấu trúc động tác, khối lượng vận động (các chỉ tiêu về số
lượng bên ngoài), sân bãi, trang thiết bị Ví dụ như chạy lặp lại theo cự ly, tốc độ
quy định; cử tạ cùng một trọng lượng bằng cùng một tư thế; nhiều lần nhảy qua xà
có độ cao và bằng tư thế cố định Đặc điểm của phương pháp này là tập lặp lại
trong điều kiện tương đối cố định nhưng thời gian các quãng nghỉ không có quy
định chặt chẽ. Nó chủ yếu tiện cho giáo viên quan sát, giúp đỡ học sinh cải tiến,
củng cố và nắm vững kỹ thuật, rèn luyện thể lực Phải tập luyện chặt chẽ trong
điều kiện cố định, đảm bảo số lần lặp lại quy định mới có thể đạt hiệu quả mong
muốn.
+ Phương pháp luyện tập biến đổi: Đó là cách tiến hành tập luyện trong điều
kiện thay đổi nhằm thực hiện nhiệm vụ GDTC nhất định. Điều kiện thay đổi ở cấu
trúc, hình thức động tác, các chỉ số bên ngoài của lượng vận động (khối lượng),
môi trường, sân bãi, trang thiết bị Ví dụ chạy tại chỗ theo tần số gõ nhịp có biến
đổi của máy; tăng và giảm cự ly và tốc độ trong tập chạy Ở đây cũng chia thành

2 loại: biến đổi liên tục và biến đổi cách quãng. Loại đầu là tập trong điều kiện biến
hóa liên tục (như chạy việt dã với tốc độ và địa hình luôn thay đổi; còn loại sau là
20
phương pháp cứ sau mỗi lần cách quãng lại có thay đổi về các chỉ số bên ngoài của
lượng vận động hoặc hình thức, tổ hợp động tác Sau mỗi lần nghỉ, có thể tăng
cường độ hoặc khối lượng vận động (chạy nhanh hơn, cử tạ nặng hơn ) hoặc có
lúc tăng, có lúc giảm. Còn thay đổi cả về các tư thế chạy, nhảy, ném, bơi, đá bóng
Trong các loại thể dục dụng cụ hoặc võ thuật biểu diễn thường có nhiều cải tiến
trong cách liên kết động tác.
+ Phương pháp luyện tập tuần hoàn (còn gọi là phương pháp luyện tập theo
vòng tròn): Trong phương pháp này, cần căn cứ vào nhiệm vụ luyện tập, mà tìm
chọn được một số phương tiện tập luyện phù hợp, tạo nên một số trạm tập luyện
tương ứng để người tập căn cứ vào trình tự, đường hướng chuyển động và yêu cầu
luyện tập cụ thể theo quy định mà tuần tự tập luyện quay vòng. Phương thức tập
luyện tuần hoàn rất đa dạng. Nhưng có 2 loại cơ bản nhất là kiểu "nước chảy” và
kiểu "bánh xe quay". Trong loại "nước chảy" lại có 2 loại nhỏ hơn (phân tổ và
không phân tổ). Trong đó, những người tập theo hàng dọc, tuần tự và tuần hoàn tập
luyện theo trình tự, đường hướng và yêu cầu xác định. Còn trong tập luyện tuần
hoàn theo kiểu "bánh xe quay" các học sinh được phân đều thành một số nhóm, tổ
ở từng trạm rồi đồng thời bắt đầu luyện tập lần lượt chuyển đổi qua hết các trạm.
Đây vừa là một phương pháp luyện tập vừa là một hình thức luyện tập. Đặc điểm
của nó là sử dụng nhiều phương tiện TDTT liên tục tuần hoàn có lượng vận động
tương đối lớn. Thiết kế trình tự và yêu cầu của phương pháp này phải căn cứ vào
nhiệm vụ luyện tập, đối tượng và điều kiện dạy học. Tác dụng chính là rèn luyện
thân thể, phát triển thể lực tương đối toàn diện; có lợi cho củng cố kỹ thuật động
tác, nâng cao năng lực vận động, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, ý chí cùng phát
huy tính tích cực học tập, luyện tập của học sinh.
+ Phương pháp tập luyện tổng hợp: Trong phương pháp này, người ta căn cứ
vào yêu cầu luyện tập, vận dụng tổng hợp một số bài tập có tính năng khác nhau.
Phương pháp này không có hình thức cố định. Đặc điểm chính là tập luyện trong

điều kiện liên tục hoặc biến đổi. Nó có tác dụng nhiều mặt về củng cố kỹ thuật
21
động tác, năng lực vận động tổng hợp, kỹ, chiến thuật, phát triển các tố chất và
phẩm chất. Như vậy, chúng có tính linh hoạt và thích ứng cao.
+ Các phương pháp luyện tập bằng trò chơi và thi đấu: Trong phương pháp
luyện tập bằng trò chơi (gọi tắt là phương pháp trò chơi), học sinh tập luyện theo
phương thức trò chơi. Nó có tình tiết và tính tư tưởng nhất định, lại có tính đua
tranh và vui tươi nên dễ lôi cuốn, làm cho người tập tự giác, tích cực, chủ động tập
luyện; tăng cường sự thông cảm đoàn kết, hỗ trợ giữa những người cùng bên và sự
đua tranh gay go, thậm chí căng thẳng, hấp dẫn giữa những người chơi. Hoạt động
đua tranh đó thường mất tương đối nhiều sức lực (lượng vận động); phải theo
những yêu cầu, luật chơi nhất định. Trong phạm vi quy định đó, người chơi có thể
phát huy tài trí, sức sáng tạo của mình. Do đó, phương pháp này dễ phát huy được
tính tích cực của học sinh; phát triển cả về thể lực lẫn trí lực cùng năng lực vận
dụng hiểu biết, kỹ năng (nhất là kỹ năng vận động cơ bản); bồi dưỡng tinh thần tập
thể, dũng cảm, quả đoán và ý chí phấn đấu. Trong phương pháp thứ hai, học sinh
được tập luyện dưới hình thức thi đấu. Nó có nhiều điểm tương đồng với phương
pháp trò chơi. Trong tập luyện theo phương pháp trò chơi cũng có yếu tố đua tranh
thi đấu. Còn trong tập luyện thi đấu cũng thường có yếu tố trò chơi. Do đó, chúng
gắn bó và bổ sung cho nhau. Nhưng vì tập luyện thi đấu thường đua tranh gay go,
căng thẳng cao độ nên yêu cầu cao hơn về thể lực, trí lực, kỹ chiến thuật và phẩm
chất đạo đức, ý chí [21].
- Các phương pháp rèn luyện về tâm lý là chính
+ Phương pháp luyện tập trung sức chú ý: Đó là cách luyện cho học sinh biết
định hướng và tập trung sức chú ý của mình vào những nội dung, khâu, việc cần làm
trong quá trình học, luyện tập, mà không bị những yếu tố vô quan, không cần thiết
khác làm phân tán và cản trở. Có thể dùng các cách như biến hóa đội hình tương đối
phức tạp như báo số quay vòng trong đoạn số nào đó hoặc là chẳn lẻ hay bội số của 2
chẳng hạn; ai gặp đúng số quy định phải đáp ứng lại bằng một động tác thể thao
(ngồi xuống, nhảy lên hay đấm không khí); truyền thầm mật lệnh, khẩu ngữ từ

hàng đầu tới hàng cuối Luyện tập trung sức chú ý có nhiều cách. Lấy những hình
22
thức mới, hấp dẫn hoặc sử dụng các năng lực về trí tuệ, kỹ xảo trong luyện tập để thu
hút sức chú ý của học sinh, nâng cao tính hưng phấn của hệ thống thần kinh trung
ương làm cho vỏ đại não, hệ thống thần kinh và các cơ quan vận động ở vào trạng
thái phù hợp, tạo tâm thế tốt cho học và tập. Làm được như thế sẽ tập trung sức chú ý
của học sinh trong quá trình dạy học. Ngoài việc có trạng thái hưng phấn tốt còn phát
huy được tính tích cực, năng lực tưởng tượng, tư duy, trí lực, sự nhạy bén; phòng trừ
các suy nghĩ, tình cảm hỗn tạp ngay từ phần khởi động trở đi. Đặc biệt với học sinh
nhỏ, kỷ luật và tính tích cực học tập kém thì phương pháp này càng có ý nghĩa đặc
biệt.
+ Phương pháp luyện động niệm: Đó là cách luyện cho người tập tưởng
tượng, tư duy có chủ định, hệ thống quá trình thực hiện một động tác nào đó. Ví dụ
khi tưởng về quá trình hoàn thành động tác nhảy xa thì phải đủ cả quá trình đó từ tư
thế khởi đầu cho đến chạy đà, giậm nhảy, bay trên không, chạm đất và một số chi
tiết kỹ thuật khác
+ Phương pháp tập luyện thả lỏng: Trong dạy học TDTT, có loại tập thả lỏng
bằng hoạt động cơ thể và tập thả lỏng tâm lý người tập bằng ngôn ngữ. Thường làm
sau khi buổi tập luyện kết thúc. Sau một phần của buổi (giờ) tập mà thấy học sinh
khá mệt thì cũng có tập luyện thả lỏng [21].
1.3.2. Các nguyên tắc dạy học TDTT
- Nguyên tắc tự giác và tích cực:
Tính tích cực của người tập TDTT thường thể hiện qua hoạt động tự giác,
gắng sức nhằm hoàn thành những nhiệm vụ học tập - rèn luyện.Nó bắt nguồn từ
một thái độ học tập tốt, sự cố gắng nắm được những kỹ năng, kỹ xảo vận động
cùng hiểu biết có liên quan, phát triển các phẩm chất về thể lực và tinh thần nhất
định cùng khắc phục những khó khăn trên con đường đó. Tính tự lập là một trong
những hình thức cao nhất của tính tích cực, biểu hiện qua hoạt động hăng hái để tự
giải quyết những nhiệm vụ do kích thích nội tâm của từng người tạo nên. Rõ ràng,
hiệu quả của quá trình sư phạm phần lớn phụ thuộc vào bản thân người được giáo

dục có thái độ tự giác và tích cực như thế nào đối với công việc của mình [21].
23
- Nguyên tắc trực quan
Từ lâu, khái niệm “trực quan” trong lý luận và thực tiễn sư phạm đã vượt ra
ngoài ý nghĩa chân phương của từ này. Tính trực quan trong dạy học và giáo dục
biểu hiện ở việc sử dụng rộng rãi các cảm giác, các thụ cảm của nhiều giác quan,
nhờ đó có thể tiếp xúc trực tiếp, nhiều mặt với hiện thực xung quanh.Trong GDTC,
tính trực quan đóng một vai trò đặc biệt quan trọng bởi vì hoạt động của người tập
về cơ bản là mang tính chất thực hành và có một trong những nhiệm vụ chuyên
môn của mình là phát triển toàn diện các cơ quan cảm giác. Tính trực quan - một
tiền đề cần thiết để tiếp thu động tác.
Mọi người đều biết, nhận thức thực tế được bắt đầu từ các mức độ cảm giác -
"trực quan sinh động”. Hình ảnh sinh động của các động tác cần học được hình thành
với sự tham gia của các cơ quan cảm thụ bên ngoài cũng như bên trong, những cơ
quan tiếp nhận cảm giác của mắt, tai, cơ quan tiền đình, cơ quan cảm giác cơ [21].
- Nguyên tắc thích hợp và cá biệt hóa
Nguyên tắc này yêu cầu tính đến đặc điểm của người tập và mức tác động của
những nhiệm vụ học tập đề ra cho họ. Về bản chất nó thể hiện yêu cầu phải tổ chức
việc dạy học và giáo dục thích hợp với khả năng của người tập, đồng thời có tính
đến các đặc điểm lứa tuổi, giới tính, trình độ chuẩn bị sơ bộ và cả những khác biệt
cá nhân về năng lực thể chất và tinh thần.
Nguyên tắc này đặc biệt quan trọng trong GDTC vì nó tác động rất mạnh mẽ
đến các chức năng quan trọng trong cơ thể sống. Chỉ cần lượng vận động vượt quá
mức chịu đựng được của cơ thể nào là đã có thể nảy sinh nguy cơ đối với sức khỏe
người tập, gây nên hậu quả ngược lại. Do đó việc tuân thủ đúng mức nguyên tắc
này là một trong những bảo đảm hiệu quả của GDTC [21].
- Nguyên tắc hệ thống
Nguyên tắc này có liên quan đến tính thường xuyên tập luyện và hệ thống luân
phiên lượng vận động với nghỉ ngơi, cũng như tính tuần tự trong tập luyện và mối
liên hệ lẫn nhau giữa các mặt khác nhau trong nội dung tập luyện. Tính liên tục của

quá trình GDTC và luân phiên hợp lý lượng vận động và nghỉ ngơi. Rõ ràng, tập
24
thường xuyên mang lại hiệu quả tất nhiên lớn hơn tập thất thường. Ngoài ra, tính liên
tục của quá trình GDTC còn có những đặc điểm cơ bản liên quan với sự luân phiên
hợp lý giữa lượng vận động và nghỉ ngơi. GDTC có thể hình dung chung như một
quá trình liên tục bao gồm tất cả các thời kỳ cơ bản trong cuộc sống.
G. Lamac đã chỉ rõ ý nghĩa chung của hoạt động như một yếu tố không thể
tách rời khỏi sự phát triển của cơ thể. Trong khi định nghĩa "định luật thứ nhất" -
"định luật tập luyện" của mình, ông viết: "Sự sử dụng thường xuyên và không giảm
nhẹ đối với một cơ quan nào đó thì ít ra cũng củng cố cơ quan đó, phát triển nó,
truyền và làm tăng sức mạnh cho nó tương ứng với chính thời gian sử dụng nó.
Trong lúc đó, một cơ quan không được sử dụng thường xuyên sẽ bị yếu đi một cách
rõ nét, dẫn đến chỗ thoái hóa và tiếp theo là thu hẹp các khả năng của mình".
Tập luyện hợp lý gây nên những biến đổi dương tính về chức năng và cấu
trúc. Chỉ cần ngừng tập luyện trong một thời gian tương đối ngắn là những mối liên
hệ phản xạ có điều kiện vừa xuất hiện đã bắt đầu mờ tắt đi; mức độ phát triển các
khả năng chức phận vừa đạt được và ngay cả một số chỉ số về thể hình cũng bắt
đầu bị giảm (tỉ trọng của tổ chức cơ tích cực bị giảm, một số yếu tố hợp thành cấu
trúc của tổ chức cơ cũng biến đổi theo hướng ngoài ý muốn ). Theo một số tài
liệu, một số biến đổi giảm sút đã có thể biểu hiện ngay vào ngày thứ 5, thứ 7 sau
khi nghỉ tập. Do đó, hoàn thiện thể chất chỉ có thể có trong quá trình GDTC liên
tục. Liên tục không có nghĩa là không nghỉ mà qua một hệ thống luân phiên giữa
lượng vận động và nghỉ ngơi [21].
- Nguyên tắc tăng dần yêu cầu
Nó thể hiện xu hướng chung về các yêu cầu đối với người tập trong quá trình
GDTC qua cách đặt vấn đề và thực hiện các nhiệm vụ mới ngày càng khó, cao hơn
từ khối lượng cường độ vận động cho đến hiểu biết, kỹ thuật có liên quan.
Cần thiết phải thường xuyên đổi mới nhiệm vụ theo xu thế chung là tăng
lượng vận động. Cũng như bất kỳ một quá trình nào khác, GDTC đều không ngừng
vận động, phát triển, đồng thời thay đổi từ buổi tập này sang buổi tập khác, từ giai

đoạn này sang giai đoạn khác [21].
25

×