Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tài liệu ký sinh trùng y học và thú y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.96 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 1 MỞ ĐẦU
1. KHÁI NIỆM KÝ SINH VÀ VẬT KÝ SINH
Ký sinh - Parasitos là một trong những phương thức sinh tồn của sinh vật, là
hiện
tượng phổ biến trong thiên nhiên, bao gồm những động vật, thực vật sống nhờ cơ thể khác
(gọi là vật ký sinh), sử dụng cơ thể đó (gọi là vật chủ) như là môi trường sống và nguồn thức
ăn, thường xuyên liên hệ với môi trường ngoài thông qua vật chủ của mình. Như vậy, khái
niệm về ký sinh trước hết là khái niệm về sinh thái học. Đó là mối quan hệ qua lại giữa
hai quần thể thuộc hai loài khác nhau.
Vậy ký sinh trùng học là gì? Ký sinh trùng học là khoa học không chỉ nghiên cứu
vật ký sinh và vật chủ của chúng, mà còn nghiên cứu mối quan hệ thích nghi của một
cơ thể này sống trên hoặc trong cơ thể khác, giống như trong sinh thái học nghiên cứu
mối quan hệ giữa động vật sống tự do với môi trường sống của chúng. Nhưng, sinh
thái học đại cương chủ yếu nghiên cứu một mặt là ảnh hưởng của môi trường đối với
cơ thể sống, còn ký sinh trùng học đại cương nghiên cứu đồng thời hai mặt: ảnh hưởng
của cơ thể đối với môi trường, ảnh hưởng của môi trường đối với cơ thể và mối quan
hệ qua lại ổn định của chúng. Do vậy, các phương pháp nghiên cứu thông thường của
sinh thái học đối với môi trường không đủ để nghiên cứu các hiện tượng của sự ký
sinh, mà phải sử dụng hàng loạt các phương pháp đặc biệt như là phương pháp miễn
dịch để nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường (cơ thể vật chủ) lên vật ký sinh; hay là
các biến đổi về sinh lý của vật ký sinh do sự tác động của môi trường (vật chất lên vật
ký sinh, hoặc những biến đổi bệnh lý đòi hỏi phải có những phương pháp nghiên cứu
đặc trưng không phải những phương pháp nghiên cứu về sinh thái học.
Như vậy, ký sinh trùng học là khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa vật ký sinh và vật
chủ, rút ra các quy luật cơ bản
trong quá trình thích nghi của cơ thể vật ký sinh và vật chủ,
tạo cơ sở để đề xuất các biện pháp đấu tranh với các bệnh ký sinh trùng, nhằm nâng cao
sức khoẻ con người và phát triển vật nuôi, cây trồng.
Như vậy, ký sinh trùng học là khoa học nghiên cứu mối
quan hệ giữa vật ký sinh và vật
chủ, rút ra các quy luật cơ bản trong quá trình thích nghi của cơ thể vật ký sinh và vật


chủ, tạo cơ sở để đề xuất các biện pháp đấu tranh với các bệnh ký sinh trùng, nhằm
nâng cao sức khoẻ con người và phát triển vật nuôi, cây trồng.
Trong ký sinh trùng học có thể chia ra ký sinh trùng học động vật và ký sinh trùng học
thực vật.
- Ký sinh trùng học thực vật là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở thực vật và các
bệnh do chúng gây ra ở thực vật.
- Ký sinh trùng học động vật là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở người, động vật và
1
các bệnh do chúng gây ra ở động vật và người. Bao gồm ký sinh trùng y học và thú y
học.
Ký sinh trùng y học là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở người và các bệnh do
chúng gây ra ở người.
Ký sinh trùng thú y học là khoa học nghiên cứu ký sinh trùng ở vật nuôi và các bệnh do
chúng gây ra ở vật nuôi.
Đối tượng nghiên cứu của ký sinh trùng y học và thú y học gồm 3 nhóm chính: nguyên
sinh động vật (khoa học về đơn bào), giun sán (khoa học về giun sán) và chân khớp
(khoa học về tiết túc) gây hại cho người và động vật.
2. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CƯU KÝ SINH TRÙNG HỌC Ở VIỆT NAM
Những nghiên cứu về ký sinh trùng ở Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn: * Giai
đoạn từ năm 1955 trở về trước:
Các nghiên cứu thuộc giai đoạn này rất tản mạn, lẻ tẻ mang tính ngẫu nhiên. Phần lớn
các nghiên cứu do tác giả nước ngoài tiến hành. Mẫu nghiên cứu chủ yếu do các bác sỹ
thú y thu thập ở lò mổ của các thành phố lớn; hoặc do các bác sỹ thu thập ở các phòng
giải phẫu của bệnh viện; hoặc các tác giả tự thu thập trong khi nghiên cứu các động vật
sống tự do.
Những vật ký sinh đầu tiên được tìm thấy ở động vật nuôi Việt Nam - theo ý kiến
của Railliet A. (1924) là do Bourger (1886) và Cattoin (1888). Cả hai tác giả này đều
ngẫu nhiên úm thấy hai loài sán lá: Fasciola gigantica và Gastrothylax crumenifer ở
gia súc tại Bắc Bộ. Sau đó, Evans và Rennie (1908) tìm thấy F. gigantica ở gia súc tại
Trung Bộ .

Năm 1892, Giam A. và Billet A. đã xuất bản công trình "Về một vài loài sán lá ký sinh
ở gia súc tại Bắc Bộ". Các tác giả đã tìm thấy ở bò và trâu của tỉnh Cao Bằng loài sán
lá: F. hepatica và hai loài mới: Homalogaster poirieri (sau này được đặt lại tên là H.
paloniae Poirier, 1882) và Distoma coelomaticum (sau này được đặt lại tên là
Eurytrema coelomaticum) ở tuyến tuỵ của gia súc.
Trong các công trình của Railliet A. và Gomy (1897), Railliet A. và Marotel G. (1898)
đã thông báo về các lem sán lá F. hepatica, E. pancreaticum tìm thấy ở gia súc tại Nam
Bộ và Bắc Bộ.
Năm 1905, Gai de L. tìm thấy hai loài sán lá gan: Opisthorchis felineus và Clonorchis
sinensis ở người. Barrois và Nọc (1908) tìm thấy loài sán lá Fascilopsis buski ở người
(Nam Bộ).
Năm 1910 - 1911 , Mathis C. và Leger M . đã mô tả một số loài mới đối với khoa học
và công bố một số danh sách về các loài sán lá ký sinh ở người và động vật.
Năm 1911 , Railliet A. và Henry xuất bản công trình kết quả nghiên cứu 12 loài
2
giun sán ở heo do Bauche thu thập ở lò mổ của thành phố Huế trong 2 năm liên tục.
Năm 1911- 1913 , Brau và Bruyant tìm thấy loài sán lá Gastrodiscoides hominis ở heo
và người tại Nam Bộ.
Năm 1912, Bauche J. và Bemard N. thông báo về loài giun tròn Oxyspirura mansoni ký
sinh ở mắt gà nuôi tại Huế
Năm 1924, Railliet A. công bố công trình “Giun sán ở động vật và người
tại
Đông Dương". Tác giả đã thông báo về 40 loài sán lá, trong đó có một số loài mới
đối với khoa học. Cùng năm, Bemard N., Badlet J. và Pons R. (1924) thông báo về 3 loài
sán lá ở người và heo tại Nam Bộ.
Năm 1925, Houdemer E. xuất bản công trình “Kết quả nghiên cứu khu hệ
giun sán ở động vật nhà và động vật hoang tại Bắc Bộ”. Trong mẫu vật thu
được từ 1306 động vật có xương sống đã tìm thấy 32 loài giun sán. Cùng năm, Schwartz
đã mô tả loài giun tròn Ascaridia anseris ở ngỗng tại Bắc Bộ.
Năm 1927 - 1928, Joyeux C. và Houdemer E. đã thông báo về số liệu các loài sán

dây, sán lá ở chim và thú các nước khu vực Đông Dương, trong đó chủ yếu là các loài ký
sinh ở chim.
Trong những năm 1930, xuất hiện một số công trình về giun sán ở người và động
vật ở Bắc Bộ, như công trình của Sautet J. (1936), Sandroud (1933), Houdemer E.
(19341, Neveu Lemaer (1934), Hsu (1935 - 1936), Galliard H. (1936), Galliard H.,
Phan Huy Quát và Đặng Văn Ngữ (1936), Trương Tuấn Ngọc (1937), Galliard H.
(1938), Houdemer E. (1938), Chow V. (1939). Công trình tổng hợp tương đối đầy đủ
nhất những hiểu biết về giun sán ở người, gia súc, gia cầm Việt Nam trong mấy chục
năm Pháp thuộc là do Houdemer E. (1938) biên tập. Trong những năm 1940, Galliard
H. và Đặng Văn Ngữ đã công bố 4 công trình về sán lá ở người và động vật nuôi tại Việt
Nam. Năm 1950, Joyeux C., Baer J. và Gang J. đã công bố một số loài sán dây ở chim bồ
câu vùng chợ Lớn Nam Bộ.
Về đơn bào và côn trùng ký sinh, có các công trình của Blanchard (1886, 1898),
Carougean (1902), Bủn (1902), Leger M. (1902, 1903, 19091, Yersin (1904), Bo din
(1905), Brau, Sang Se min và Muốn Bondel (1906), Levenran (191 11, Leger, M. &
Mathis C (1902, 1903, 1911), Mathis C. (1914), Schein (1908, 1921), Lagrangei
(1924), Larrousse F. (1925), Bergeon P. (1928), Borel M. (1928), Houdemer E. (1923,
1927,
1938), Jacolot & Evanno (1931), Toumanoff C. & Hoàng Tích Trí (1939),
Toumanoff
C. (1944), Toumanoff C. và Trương Tuấn Ngọc (1951). Các công trình này đã đề cập đến
các loài đơn bào ký sinh thuộc họ Trypanosomatidae tìm thấy ở gia súc, gia cầm, chim
thú hoang, bò sát, ếch nhái, cá và cả ở người, cũng như các loài côn trùng ngoại ký sinh: ve -
bét, muỗi, ruồi, mồng.
* Giai đoạn từ 1955 đến nay
3
Sau khi được giải phóng (1954), miền Bắc Việt Nam bắt đầu một giai đoạn phát triển
mới trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học
Đây là thời kỳ đào tạo đội ngũ cán bộ ở mọi lĩnh vực, trong đó có khoa học ký
sinh

trùng. Công tác điều tra cơ bản về ký sinh trùng và các bệnh ký sinh trùng ở
người, vật
nuôi, cây trồng được tiến hành có hệ thống, liên tục với những kỹ thuật, phương pháp,
trang thiết bị đầy đủ hơn.
Năm 1975, phạm vi điều tra cơ bản về ký sinh trùng có điều kiện mở rộng trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
Những năm đầu của giai đoạn này là thời kỳ triển khai các nghiên cứu hợp tác quốc
tế chủ yếu do các chuyên gia Liên Xô (cũ) và các nước bạn sang để giúp đỡ, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ trong nước, đồng thời Nhà nước ta cũng gửi một số cán bộ đi đào tạo ở nước
ngoài.
Cuối năm 1960 - 1961, đoàn điều tra của Viện sinh học thổ nhưỡng ở Viễn Đông (Liên
Xô cũ) đã tiến hành điều tra trên 6.000 động vật có xương sống ở Hải Phòng, trong đó có
327 gia cầm và 619 chim hoang. Đã tìm thấy 115 loài sán lá, 54 loài sán
dây ở chim nhà
và chim hoang, trong số đó có 33 loài mới đối với khoa học
(Oschmarin P. G.
(1964 - 1971); Oschmarin P. G.; Mamaev I. U., Lebexev B. I., 1970; Oschmarin P. G. và
Demchin N. I., 1972).
Cuối năm 1961, đầu năm 1962, đoàn điều tra hợp tác Việt - Xô do Giáo sư
Spasski A. A., Sudarikov V: E., Đặng Văn Ngữ, Đào Văn Tiến và nhiều cán bộ từ các

quan khác nhau tham gia. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu tại một số
vùng
trung du, đồng bằng, ven biển miền Bắc, đã mổ 623 cá thể động vật và tìm thấy 1 59 loài
giun sán khác nhau.
Từ kết quả nghiên cứu trên, các công trình của Ryjikov K. M., Hohlova I. G.
(1964 - 1968), So nin M. D. (1966), Parukhin A. M. (1964 - 1968), Spasski A. A.,
Jurpalova N. M. (1969), Sudarikov V. E., Pavlov A. V., Nguyễn Thị Lê (1971) về sán lá,
sán dây, giun tròn ký sinh ở gia cầm và chim hoang đã được công bố.
Năm 1962, Đặng Văn Ngữ và Đỗ Dương Thái đã xuất bản công trình “Ký sinh

trùng y học” đề cập đến các bệnh ký sinh trùng ở người.
Năm 1963, Trịnh Văn Thịnh xuất bản các tập sách về ký sinh trùng thú y. Tác giả đã
công phu tổng kết các tài liệu đã công bố từ trước và bổ sung thêm một số loài giun sán ký
sinh ở gia súc, gia cầm.
Nghiên cứu ký sinh trùng ở người và động vật các tỉnh phía Nam có các công trình
nghiên cứu của Lê Văn Hoà (1964, 1965).
Năm 1966, Bùi Lập là người đầu tiên trong ngành thú y bảo vệ thành công luận án
phó tiến sỹ khoa học thú y về giun sán ở heo nhà và những biến đổi bệnh lý do giun thận gây
ra. Tác giả đã thống kê được 32 loài giun sán ở heo.
4
Năm 1962, đoàn điều tra động vật - ký sinh trùng được thành lập do Uỷ ban khoa
học nhà
nước (nay là Bộ khoa học, công nghệ) chủ trì, gồm nhiều cơ quan và các
trường đại học
tham gia. Đoàn đã tiến hành điều tra ở tất cả các tỉnh miền Bắc. Từ kết quả trên, Nguyễn
Thị Lê (1968), Phan Thế Việt (1969), Nguyễn Thị Kỳ (1980) đã bảo vệ thành công luận án
phó tiến sỹ sinh học và đã công bố nhiều loài giun sán ký sinh ở chim và thú Viết Nam
Vào những năm sau có các công trình của Hoàng Quang Nghị, Lê Đức Hạnh
(1965), Nguyễn Hữu Bình, Nguyễn Thị Kỳ, Phạm Xuân Dụ (1966), Drozdz và
Malczewski (1967); Bùi Lập, Phạm Văn Khuê, Phan Lục, Đoàn Tuân (1969); Phan
Địch Lân (1964, 1974, 1983 .); Phan Địch Lân và cộng sự (1964, 1972 .);
Grochovskaia và Nguyễn Xuân Hoè (1969); Đào Văn Tiến, Đặng Văn Ngữ, Phan Thế
Việt (1970) ; Nguyễn Kim Bằng (1970); Nguyễn Thị Lê (1971 , 1977, 1979, 1980,
1983, 1985, 1988, 1990, 1991, 1995, 1996); Hà Ký (1968, 1976 .); Matskasi (1973); Phạm
Văn Khuê (1970, 1971, 1973 ); Phạm Sỹ Lăng (1973, 1975 ); Nguyễn Thị Lê,
Nguyễn Quý Tuấn (1976); Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực (1976); Phan Trọng
Cung, Đoàn Văn Thụ, Nguyễn Văn Chí (1977); Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh
(1978); Phan Thế Việt, Phan Lục (1978); Phan Thế Việt (1966, 1973, 1977, 1978,
1981, 1983, 1984 .); Nguyễn Thị Kỳ (1977, 1980, 1994); Nguyễn Thị Lê và cộng sự
(1987, 1990, 1996); Hà Duy Ngọ (1985, 1990 .); Nguyễn Văn Châu (19971; Nguyễn Thu

Vân (1997); Phạm Văn Lực, Nguyễn Văn Đức, Bùi Quang Tề, Lương Tố Thế, Lê Ngọc
Mỹ . đã công bố về khu hệ, sinh học, sinh thái của ký sinh trùng ở các nhóm động vật Việt
Nam.
Từ năm 1990 đến nay, đã có những công trình nghiên cứu về giun sán ký sinh ở
heo một số tỉnh phía Nam và biện pháp phòng ngừa của Lương Văn Huấn (1990 -
1994); những công trình nghiên cứu về bệnh sán lá gan và bệnh tiên mao trùng của
Lương Tố Thu và cs (1992 - 1996); công trình nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học của
các bệnh ký sinh trùng chính ở trâu, bò, heo Việt Nam và biện pháp phòng trừ của
Nguyên Đăng Khai (1992 - 1996); công trình nghiên cứu về bệnh giun phổi heo của
Nguyễn Đức Tân (1992 - 1996); công trình nghiên cứu về sự liên quan giữa tỷ lệ
nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc (KCTG) với tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò (KCCC)
để đánh giá tình hình dịch tễ bệnh của Nguyễn Trọng Kim (1993 - 1997); công trình
nghiên cứu một số đặc tính sinh học của Trypanosoma evansi (Steel, -1885) và bệnh
học do Trypanosoma evansi gây nên của Nguyễn Quốc Doanh (1993 - 1998); công
trình nghiên cứu về dịch tễ bệnh giun đũa bê, nghé ở tỉnh Bắc Thái (cũ) của Lê Hải
Đường (1994 - 1998); công trình nghiên cứu tình hình nhiễm cầu trùng Eimeria, một
số đặc điểm của bệnh cầu trùng gà ở TP. Hồ Chí Minh và thử nghiệm thuốc phòng trị
của Hoàng Thạch (1994 - 1999); công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh học, dịch tễ
biện pháp phòng trừ sán lá ruột heo ở vùng đồng bằng sông Hồng của Nguyễn Văn
Thọ (1994 - 2005); những công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan về bệnh ký
sinh trùng đường tiêu hoá của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt
5
Nam, về bệnh cầu trùng gà ở Thái Nguyên (1995 - 2002); công trình nghiên cứu về
đặc điểm dịch tễ học bệnh sán lá dạ cỏ ở trâu, bò và biện pháp phòng trị của Trần
Ngọc Thắng (1997 - 2004) ; công trình nghiên cứu về tình trạng nhiễm giun sán đường
tiêu hoá ngựa ở Thái Nguyên, Bắc Kim và biện pháp phòng trị của Hoàng Văn Dũng
(1995 - 2001); công trình nghiên cứu về bệnh cầu trùng gia cầm và giải pháp phòng trị
cầu trùng cho gà, bồ câu của Bạch Mạnh Điều (1997 - 2004); công trình nghiên cứu về
kháng nguyên bề mặt Trypanosoma evansi phân lập từ trâu, bò phía Bắc Việt Nam và
tinh chế kháng nguyên dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp của

Vương Thị Lan Phương (1999 - 2004); công trình nghiên cứu tình hình nhiễm Varoa
iacobsoni ở hai loài ong Apis cerana, Apis mellifera và biện pháp phòng trị của
Ngô Nhật Thắng (2001 - 2005); công trình nghiên cứu về bệnh tiên mao trùng do T.
evansi
ở trâu, bò tại các tỉnh miền Trung của Phan Văn Chinh (2000 - 2006); những
công
trình nghiên cứu về bệnh cầu trùng heo ở tỉnh Thái Nguyên và biện pháp phòng trị của
Nguyễn Thị Kim Lan và Lê Minh (2006 - 2008).
6
Chương 2
MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ BỆNH GIUN SÁN Ở GIA SÚC
Bài 1 BỆNH SÁN LÁ GAN Ở TRÂU, BÒ, DÊ
(Fasciolosis)
Bệnh sán lá gan ở trâu, bò, dê do hai loài sán lá ký sinh ở ống dẫn mật và gan gây ra
(Fasciola hepatica và Fasciota gigantica). Ngoài trâu, bò, dê, hai loài sán này còn
gây bệnh cho các động vật nhai lại khác, đôi khi thấy cả ở người.
F. hepatica và F. giantica là hai loài sán lá phổ biến ở các vùng thuộc châu Á và
Châu Phi. Theo Stemphenson (1947) và Urquhat (1956), tác hại của sán lá gan đối với gia
súc nhai lại rất lớn, biểu hiện rõ nhất là gây thiếu máu, viêm và xơ gan khi gia súc bị nhiễm
sán lá gan ở mức độ nặng.
1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA SÁN LÁ FASCIOLA
1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Skrjabin và cs (1977), Nguyễn Thị Lê và cs (1996), sán lá gan ký sinh và
gây
bệnh cho gia súc nhai lại được xếp trong hệ thống phân loại động vật như sau: Ngành
Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành Platodes Leuckart, 1854.
Lớp Trematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolida Skrjabin et Schulz, 1937

Phân bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Fasciotidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolinae Stiles et Hassall, 1898
Giống Fasciola Linnaeus, 1758
Loài Fasciola hepatica (Linnaeus, 1758).
Loài Fasciota gigantica (Cobbold, 1885)
1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola
Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lưỡng tính, có thể thụ tinh chéo hoặc tự thụ tinh.
Sán có giác miệng và giác bụng, giác bụng không nối với cơ quan tiêu hoá: Sán không có hệ
hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị giác (ở giai đoạn mao ấu có dấu vết sắc tố mắt). Hệ sinh
7
dục rất phát triển với cả bộ phận sinh dục đực và cái trong cùng một sán. Tử cung sán
chứa đầy trứng.
Có thể phân biệt hai loài sán lá gan thuộc giống Fasciola như sau:
- F. gigantica (Linnaeus, 1758): có chiều dài thân gấp 3 lần chiều rộng, "vai"
không có hoặc nhìn không rõ rệt, nhánh ruột chia toả ra nhiều nhánh ngang.
F. gigantica (nghĩa là sán lá "khổng lồ") dài 25 - 75 mm, rộng 3 - 12 mm, u lồi
hình nón của đầu là phần tiếp theo của thân, vì vậy nó không có "vai" như loài khác
của
giống Fasctota. Hai rìa bên thân sán song song với nhau, đấu cuối của thân tù. Giác
bụng tròn lồi ra. Ruột, tuyến noãn hoàng, buồng trứng và tinh hoàn đều phân
nhánh.
Trứng hình bầu dục, màu vàng nâu, phôi bào to đều và xếp kín vỏ. Kích thước trứng: 0,125
- 0,170 x 0,06 - 0,10 mm.
- F. hepatica (Linnaeus, 1758): trái với loài trên, loài này thân rộng, đầu lồi và
nhô ra phía tluu~ làm cho sán có "vai", nhánh ruột chia ít nhánh ngang hơn.
F. hepatica (nghĩa là sán lá ở gan) dài 18 - 51 mm, rộng 4 - 13 mm, phần trước
thân nhô ra, tạo cho sán có vai bè ra hai bên. Hai rìa bên thân sán không song song với nhau
mà phình ra ở chỗ vai rồi thót lại ở đoạn cuối thân. Những ống dẫn tuyến noãn hoàng
chạy ngang, chia vùng giữa của sán thành phần trước và phần sau thân. Phần sau thân có

tinh hoàn và bộ phận sinh dục đực. Tinh hoàn phân nhiều nhánh xếp phía sau thân. Tử
cung ở phấn giữa thân trước tạo nên một mạng lưới rối như tơ vò. Buồng trứng phân nhánh
nằm ở sau tử cung.
Trứng sán có hình thái, màu sắc tương tự trứng của loài F. gigantica, kích thước 0,13 -
0,145 x 0,07 - 0,09 mm
8
1.3. Chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola
Chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola đã được Leukart (1882) nghiên cứu ở Đức và
Thomas (1882) nghiên cứu ở Anh.
Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật của trâu, bò, dê. Sau khi thụ
tinh, mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Những trứng này cùng dịch mật vào ruột, sau đó
theo phân ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi: được nước mưa cuốn trôi xuống các
vũng nước, hồ, ao, suối, ruộng nước ., nhiệt độ 15 - 30
0
C, pH : 5 - 7,7, có ánh sáng
thích hợp sau 10 - 25 ngày trứng nở thành Miracidium bơi tự do trong nước. Nếu
thiếu ánh sáng, Miracidium không có khả năng thoát vỏ nhưng vẫn tồn tại đến 8 tháng
trong vỏ, Miracidium có hình tam giác, xung quanh thân có lông và di chuyển được
trong nước. Khi gặp vật chủ trung gian thích hợp (ốc Lymnaea), Miracidium xâm nhập
cơ thể ốc và phát triển thành bào ấu (Sporocyst). Những Miracidium không gặp vật
chủ trung gian thì rụng lông, rữa dần và chết.
Bào ấu (Sporocyst) hình túi, màu sáng, được bao bọc bởi lớp màng mỏng, các tế
bào ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đám phôi. Trong 1 ốc có thể có 1
- 2 ấu trùng. Khoảng 3 - 7 ngày, bào ấu sinh sản vô tính cho ra nhiều Redia (lôi ấu). Một
bào ấu sinh ra 5 - 15 lôi ấu.
Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động, có miệng, hầu, ruột, hình túi đơn giản. Có hai hệ:
Redia thế hệ 1 và Redia thế hệ II cùng phát triển trong ốc - vật chủ trung gian. Ở nhiệt
độ 16
0
C hoặc thấp hơn, lôi ấu chỉ sản sinh Redia I và dừng phát triển. Ở nhiệt độ phù hợp

(20 - 30
0
C), Sau 29 - 35 ngày, lôi ấu biến thành vĩ ấu (Cercaria). Một Redia có thể sinh
ra 12 - 20 Cercaria.
Cercaria (vĩ ấu) là ấu trùng ở pha sống tự do của sán lá gan, có cấu tạo thân hình
tròn lệch, đuôi dài hơn thân giúp vĩ ấu vận chuyển được dễ dàng trong nước. Cấu tạo
của vĩ ấu gồm giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và ruột phân thành hai nhánh.
Theo Ginyecisz - Kaija (1960), trong cơ thể Cercaria còn có những hạt Glycogen
cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của ấu trùng, đặc biệt là cho sự vận động
không ngừng của đuôi. Đuôi là cơ quan vận động của vĩ ấu. Theo một số tác giả, đuôi làm
nhiệm vụ thay đổi vị trí của ấu trùng trong môi trường nước. Lizz (1922) cho biết, nhờ sự
hoạt động tích cực của đuôi mà vĩ ấu tiếp cận để bám vào các cây thuỷ sinh, tạo thành kén
(Adolescaria).
Từ khi Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần khoảng 50 - 80
ngày. Sau khi thành thục, Cercaria thoát khỏi ốc, ra môi trường ngoài, bơi tự do trong
nước, có kích thước 0,28 - 0,30 mm chiều dài và 0,23 mm chiều rộng. Sau vài giờ bơi
trong nước, Cercaria rụng đuôi, tiết chất nhầy xung quanh thân, chất nhầy gặp không khí
khô rất nhanh. Lúc này Cercaria đã biến thành Adolescaria.
9
Hình 45. Các dạng ấu trùng của
sán Fasciola
1a. Mao ấu nở ra từ trứng sán;
1b. Bào ấu
2a. Lôi ấu non;
2b. Lôi ấu già có vĩ ấu non
3a. Lôi ấu mẹ phóng ra nhiều lôi ấu con
3b. Vĩ ấu ấu trùng sán là gan chui khỏi ốc
4a. Vĩ ấu rụng đuôi tạo thành kén
4b. Kén sán lá gan
Adolescaria hình khối tròn, bên trong chứa phôi hoạt động. Phôi có giác miệng,

giác bụng, ruột phân nhánh và túi bài tiết. Adolescaria thường ở trong nước hoặc bám
vào cây cỏ thuỷ sinh Nếu trâu, bò, dê thiết phải Adolescaria, vào đến dạ dày và ruột,
lớp vỏ ngoài bị phân huỷ, ấu trùng được giải phóng và di chuyển đến ống mật bằng 3
con đường:
- Một số ấu trùng dùng tuyến xuyên chui qua niêm mạc ruột, vào tĩnh mạch ruột, qua tĩnh
mạch cửa vào gan, xuyên qua nhu mô vào ống mật.
- Một số ấu trùng khác cũng dùng tuyến xuyên chui qua thành ruột vào xoang bụng, đến
gan, xuyên qua vỏ gan vào ống mật.
Một số ấu trùng từ tá tràng ngược dòng dịch mật để lên ống dẫn mật.
Sau khi vào ống dẫn mật, ấu trùng ký sinh ở đó và phát triển thành sán lá gan
trưởng
thành. Theo Skerman (1966), thời gian hoàn thành vòng đời là 92 - 117 ngày. Fasciola
trưởng thành có thể ký sinh trong ống dẫn mật của súc vật nhai lại 3 - 5 năm, có khi tới 11
năm.
Theo Phan Địch Lân (2004), khoa học thú y nước ta đã nghiên cứu thành công
vòng đời của sán lá gan. Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp (28 - 30
0
C), có ốc vật chủ
trung gian (Lymnae swinhoei và Lymnae viridis), có vật chủ cuối cùng (trâu, bò,
dê,
cừu) thì vòng đời của sán lá gan ở nước ta được xác định với các mức thời gian sau:
10
Hình 46. Vòng đời phát triển của sán Fasciola
1. Trứng nở thành Miracidium trong nước
2. Miracidium vào ốc - vật chủ trung gian
3. Cercaria rời khỏi ốc
4. Adolescaria bám trên cây cỏ thuỷ sinh .
5. Súc vật nhai lại nuốt Adolescaria
6. Sán lá gan trưởng thành ký sinh ống dẫn mật.


- Ở ngoài thiên nhiên: trứng sán lá gan nở thành mao ấu (Miracidium) trong
khoảng 14 - 16 ngày.
- Ở trong ốc vật chủ trung gian:
Mao ấu (Miracidium) phát triển thành bào ấu (Sporocyst) cần 7 ngày.
Bào ấu (Sporocyst) phát triển thành lôi ấu (Redia) cần 8 - 21 ngày.
Lôi ấu (Redia) phát triển thành vĩ ấu (Cercaria) non cần 7 - 14 ngày, thành vĩ ấu trưởng
thành cần 13 - 14 ngày.
- Ở ngoài ốc vật chủ trung gian: vĩ ấu phát triển thành kén (Adolescaria) sau 2
giờ.
- Ở trâu, bò: khi trâu bò, bê nghé thiết phải Adolescaria, sau 79 - 88 ngày trong
ống dẫn mật của trâu bò đã có sán lá gan trưởng thành đẻ trứng theo phân ra ngoài. Điều
kiện nhiệt độ và ẩm độ của nước ta rất thuận lợi cho sự nhiễm và gây bệnh của sán lá gan
(kể cả gây nhiễm và nhiễm tự nhiên). Ở những vùng có mầm bệnh tồn
tại, cứ trung bình 3
tháng sán lá. gan lại hoàn thành vòng đời trong cơ thể trâu, bò,
nghĩa là trong trâu bò lại
tạo ra một đời sán mới. Con vật trong khi đã có sán lá gan ký sinh lại tiếp tục nhiễm thân
11
mầm bệnh mới, gây tình trạng bội nhiễm sán lá gan, vì vậy cường độ nhiễm tăng lên theo
tuổi trâu, bò.
2. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC BỆNH SÁN LÁ FASCIOLA
Bệnh sán lá gan phổ biến ở khắp các châu lục và nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam,
bệnh thấy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước.
Houmeder (1938) đã điều tra và thấy, trâu, bò, dê, cừu, thỏ ở miền Bắc Việt Nam
đều
nhiễm sán lá F. gigantica theo tỷ lệ thứ tự là 64,7%; 23,5%; 37%; 52,94%;
14,28%; đặc biệt có 2 trường hợp người nhiễm sán.
Trịnh Văn Thịnh (1978) cho biết, trâu trưởng thành mắc bệnh sán lá gan do
F.gigantica, tỷ lệ nhiễm tới 50 - 70%. Theo Phan Địch Lân (1980), mổ khám 1043 trâu
ở Thái Nguyên, số trâu nhiễm sán lá gan là 57%, trong đó có nhiều gan phải huỷ

bỏ do số
lượng sán quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện Bình Lục - Nam Hà, tỷ lệ nhiễm sán lá
gan ở trâu là 51,2 - 57,5%.
Đoàn Văn Phúc (1980) đã kiểm tra 64 bò tại trại bò sữa Hà Nội, thấy tỷ lệ nhiễm sán
Fasciola là 73,43%. Tác giả còn cho biết, bệnh sán lá gan đã ảnh trong rõ rệt đến sức
khoẻ và sản lượng sữa của đàn bò.
Nguyễn Đức Dương (1995) đã xét nghiệm phân của 537 hành tại các trại nuôi hươu
ở HÀ T nít, Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An) và công viên thủ lệ Hà Nội, phát hiện
13,22% số hươu nhiễm sán F. gigantica.
Theo Nguyễn Quang Sức và Nguyễn Thế Hùng (1995), đàn dê Bách Thảo sau hơn 3
năm nuôi tại Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ Sơn Tây và một số gia đình nuôi dê nhiễm sán
lá gan với tỷ lệ 30,4%.
Đoàn Văn Phúc, Vương Đức Chất, Dương Thanh Hà (1995) cho biết, trâu bò
thuộc
khu vực Hà Nội nhiễm sán lá gan tỷ lệ 53,41%.
Kết quả kiểm tra trâu, bò ở một số địa phương xung quanh Hà Nội, Bắc Giang,
Thái
Nguyên, Hoà Bình, tỷ lệ nhiễm sần lá gan là 44,53%. Trong đó, trâu nhiễm 33,92%,
bò nhiễm 54,21% (Lương Tố Thu và Bùi Khánh Linh, 1996).
Nguyễn Thị Kim Lan (2000) đã nghiên cứu và cho biết, đàn dê địa phương nuôi ở
các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kim, Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm sán lá gan biến động
từ 5,3% đến 27,9% tuỳ theo địa phương.
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại phụ thuộc vào những yếu tố
sau:
- Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ
Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến sự tồn tại và
phát triển của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện ẩm ướt, mưa nhiều tạo ra
môi trường nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh sản thuận lợi.
12
Trịnh Văn Thịnh (1963), Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), Phạm Văn Khuê và Phan

Lục (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) . đều cho biết, gia súc nhai lại nhiễm
sán lá gan thường tăng lên vào mùa vật chủ trung gian phát triển. Những năm mưa
nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên so với những năm nắng ráo và khô hạn. Mùa vụ
gắn liền với sự thay đổi thời tiết khí hậu. Mùa hè thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan
tăng cao hơn các mùa khác trong năm. Cuối mùa thu và mùa đông bệnh thường phát
ra.
- Yếu tố vùng và địa hình
Vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau, song có liên quan chặt chẽ với
nhau.
Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là yếu tố quan trọng quyết
định sự khác nhau giữa các vùng.
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều thuộc bốn
loại địa hình: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học thống nhất rằng, gia súc nhai lại ở vùng đồng
bằng nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm giảm dần đối với đàn gia
súc nhai lại ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi. Về nguyên nhân dẫn .đến quy
luật này, các tác giả (Trịnh Văn Thịnh, 1963; Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Soulsby,
1982; Kaufmann, 1996 .) đều giải thích: vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh, rạch,
có điều kiện cho ốc - vật chủ trung gian sống và sinh sản. Các kiểưđịa hình khác thì vấn
đề này han chế hơn so với đồng bằng.
13
Phan Địch Lân (1994) đã điều tra 7.359 trâu, bò ở 26 tỉnh miền Bắc Việt Nam,
kết quả thấy: trâu bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan cao nhất, sau đó đến vùng
trung du, vùng ven biển và miền núi (bình quân tỷ lệ nhiễm sán ở các vùng điều tra như
sau: vùng đồng bằng từ 19,6% đến 61,3%, vùng trung du từ 16,4% đến 50,2%,
vùng ven
biển từ 13,7% đến 39,6%, vùng núi từ 14,7% đến 44,0%). Theo Nguyễn
Đăng Khai
(1996), tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu bò vùng đồng bằng qua mổ khám là 88%, vùng trung
du là 77,6%.

- Yếu tố loài và tuổi vật chủ cuối cùng
Súc vật nhai lại đã được thuần hoá như trâu, bò, dê, cừu đều nhiễm sán lá gan
Fasciola. Ngoài ra, súc vật hoang dã cũng nhiễm sán lá này (hươu, nai, hoẵng .).
Cũng có những trường hợp thỏ, ngựa, heo nhiễm Fasciola, ngay cả người cũng có thể
nhiễm sán.
Ở nước ta, theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), Phạm Văn Khuê và cs (1996), loài súc
vật nhiễm sán lá Fasciola nhiều nhất là trâu (79,6%), bò ít hơn (36%), dê ít nhất (20%).
Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều là do đặc tính ưa nước của chúng (thích ăn gần chỗ có
nước, đằm tắm trong nước và uống nước ở vũng, ao, kênh rạch), trong khi đặc điểm của bò
và dê ít ưa nước hơn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998), dê địa phương ở Thái Nguyên, Bắc
Kim,
Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm sán lá gan ở các lứa tuổi là 14,88%, ở dê
trưởng
thành là 22,86%. Tác giả nhận xét: khi thiếu thức ăn, cả đàn dê có thể lội xuống ruộng
nước để an cỏ sống dưới nước, do đó dễ dàng thiết phải kén gây bệnh.
Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan và tuổi vật chủ, các tác
giả đều thống nhất rằng, tuổi súc vật càng cao thì tỷ lệ và cường độ nhiễm càng tăng
14
lên. Một điều dễ nhận thấy là, súc vật tuổi càng tăng lên (thời gian sống càng dài) thì
sứ tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh càng nhiều, cơ hội gặp và thiết phải nang ấu
(Adolescaria) càng cao. Mặt khác, sán Fasciola trưởng thành có thời gian ký sinh ở
súc vật nhai lại tương đối dài (3 - 5 năm, thậm chí tới 1 1 năm). Đó chính là cơ sở khoa
học giải thích cho quy luật nhiễm theo tuổi vật chủ của sán lá Fasciola sp
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết, trâu dưới 3 năm tuổi chỉ nhiễm sán lá gan
17,2 - 22,0%; trâu 3 - 5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2 - 40,2%, trâu 5 - 8 năm tuổi
nhiễm 42,4 - 57,5%, trâu trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8 - 66,3%, trâu ở độ tuổi phế canh
(loại thải) khi mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm cao tới 84,6% (những trâu này bị bệnh rất
nặng, gan phải huỷ bỏ toàn bộ do có quá nhiều sán ký sinh). Theo Nguyễn Thị Kim
Lan (2000), tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan cũng tăng lên theo tuổi dê.

Nguồn gieo rắc bệnh chủ yếu là súc vật nuôi (trâu, bò, dê, cừu ) và những dã
thú mang Fasciola. Trứng sán lá gan theo phân của súc vật ra ngoài tự nhiên. Hàng
năm, mỗi sán lá gan ký sinh đẻ khoảng 6000 trứng: Vì vậy, mỗi súc vật mang sán hàng năm
thải khối lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ và các bãi chăn thả. Những đồng cỏ ẩm thấp, lầy
lội là những nơi cần thiết để mầm bệnh phát triển và xâm nhập vào súc vật, đồng thời
thuận lợi cho trứng nở thành Miracidium và thuận lợi cho vật chủ trung gian của
Fasciota tồn tại và phát triển.
- Vật chủ trung gian của Fasciola sp.
Sự phân bố các loài ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan phụ thuộc vào các
vùng
địa lý khác nhau. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Kaufmann (1996), vật chủ trung gian
của sán lá Fasciola là các loài ốc nước ngọt họ Lymnaea: L. auricularia, L.
swinhoei, L. viridis, Galba truncatula, Radix ovata.
Phan Địch Lân (1980) đã tổng hợp và cho biết: loài ốc - vật chủ trung gian của F.
gigantica ở Ấn Độ là L. acuminata, ở châu Phi là L. natalensis, ở Pakistan
là L.
permisca, ở Apganixtan là L. luteola, ở Malaixia là L. auricularia, ở Nhật Bản là
L.
pervia, ở Indonexia và Philippine là L. viridis, ở Hungari là G. truncatula v.v
Ốc G. truncatula là loài ốc nhỏ, dài 10 mm, rộng 5 mm, vỏ màu xám; đầu dài, có 4
- 5 gai thịt. Nhiệt độ tốt nhất để loài ốc này phát triển là 20 - 22
0
C, pa: 6,6 - 8,6, sinh sản
mạnh từ tháng 4 đến tháng 9.
Theo Jorgen Hansen và cs (1994), nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của
ốc là 15 - 26
0
C, khi ở nhiệt độ này chúng đẻ số lượng trứng rất lớn . Trứng nở trong
vòng 2 tuần và sau 1 tháng thành ốc trưởng thành. Một con ốc trong vòng 10 - 12 tuần
có thể sinh sản ra hàng ngàn con ốc. Ở dưới tước, ốc không phát triển và ngừng hoạt

động. Tuy nhiên, ốc có thể chui vào bùn và sống trong điều kiện bất lợi nhiều tháng.
15
Phan Địch Lân và cs (1985) đã khảo sát đặc điểm sinh học của ốc - vật chủ trung
gian của F. gigantica ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cho biết, vật chủ trung gian của
sán lá Fasciola là hai loài ốc nước ngọt thuộc giống Lymnae với tên gọi là ốc vành tai
(L. swinhoei) và ốc chanh (L. viridis). Loài L. swinhoei có vỏ mỏng, dễ vỡ không

nắp miệng, kích thước 20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần thân,
vỏ leo ra như vành tai. Loài L. viridis cũng có vỏ mỏng, không có nắp miệng, kích
thước 10 mm, vở dễ vỡ, có 4 - 5 vòng xoắn, vòng xoắn cuối cùng lớn (hình 48).
Ốc L. viridis thường sống ở những nơi nước xâm xấp, đẻ trứng thành ở 7 - 10
trứng, sau 7 ngày nở thành ốc con. Ốc L. swinhoei thường sống trôi nổi ở cống rãnh, ao,
hồ, đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ có 60 - 150 trứng. Trong điều kiện nhiệt độ ở nước ta, ốc đẻ
quanh năm và quanh năm có ốc con được nở ra.
Phan Địch Lân (1994, 2004) cho biết: ốc L. swinhoei phân bố nhiều hơn ở vùng
đồng bằng, trong khi ốc L. viridis phân bố nhiều hơn ở vùng núi, trung du và ven biển.
Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì hai loài ốc này đều xuất hiện trong cả 12 tháng của
năm, nhưng mật độ (tính trên 1 m
2
) khác nhau theo vùng: vùng đồng bằng, mật độ ốc L.
swinhoei cao hơn và phân bố đều trong năm, còn ốc L. viridis thì xuất hiện với mật độ
cao hơn ở các vùng núi, trung du, ven biển. Từ đó, tác giả nhận xét rằng, L. swinhoei
chịu nước hơn, còn L. viridis chịu cạn hơn.
Sự tồn tại và phát triển quanh năm, ở tất cả các vùng của ốc - vật chủ trung gian
là điều kiện quan trọng nhất làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan của súc vật nhai lại ở nước
ta cao và phổ biến ở tất cả các vùng. Phan Địch Lân (1994, 2004) đã tổng hợp và cho
biết, nước ta được xếp vào một trong 5 nước ở châu Á trồng lúa nước có đàn trâu, bò
nhiễm bệnh sán lá gan với tỷ lệ cao nhất. Kết quả điều tra ở một số vùng cho thấy:
Ở 11 tỉnh miền núi, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu bò là 39%.
Ở 4 tỉnh trung du, tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu bò là 42,2%.

16
Ở 5 tỉnh thuộc vùng đồng bằng, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 57,5%.
Ở 6 tỉnh thuộc vùng ven biển, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 36,7%.
Theo Nguyễn Trọng Kim (1997), giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc -
vật chủ trung gian với tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò có mối tương quan thuận, nghĩa
là, nếu tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc nước ngọt cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan của
trâu, bò ở khu vực đó cũng cao.
- Sức đề kháng của trứng và ấu trùng sán lá gan
Trứng sán lá gan được thải theo phân súc vật nhai lại ra môi trường ngoại cảnh.
Trứng sán rất nhậy cảm với điều kiện khô hạn và tác động trực tiếp của ánh sáng mặt trời.
Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển, trứng bị chết sau 8 - 9 ngày.
Trong điều kiện khô hạn, vọ trứng bị nhăn nheo, biến đổi hình dạng, Miracidium bị
chết trong vỏ trứng sau 1 - 1,5 ngày. Ở môi trường ẩm ướt, trứng có khả năng sống khá lâu
(trong phân hơi ẩm, trứng tồn tại đến 8 tháng). Dưới ánh nắng chiếu trực tiếp, trứng chết
nhanh. Phôi bị chết sau 2 ngày ở nhiệt độ thấp (-5
0
C → - 15
0
C). Nhiệt độ 10 - 20
0
C, trứng
ngừng phát triển. Nhiệt độ 40 - 50
0
C, phôi chết sau vài phút (Phạm Văn Khuê và cs, 1996).
Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu (Adolescaria), sức đề kháng của chúng tăng
lên rõ rệt. Adolescaria có khả năng tồn tại ở nhiệt độ -4
0
C → -6
0
C. Ở điều kiện nhiệt độ

bình thường, những Adolescaria có trong cỏ khô bị ẩm và trong môi trường nước có thể
tồn tại đến trên 5 tháng (Kaufmann, 1996).
3. ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ VÀ LÂM SÀNG BỆNH SÁN LÁ FASCIOLA
Súc vật bị bệnh sán lá gan thể hiện những biến đổi cơ bản ở gan và ống mật do tác
động của Fasciola gây ra.
3.1. Bệnh lý và lâm sàng bệnh sán lá gan ở trâu, bò
3.1.1. Bệnh lý của bệnh sán lá gan trâu bò
Theo các nhà ký sinh trùng học, sán lá gan gây bệnh ở vật chủ bằng các tác động
cơ học, tác động của độc tố, sự chiếm đoạt dinh dưỡng và tác động mang trùng. Khi
súc vật mới nhiễm bệnh, sán non di hành trong cơ thể làm tổn thương ở ruột, thành
mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu trùng có thể theo máu di chuyển "lạc chỗ" đến phổi,
lách, cơ hoành, tuyến tuỵ . gây tổn thương và xuất huyết nặng hoặc nhẹ. Sán non
xuyên qua các nhu mô gan, làm tổ chức gan bị phá hoại, tạo ra những đường di hành
đầy máu và mảnh tổ chức gan bị phá huỷ. Gan bị viêm từ nhẹ đến nặng tuỳ theo số
lượng ấu trùng nhiễm vào cơ thể. Súc vật bị thiếu máu do xuất huyết, có thể chết do
mất máu.
Tác động cơ giới của sán còn tiếp tục khi sán đã vào ống dẫn mật, tiếp tục tăng lên
về kích thước và phát triển thành sán trưởng thành. Sán trưởng thành thường xuyên
kích
thích niêm mạc ống mật bằng các gai cuốn trên cơ thể, gây viêm ống mật. Số
lượng sán
17
nhiều có thể làm tắc ống mật, mật ứ lại không xuống ruột được sẽ tràn vào máu, gây hiện
tượng hoàng đản.
Trong quá trình ký sinh, sán thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác động vào thành
ống mật và mô gan, gây biến đổi đại thể và vi thể, làm tăng quá trình viêm. Đồng thời,
độc tố của sán còn hấp thu vào máu, gây hiện tượng trúng độc toàn thân, gây huỷ hoại
máu, làm biến chất protein trong máu, làm Albumin giảm, Globulin tăng. Độc tố của
sán còn làm tăng nhiệt độ cơ thể, tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu ái toan). Độc tố
của sán còn tác động vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng thần kinh (run rẩy,

đi xiêu vẹo) Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch máu, làm tăng tính thấm
của thành mạch, gây hiện tượng thuỷ thững, làm cho máu đặc lại. Cũng do tác động
của độc tố nên giữa những tiểu thuỳ gan có hiện tượng thấm nhiễm huyết thanh và tế
bào, hình thành nên các mô liên kết mới dọc theo các vách ngăn của tiểu thùy gan và
quanh ống mật, vì vậy những ống mật này cũng dày lên. Quá trình viêm kéo dài làm
cho các tế bào tổ chức tăng sinh, thay thế những tế bào nhu mô gan, gây hiện tượng xơ
gan và teo gan. Khi súc vật nhiễm sán lá gan nặng, hiện tượng xơ gan chiếm diện tích
lớn của gan, làm cho chức năng của gan bị phá huỷ. Từ đó dẫn đến hàng loạt rối loạn
khác như: rối loạn cơ năng dạ dày - ruột, thiếu máu, suy nhược, gầy dần, cổ chướng,
xoang phúc mạc tích nước.
Một tác động quan trọng của Fasciola khi ký sinh ở vật chủ là chiếm đoạt dinh dưỡng. Dinh
dưỡng của sán lá gan là máu súc vật mà nó ký sinh. Bằng phương pháp
phóng xạ, người ta đã thấy mỗi sán ký sinh ở ống dẫn mật lấy 0,2 ml máu mỗi ngày.
Như vậy, nếu súc vật nhiễm ít sán thì vai trò chiếm đoạt dinh dưỡng không rõ, nhưng nếu
mỗi súc vật có hàng trăm, hàng nghìn sán ký sinh thì lượng máu mất đi rất nhiều. Ngoài các
tác động gây bệnh trên, trong khi di hành, sán non còn mang theo các loại vi trùng từ bên
ngoài vào máu, gan và những cơ quan khác, gây những bọc mủ hoặc gây bệnh truyền nhiễm
khác .
Tất cả những tác động kể trên của sán lá Fasciola làm cho sức đề kháng của cơ thể trâu, bò
giảm sút nghiêm trọng, dễ mắc các bệnh khác, hoặc làm cho các bệnh đang có trong cơ thể
súc vật nặng thêm lên.
Daves (1958) nhận xét rằng, gia súc bị suy nhược và thiếu máu là do độc tố của F.gigantica,
độc tố của sán còn tác động gây hiện tượng protein trong huyết thanh biến
chất, lượng Albumin giảm và Globulin tăng. Davtjan (1962) đã chứng minh, quá trình
dị ứng của cơ thể súc vật là kết quả tác động của các kháng nguyên sinh ra từ sán với
kháng thể xuất hiện trong tổ chức gan, và các chất sinh ra từ tổ chức khác bị huỷ hoại.
Quá trình dị ứng dẫn đến những rối loạn đầu tiên, biểu hiện bằng hiện tượng suy dinh
dưỡng, thiếu vitamin A, bằng sự tăng quá nhiều bạch cầu ái toan trong cơ thể.
3.1.2. Triệu chứng bệnh sán lá gan ở trâu bò
Triệu chứng lâm sàng là biểu hiện ra bên ngoài bởi các tác động gây bệnh của

18
sán Fasciola. Triệu chứng ở trâu, bò biểu hiện nặng hay nhẹ còn phụ thuộc vào cường
độ nhiễm sán, tình trạng sức khoẻ và tuổi súc vật, tình trạng chăm sóc quản lý v.v
Thể cấp tính thường gặp ở trâu, bò 1,5 - 2 năm tuổi (Phạm Văn Khuê và cs, 1996), trong
giai đoạn sán non di hành hoặc khi nuôi dưỡng, chăm sóc kém.
Súc vật biểu hiện: ăn uống sút kém, suy nhược, chướng bụng, ỉa chảy, miệng hôi,
sốt, gan sưng to và đau, thiếu máu, vàng da, đôi khi có triệu chứng thần kinh (lảo đảo,
xiêu vẹo). Súc vật có thể chết do xuất huyết nặng, trúng độc và suy nhược cơ thể.
- Thể mãn tính thấy phổ biến ở trâu, bò trưởng thành, khi súc vật được nuôi dưỡng tốt và
sán đã ở giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống dẫn mật với số lượng ít. Thể mãn tính
thường xuất hiện sau thể cấp tính 1 - 2 tháng.
Súc vật biểu hiện: ăn uống kém, suy nhược, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù và dễ rụng (nhất
là lông ở vùng dọc hai bên sườn và dọc xương ức). Xuất hiện thuỷ thông ở mí mắt, yếm,
ngực, bộ phận sinh dục. Thuỷ thững ban đầu lúc thấy, lúc không, về sau thấy liên tục Con
vật nhai lại yếu, khát nước, ỉa chảy xen kẽ táo bón, gày yếu dần. Giai đoạn sau đi tháo nhiều
hơn và gày rất nhanh. Kiểm tra lâm sàng thấy gan sưng to và đau. Có thể thấy hiện tượng
xảy thai ở bò cái bị bệnh, lượng sữa có thể giảm 30 - 50%. Triệu chứng thần kinh cũng có
thể gặp song rất hiếm. Bệnh kéo dài nhiều tháng, con vật có thể chết do suy nhược toàn
thân.
Phan Địch Lân (1994, 2004) đã theo dõi 37 trâu bị bệnh sán lá gan nặng, thấy các triệu
chứng thường lặp đi lặp lại như: gày rạc, suy nhược cơ thể (37/37); phân nhão không thành
khuôn, có lúc ỉa lỏng (32/37); niêm mạc mắt nhợt nhạt, thiếu máu kéo dài (27/37); lông xù,
da mốc, lông dễ rụng (26/37); phân đen, thối khám (22/37); mắt sâu, có dử (18/37); bụng
ỏng, ỉa chảy kéo dài (13/37); thuỷ thông ở nách, hai chân trước, gan to (l l/37); thuỷ thông ở
ngực, ức liên tục (9/37).
Nhìn chung, khi súc vật bị bệnh sán lá gan kéo dài, cơ thể suy nhược nặng, nếu không được
điều trị kịp thời thì súc vật thường chết.
3.1.3. Bệnh tích của trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
Tuỳ theo mức độ nhiễm sán mà bệnh tích có sự khác nhau.
Đối với trâu bò nhiễm sán nặng, bệnh tích thấy rõ là viêm gan cấp tính, gan sưng to, màu

nâu sẫm, xung huyết. Trên mặt gan có thể thấy những đường di hành của sán non tạo thành
những vệt đỏ thẫm, dài 2 - 4 mm, trong có sán non với số lượng nhiều. Lớp thanh mạc xuất
huyết
nhẹ, đôi khi
có tơ huyết.
Khi nhiễm
nặng thấy viêm
phúc mạc, gan
19
xuất huyết nhiều, niêm mạc mắt nhợt nhạt.
Ở những súc vật nhiễm sán lá gan đã lâu, gan viêm mãn tính, những chỗ mô gan bị phá huỷ
có sẹo mầu vàng xám. Gan xơ cứng, niêm mạc ống dẫn mật dầy, có hiện
tượng can xi
hoá mặt trong thành ống. Lòng ống dẫn mật giãn rộng, chứa đầy dịch
màu nâu và sán
Fasciola. Khi ống mật bị can xi hoá nhiều, sán ở chỗ đó thường bị chết hoặc chuyển đến
chỗ ít biến đổi hơn.
Ngoài
gan và
ống mật, đôi khi còn thấy sán ở phổi trâu, bò. Trường hợp này sán ở trong những bọc bằng
quả trứng gà hoặc nhỏ hơn, trong chứa dịch màu nâu.
Quan sát biến đổi vi thể dưới kính hiển vi thấy: nhu mô gan mất màu, liên bào ống mật
thoái hoá, niêm mạc tăng sinh thành những u, trong u chứa nhiều bạch cầu, lâm ba cầu,
bạch cầu ái toan, đại thực bào chứa đầy sắc tố mật và máu. Quá trình viêm tăng sinh lan
xuống lớp sâu hơn của ống mật: tổ chức liên kết tăng sinh, lan vào các thuỳ gan làm tan
biến tổ chức gan (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996).
Nghiên cứu bệnh sán lá gan ở trâu, bò, Phan Địch Lân (1994) cho biết: khi mổ
khám trâu bò bị bệnh sán lá gan thấy có bệnh tích đặc biệt là gan to rất nhiều so với
bình thường (gấp 2 - 3 lần). Gan màu đỏ sẫm, biểu hiện xung huyết. Dưới vỏ gan thấy
ứa nước, trên mặt gan còn giữ lại những đường ngoằn nghoèo do sán di hành. Tổ chức

liên kết phát triển tạo nên những sẹo đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán non
không đến được ống dẫn mật, đóng kén và chết trong kén to bằng hạt đậu. Cắt tổ chức
20
gan thấy lạo xạo do biến chất thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức liên kết nên gan cứng và
xơ gan. Trường hợp viêm phúc mạc xoang bụng chứa nhiều nước (cổ chướng).
Nguyễn Thị Kim Thành và cs (1996) đã nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý máu
của trâu bị bệnh sán lá gan, kết quả thấy: số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết
sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, công thức bạch cầu thay đổi nghiêng về bạch cầu
ái toan.
3.2. Bệnh lý và lâm sàng bệnh sán lá gan ở dê
Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2002) đã tổng hợp những nghiên
cứu về bệnh sán lá gan của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Qua theo dõi bệnh lý và lâm sàng của nhiều dê bị bệnh, các tác giả cho biết: sau khi dê
nuốt phải kén Adolescana vài ngày, sán non di hành gây tổn thương thành ruột, thành
mạch quản, nhu mô gan, lách, phổi, cơ hoành, tuyến tuỵ, gây xuất huyết nặng hoặc
nhẹ. Thường thấy dê bị viêm gan, thiếu máu do xuất huyết. Sán trưởng thành kích
thích niêm mạc ống dẫn mật, gây viêm ống dẫn mật. Có những dê bị tắc ống mật do số
lượng sán quá nhiều, mật thấm vào máu, sinh ra hoàng đản. Sán thường xuyên tiết độc tố
làm biến đổi thành ống dẫn mật và mô gan. Độc tố hấp thu vào máu gây trúng độc toàn
thân. Độc tố còn phá hoại máu, làm tăng bạch cầu Eo sin và nhiệt độ cơ thể. Độc tố tác
động vào thần kinh của dê, tác động vào các thuỳ gan làm tổ chức liên kết tăng sinh, thoái
hoá nhu mô gan, gây xơ gan, chức năng gan bị phá huỷ dẫn đến rối loạn cơ năng dạ dày
và ruột.
Theo Holmes P. H và cs (1968), dê cừu bị bệnh Fasciola có triệu chứng thiếu máu nặng và
thay đổi protein huyết thanh. Thiếu máu là do sán non di hành gây xuất huyết và sán trưởng
thành hút máu ký chủ. Lượng máu mà mỗi sán đoạt của ký chủ xấp xỉ 0,5 ml/ngày.
Reid J. F. S (1973) cho biết, có sự thay đổi protein huyết thanh của những dê bị nhiễm sán
lá Fasciola. Sự thay đổi này xảy ra sớm, ngay trong giai đoạn sán non di hành. Đó là sự tăng
Globulin và giảm Albumin huyết thanh.
Gây nhiễm thực nghiệm sán lá Fasciola cho dê và theo dõi diễn biến bệnh lý, Rushton B. và

Murray M. (1977) thấy, sự di chuyển của sán non đã tạo ra những đường di hành ở gan và
phá huỷ cấu trúc nhu mô gan, gây viêm gan. Sự di hành của sán cũng gây nghẽn tĩnh mạch
ở gan và làm gan bị xung huyết. Sau đó, sự cản trở máu chảy dẫn đến thoái hoá và hoại tử
các nhu mô gan. Sự hàn gắn và tái sinh của những tổn thương này bắt đầu vào khoảng 4 - 6
tuần sau khi nhiễm. Xơ gan phát triển vào khoảng 12 - 20 tuần sau khi nhiễm.
Về lâm sàng, dê bị bệnh sán lá gan thể hiện hai thể: thể cấp tính, diễn ra chủ yếu ở giai đoạn
sán non di hành; thể mãn tính thường ở dê trưởng thành. Con vật ăn kém, cơ thể suy nhược,
không theo kịp đàn. Con vật thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù và dễ nhổ. Triệu
chứng ỉa chảy thấy ở 100% dê bệnh với các mức độ khác nhau. Thuỷ thông ở ngực, nách và
4 chân (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999).
21
Dê bệnh thể hiện rõ viêm gan, xơ gan, giãn mạch quản, ống dẫn mật có nhiều sán trong dịch
tiết, biểu mô của ống dẫn mật tăng sinh (Das P. M., 1987).
Nghiên cứu về bệnh sán lá gan ở dê, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1998) cho biết,
khi dê bị bệnh sán lá gan, số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố giảm, số
lượng bạch cầu tăng, bạch cầu Eo sin tăng cao. Mổ khám 748 dê 1 - 4 năm tuổi, có 159
dê nhiễm sán F. gigantica. Trong đó có 42 dê có bệnh tích rõ ở gan, chiếm 26,42%.
Bệnh tích đại thể ở gan dê nhiễm sán lá Fasciola nặng được tác giả mô tả như sau: gan
dê sưng to, bề mặt gan gồ nghề, không bằng phẳng. Sờ gan thấy cứng và thô hơn so
với gan bình thường. Mâu sắc gan không đồng nhất, có những vệt trắng xám loang lổ
hoặc những vệt đỏ thẫm trên mặt gan. Ở bề mặt và trong gan có những nốt hoại tử máu
trắng xám to bằng hạt đậu xanh. ống dẫn mật viêm và xơ hoá, nổi như dây chằng màu
trắng ở mặt dưới gan. Cắt gan thấy dai và nghe tiếng "soạt" như cắt xơ mướp. Dùng
kẻo cắt dọc ống dẫn mật thấy cứng, thành ống mật dầy lên, xù xì, lòng ống mật chứa
đầy dịch màu nâu sẫm, nhờn và có nhiều sán Fasciota. Tác giả còn cho biết, trong 159 dê
nhiễm sán lá gan mổ khám, có 42 dê phải huỷ bỏ gan do gan bị cứng, viêm và xơ
gan.
Biến đổi vi thể do sán F. gigantica ở dê được Nguyễn Thị Kim Lan (2000) mô tả như sau:
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật với số lượng nhiều làm tắc ống mật, làm cho dịch mật ứ
lại xung quanh các huyết quản, gây ra huyết khối trong các mạch quản gian thuỳ (hình 53).

22
Sán lá gan ký sinh ở ống dẫn mật làm cho dịch mật ứ lại, kích thích tế bào biểu mô ống
dẫn mật tăng sinh, hình thành các ống dẫn mật phụ (hình 54).
Thành ống dẫn mật bị sơ hoá, dày và xù xì. Tế bào biểu mô của ống mật bị đứt nát do tác
động của sán Fasciola (hình 55).
23

×