Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

một số yếu tố hình thức nghệ thuật gần gũi, quen thuộc và dễ vận dụng đối với học sinh thcs trong phân tích tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.07 KB, 13 trang )

Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Đọc tác phẩm văn học, trước hết chúng ta tiếp xúc với những hình thức thể
hiện cụ thể của nó: ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ nghệ thuật hiểu theo nghĩa rộng,
không chỉ là những từ ngữ mà đó còn là các kiểu câu, là những dấu câu và cách
ngắt nhịp, là vần, là giọng điệu, là sự tổ chức bố cục và kết cấu các chương,
đoạn trong tác phẩm văn học,… Phân tích tác phẩm văn học không được thoát ly
văn bản có nghĩa là trước hết phải biết nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội
dung. Trong phạm vi nhà trường THCS, chúng ta chỉ xem xét một số yếu tố
hình thức nghệ thuật gần gũi, quen thuộc và dễ vận dụng đối với học sinh. Với
đề tài này tôi chỉ xin đề cập đến một số yếu tố hình thức nghệ thuật trong việc
gảng dạy một tác phẩm thơ.
II. NỘI DUNG:
A. Những yếu tố cần chú ý khi phân tích:
1. Yếu tố ngữ âm.
a. Dấu câu
Bình thường, dấu câu chỉ có chức năng về ngữ pháp (để ngắt các thành
phần câu và ngắt các câu với nhau). Nhưng trong một số trường hợp, nếu nhà
văn dùng có dụng ý và dùng hợp lý thì dấu câu cũng có giá trị biểu đạt ý nghĩa
(ý nghĩa bổ sung, tức giá trị tu từ). Nhà văn Tô Hoài coi dấu câu là một loại
“từ”, là hình thức của chữ trong tác phẩm là vì thế. Ví dụ trường hợp dùng dấu
câu ba chấm để diễn tả sự im lặng. Chúng ta biết rằng trong những tình huống
giao tiếp thông thường của cuộc sống, im lặng nhiều khi lại nói được rất nhiều:
khi căm thù tột đỉnh, lúc xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn bả, lúc xúc
động dâng trào… Những cung bậc tình cảm này nhiều khi không thể mô tả được
bằng lời. Ví dụ dấu ba chấm trong đoạn thơ sau diễn tả sự im lặng thiêng liêng
của khoảnh khắc Bác Hồ đặt chân lên đất nước sau ba mươi năm xa cách:
Ôi! Sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về… Im lặng. Con chim hót.
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ…


(Tố Hữu – Theo chân Bác)
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 1
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Nếu nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng rất thành công dấu ba chấm thì Thế Lữ
cũng đã rất thành công với cách sử dụng dấu chấm hỏi trong đoạn thơ sau:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới ?
Đâu những ngày mưa tuôn nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng ?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật ?
- Than ôi ! Thời oanh liệt nay còn đâu ?
(Thế Lữ - Nhớ rừng)
Liên tiếp các câu hỏi tu từ: “Nào đâu ?”được đặt ra trong mười dòng thơ
như xoáy sâu vào nỗi lòng vào tâm can của con hổ, cho thấy sự nuối tiếc khôn
nguôi của vị chúa sơn lâm. Sự nuối tiếc ấy gắn liền với tâm trạng tuyệt vọng qua
lời than: Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? Với 5 câu hỏi tu từ và một dấu
chấm cảm Thế Lữ đã làm nên một đoạn thơ tuyệt bút của Nhớ rừng. Có thể nói
dấu câu đã đóng góp rất lớn trong việc biểu đạt nội dung của bài thơ nó không
chỉ có giá trị biểu đạt mà còn có giá trị biểu cảm lớn.
b. Cách ngắt nhịp
Không chỉ có dấu câu mà ngay cả cách ngắt nhịp (chủ yếu là trong thơ)
cũng cần được xem là một “từ” đa nghĩa, một từ đặc biệt. Cách ngắt nhịp thường
phụ thuộc vào dấu câu. Câu thơ của Chế Lan Viên trong bài thơ Người đi tìm
hình của nước:
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
nhiều học sinh đọc liền một mạch đã làm mất đi bao nhiêu sức gợi cảm sâu lắng,

thiết tha, một sự nuối tiếc đến xót xa do cái dấu chấm giữa dòng ấy tạo ra. Dấu
câu ở đây không chỉ là để tách ý, tách nghĩa mà còn để thể hiện thế giới nội tâm
của nhà thơ, phần không mô tả bằng lời.
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 2
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Tuy nhiên, nhiều khi ngắt nhịp còn được thể hiện không bằng dấu câu, mà
bằng một hình thức tổng hợp, phức tạp, và khi đó câu thơ có thể được hiểu ở
nhiều nghĩa do cách ngắt nhịp khác nhau. Chẳng hạn, câu thơ Tố Hữu:
Càng nhìn ta lại càng say
có thể ngắt nhịp 2/4:
Càng nhìn/ ta lại càng say
nhưng cũng có thể ngắt nhịp 3/3:
Càng nhìn ta/ lại càng say
và khi ấy ý nghĩa của nó cũng khác đi.
Câu thơ của Xuân Diệu:
Một chiếc xe đạp băng vào bóng tối
cũng có ít nhất 2 cách ngắt nhịp:
Một chiếc xe/ đạp băng vào bóng tối
và:
Một chiếc xe đạp/ băng vào bóng tối
Hai cách ngắt nhịp ấy cùng diễn tả một “sự tình” nhưng sắc thái khác nhau.
Nhiều trường hợp, sự xuống dòng liên tục, sự ngắt nhịp liên tục, đột ngột
của tác giả có một dụng ý hay đúng hơn có một ý nghĩa, một tác dụng trong việc
thể hiện nội dung.
Tóm lại khi tiếp xúc với một bài thơ, nhất là khi đọc bằng mắt, chúng ta cần
lưu ý đến hình thức dấu câu và xem cách ngắt nhịp của tác giả có gì đặc biệt.
Làm như thế, trước hết là để đọc cho đúng, cho diễn cảm và sau đó hãy phân
tích và chỉ ra ý nghĩa cũng như tác dụng của hình thức ấy trong việc biểu hiện
nội dung. Cũng cần lưu ý thêm rằng, dấu câu và ngắt nhịp không chỉ quan trọng
đối với riêng thơ mà ngay cả với văn xuôi cũng thế.

Chẳng hạn khi đọc bài thơ Lượm của nhà thơ Tố Hữu đến những câu thơ:
Ra thế
Lượm ơi !
- Thôi rồi, Lượm ơi !
- Lượm ơi , còn không ?
Ngữ điệu đọc không như những câu thơ khác mà phải ngắt quãng nhịp 2/2.
Câu thơ thứ nhất bị gãy đôi thành hai dòng như một tiếng nấc. Đó là sự ngạc
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 3
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
nhiên, xúc động đến nghẹn ngào của nhà thơ khi nghe tin Lượm hy sinh. Rõ
ràng với cách ngắt nhịp này đã đem đến cho HS một sự cảm nhận ban đầu về bài
thơ.
c. Vần và thanh điệu
Các tiếng dùng để gieo vần (bắt vần) phải có phần vần giống nhau. Ví dụ:
Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang
(Hồ Chí Minh)
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Vần trước hết là để liên kết các câu thơ với nhau (do đó thơ dễ học thuộc
lòng). Nhưng trong một số trường hợp, sự phối hợp và tập trung một số vần nào
đó đã tạo nên âm hưởng đặc biệt cho câu thơ (khi đó vần có giá trị tư từ) :
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Anh đi nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn.

(Tố Hữu)
Ở đây vần chính là an (tan, tràn, đàn) nhưng bên cạnh đó, nhà thơ còn sử
dụng rât nhiều vần khác (lan/tan, dương/sương, trắng/nắng, vọng/giọng). Trong
bốn câu thơ, hàng loạt các vần liên tiếp xuất hiện, tạo ra một khúc nhạc ngân
nga, diễn tả một niềm vui phơi phới như muốn hát lên trong lòng nhà thơ khi
đứng trước mùa xuân của đất nước Ba Lan.
Tiếng Việt có sáu thanh: ngang, huyền, hỏi, sắc, nặng. Các thanh này có sự
đối lập nhau. Nếu đối lập nhau về độ cao ta có nhóm thanh cao: ngang, ngã, sắc
và nhóm thanh thấp: huyền, hỏi, nặng. Nếu đối lập về đường đi của thanh điệu
khi phát âm thanh đi thẳng thì ta có nhóm thanh bằng gồm thanh ngang và thanh
huyền; nếu đi gấp khúc thì ta có nhóm thanh trắc gồm các thanh hỏi, ngã, sắc,
nặng.
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 4
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Sự phối hợp luân phiên bằng, trắc tạo nhạc tính cho câu thơ. Bình thường
trong các câu thơ, những thanh bằng, trắc đan xen nhau, phối hợp với nhau,
nhưng khi cần mô tả, khắc sâu một ấn tượng, một cảm xúc, một tâm trạng theo
một cung bậc tình cảm nào đó, các nhà thơ có thể sử dụng liên tiếp cùng một
loại thanh điệu trong một câu thơ (khi đó thanh điệu các thanh bằng hoặc toàn
thanh trắc tạo nên những âm hưởng lạ, có giá trị nhấn, có giá trị tu từ).
Những câu thơ sau dùng toàn cạnh một nội dung nào đó:
Vỏ câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh
(Nguyễn Du)
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
(Quang Dũng)
Có khi hai loại thanh này lại sóng đôi trong hai câu thơ tạo nên thế đối lập
tương phản:
Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương
(Tản Đà)

Câu thơ trên với 5 thanh trắc liên tục diễn tả một tâm trạng như bị dồn nén,
uất ức, nghẹn tắc. Câu dưới lại toàn thanh bằng vừa như một tâm sự, buông thả,
phó mặc, vừa như một tiếng thở dài. Tương ứng với các thanh trên, trong gieo
vần thơ, cũng có vần bằng và vần trắc.
Gieo vần bằng:
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Gieo vần trắc :
Cử nhân: cậu ấm Kỷ
Tú tài: con Đô Mỹ
Học thế, thế mà thi
Khỉ ơi, ơi hỡi khỉ
(Trần Tế Xương)
Phối hợp gieo cả vần bằng và vần trắc :
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 5
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sâu hơn ai
(Đoàn Thị Điểm – Chinh Phụ Ngân)
Điều cần lưu ý khi các em đọc, phân tích tác phẩm thơ cần biết để ý yếu tố
này không phải tất cả các yếu tố ngữ âm khi sử dụng khác thường đều có giá trị,
nhưng một khi thấy âm điệu, âm hưởng, nhạc điệu của câu thơ không bình
thường, thì ta xem chúng có giá trị biểu đạt gì không trong việc thể hiện nội
dung.
2. Yếu tố từ ngữ:

Ngôn từ là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của ngôn ngữ, và cũng là chất
liệu quan trọng nhất để xây dựng tác phẩm văn học. Các phương tiện như dấu
câu, nhịp
Thứ nhất: Phân tích tác phẩm không thể thoát ly hoặc coi nhẹ yếu tố từ
ngữ. Người ta nói nhiều đến chuyện phân tích hình ảnh trong tác phẩm văn học.
Bởi vì cách nói của văn học, cách thể hiện của văn chương là cách nói, cách viết
bằng hình ảnh. Nhưng hình ảnh trong tác phẩm văn học là gì. nếu không phải là
do hệ thống từ ngữ tạo nên? Vì thế, phân tích hình ảnh thực ra là phân tích từ
ngữ. Câu thơ của Nguyễn Du tả chân dung Tú Bà:
Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
(Truyện Kiều)
đã vẽ chính xác thần thái của mụ chủ nhà chứa, bọn buôn thịt bán người. Ta
cũng thấy thái độ của tác giả đối với loại người như thế. Chữ nhờ nhợt lột tả rõ
nét nhất chân dung của Tú Bà. Thật khó diễn tả bằng những từ ngữ khác: vừa
bóng nhẫy, vừa mai mái hay vàng bủng chăng? Có lẽ chỉ có thể nói như Nguyễn
Công Hoan: bộ mặt “thiếu vệ sinh”.
Hệ thống từ ngữ gợi hình ảnh, gợi cảm giác trong tiếng Việt rất phong
phú, đa dạng: gợi về thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác.
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 6
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Muốn phân tích tốt từ ngữ, trước hết phải nắm vững nghĩa của từ (nghĩa
chung và nghĩa trong văn cảnh cụ thể) sau đó luôn luôn suy nghĩa để trả lời các
câu hỏi:
- Tại sao tác giả dừng từ ngữ này mà không dùng từ ngữ khác?
- Tại sao từ ngữ này xuất hiện nhiều như thế?
- Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy? Có thể thay từ ngữ ấy bằng một từ
ngữ khác được không?
- Trong câu ấy, đoạn ấy có những từ ngữ cần lưu ý, cần phân tích? (trong
một đoạn thơ, một bài thơ không phải từ nào, câu nào cũng đáng phân tích, cũng

có giá trị như nhau).
Thực tế không ít học sinh rơi vào tình trạng hoặc là phân tích tất cả, câu nào
cũng phân tích, từ nào cũng khen hay, hoặc rơi vào tình trạng những từ ngữ
đáng phân tích thì lại bỏ qua… từ không thích đáng thì say sưa tán tụng. Trong
trường hợp phân tích những tác phẩm thơ dịch (thơ Đường luật) phải thận trọng
khi phân tích từ ngữ. Bởi vì những từ ngữ được đưa ra bình giá chưa chắc đã
phải là những từ mà tác giả dịch đúng nguyên bản.
Thứ hai: để tạo cách nói, cách viết có hình ảnh các nhà thơ có thể vận dụng
nhiều cách, nhưng có thể quy về hai cách chính: dùng từ gợi tả và dùng các biện
pháp tu từ:
* Dùng từ gợi tả:
- Có thể là các từ tượng hình, tượng thanh:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(Bà Huyện Thanh Quan)
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
(Nguyên Du)
* Dùng các biện pháp tu từ:
Ngôn từ văn học là loại ngôn từ chắt lọc từ ngôn ngữ đời thường, được
nâng cấp sửa sang làm cho nó óng ả, giàu đẹp hơn. Các biện pháp tu từ chính là
những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ trang điểm cho ngôn từ
văn học. Có rất nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp ngữ, so
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 7
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
sánh Tất cả những biện pháp tu từ ấy đều nhằm mục đích giúp người nói,
người viết có nhiều cách diễn đạt hay hơn, đẹp hơn phong phú hơn và do vậy
hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên không phải cứ có tu từ là hay: tu từ chỉ hay khi
dùng đúng chổ đúng cách. Phân tích các biện pháp tu từ là chỉ ra tính hiệu quả
của cách viết, cách nói ấy, chỉ ra vai trò và tác dụng của chúng trong việc miêu

tả, biểu đạt chứ không phải đơn thuần là chỉ gọi được tên, liệt kê các biện pháp
mà nhà thơ đã dùng. Trong thực tế nhà thơ dùng nhiều tà sáng tạo bằng nhiều
cách khác nhau, khó có thể khuôn vào một công thức nào để định giá đạt hay
không đạt, hay hoặc không hay. Phải xét các từ ngữ đó trong hệ thống, tương
quan với các từ ngữ khác trong câu, đoạn, toàn bài có phù hợp không, cách dùng
có mới mẻ không Hãy xem Nguyễn Du viết:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa giữa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Phép so sánh tu từ được sử dụng để so sánh tiếng đàn của Thúy Kiều với tiếng
hạc, tiếng suối, tiếng gió thoảng, tiếng trời đổ mưa. Quả là một sự so sánh khá
tài tình những cung bậc của tiếng đàn khi trong veo, lúc khoan thai, khi dồn dập,
lúc réo rắt người đọc có thể cảm nhận bằng cả thính giác lẫn thị giác.
Trong bài thơ Ngắm trăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhân hóa ánh trăng, biến
trăng thành người bạn tri kỷ:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Nhờ phép nhân hóa mà thiên nhiên trong bài thơ trở nên gần gũi sống
động hơn, có hồn hơn và gắn bó với con người hơn.
Với Nguyễn Khoa Điềm thì phép tu từ ẩn dụ được sử dụng trong câu thơ:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
Từ mặt trời trong câu thơ thứ hai chỉ em bé trên lưng mẹ. Ẩn dụ này đã thể
hiện sự gắn bó của đứa con với người mẹ, đó là ánh sáng là nguồn sống, nguồn
nuôi dưỡng niềm tin ,sức mạnh của mẹ vào ngày mai.
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 8
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Hay cách sử dụng phép điệp ngữ “ Tiếng gà trưa” trong bài thơ Tiếng gà
trưa của Xuân Quỳnh đã tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật khá đặc sắc : Vừa

như một sợi dây liên kết các hình ảnh trong bài thơ vừa như một tiếng điểm nhịp
cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình và làm nổi bật chủ đề của bài thơ.
3. Câu thơ :
Câu là đơn vị để làm nên văn bản. trong một bài thơ câu không chỉ có giá
trị thông báo thông thường mà trong một số trường hợp câu có tác dụng nhất
định trong việc biểu hiện dụng ý của tác giả . Vì thế khi đi vào phân tích một bài
thơ ở nhiều câu thơ, đoạn thơ nếu thấy khác thường, cần đặt ra và lí giải câu hỏi:
Loại câu mà tác giả sử dụng ở đây là loại câu gì? Tại sao lại dùng loại câu này?
Đặc điểm, vai trò và tác dụng của các loại câu như câu đơn, câu phức, câu chủ
động, câu bị động, câu nghi vấn, câu khẳng định, câu phủ định, câu đặc biệt, câu
cảm thán, v.v đều có thể giúp ta tìm hiểu tốt nội dung của văn bản.
Đối với thơ một khi nhà thơ sử dụng liên tiếp một loại câu nào đó thì chắc
chắn là có một dụng ý nhất định, hay đúng hơn là nhằm tập trung làm nổi bật
một tâm trạng, một cảm xúc nào đó. Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu kết thúc
bài thơ Ta đi tới (1954) bằng một loạt các câu khẳng định:
Ta đi tới không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biển
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam !
Cũng cần lưu ý rằng câu trong văn bản nghệ thuật phải được hiểu một cách
rộng rãi, uyển chuyển không cứng nhắc, nhất là thơ. Thơ có thể chấp nhận sự
“phá quy tắc”, sự “lệch chuẩn” so với ngữ pháp thông thường.
Câu thơ có thể trùng với câu ngữ pháp ( câu đủ nòng cốt):
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
( Hồ Chí Minh)

Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 9
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
Trường hợp câu thiếu nòng cốt(câu rút gọn) cũng rất thường gặp. Ví dụ hai
câu kết trong bài Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Hay câu thơ thứ báy bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, chỉ có một từ:
Đồng chí !
và ta thấy câu này không rõ đâu là chủ ngữ đâu là vị ngữ (câu đặc biệt).
Trong nhiều trường hợp câu thơ và câu xét về mặt ngữ pháp “ chuẩn”
( tạm thời gọi là “câu ngữ pháp”) không trùng nhau. Có những câu thơ chưa là
“câu ngữ pháp”, ngược lại có khi một câu thơ gồm 2,3 “ câu ngữ pháp”:
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
( Chế lan Viên)
Bác về Im lặng Con chim hót.
( Tố Hữu)
Có khi cả một khổ thơ (4 dòng thơ) mới đủ một “câu ngữ pháp”
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
( Tố Hữu)
Không phải tất cả những câu thơ không trùng với “câu ngữ pháp” đều có
giá trị tu từ, nhưng gặp nó, người phân tích cần để ý, nhất là khi nó có sự bất
thường đặc biệt, nó có thể có giá trị tu từ nào đó.
4. Thể thơ:
Thơ có nhiều thể: lục bát, đường luật, song thất lục bát,thơ tự do chia làm
các loại lớn như tự sự, trữ tình . Mỗi loại và thể trên đều có những đặc điểm
riêng về nội dung và nghệ thuật và có sự biến đổi qua mỗi thời đại.
Thơ trữ tình là sự thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Vì thế

người đọc nên đặt mình vào tâm trạng nhà thơ trong hoàn cảnh cụ thể khi sáng
tác mà phát hiện ra đặc sắc của tâm trạng. Đây là tâm trạng của Viễn Phương
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 10
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
một người con miền Nam thành đồng Tổ quốc khi được ra thăm lăng Bác. Đứng
trước lăng Bác tác giả đã viết:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi , hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng .
Trước anh linh của Người nhà thơ xúc động, tiếc thương nghẹn ngào, một
nỗi mất mát lớn lao không thể bù đắp :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
để rồi trước lúc chia xa nhà thơ đã kịp nói lên mong ước cháy bỏng của mình và
có lẽ đó cũng chính là niềm mong ước chân thành của nhân dân nguyện mãi mãi
đi theo con đường mà Người lựa chọn.
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Còn thơ tự sự lại thể hiện kín đáo chất thế sự, mang nặng một niềm hoài cổ
qua bài thơ ngũ ngôn bình dị mà cô động, đầy gợi cảm: Ông đồ của Vũ Đình
Liên
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.


Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Có thể nói để thành công trong việc phân tích một bài thơ với những yếu
tố hình thức nghệ thuật đặc sắc quả không dễ chút nào nhưng với thực tế giảng
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 11
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
dạy tôi đã đúc rút được cho mình được những bài học kinh nghiệm trong việc
giảng dạy môn Ngữ văn đặc biệt là phần thơ.
B. Những kết quả bước đầu và một số vấn đề đúc rút được.
Đây mới chỉ là một số yếu tố, với phần đọc – hiểu văn bản trong chương
trình ngữ văn THCS, đặc biệt là thơ. Tôi nhận thấy trong quá trình giảng dạy
giáo viên cần xác định những yếu tố cơ bản cần thiết giúp HS tiếp xúc, tìm hiểu
tác phẩm dưới góc độ nghệ thuật để đạt hiệu quả hơn.
* Về giáo viên:
Cần nghiên cứu bài giảng một cách chu đáo để định hướng phương pháp.
Sáng tỏ và chủ động hơn trong vai trò hướng dẫn HS chủ động tìm hiểu văn
bản để tích lũy thêm kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy.
Cũng là cách để rèn luyện, bồi dưỡng năng lực tư duy phân tích…
* Về học sinh:
Biết cách tìm hiểu một tác phẩm văn học để phát hiện ra cái hay cái đẹp về
nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bước đầu nhận biết được nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của mỗi
tác giả.
Biết phát hiện những dấu hiệu nghệ thuật nổi bật trong văn bản
Bồi dưỡng thêm cho học sinh tâm hồn, tình cảm, năng lực tư duy
* Từ thực tế đó tôi xin mạnh dạn đúc kết một số vần đề sau:
1. Giáo viên cần nhận thức sâu sắc về yêu cầu của môn học cũng như yêu
cầu xã hội hiện nay. Phải tôn trọng đặc trưng bộ môn – đặt trong mối quan hệ

hữu cơ.
2. Nắm vững chương trình Ngữ văn toàn cấp đặc biệt là hệ thống văn bản.
3. Khi khai thác văn bản cần định hướng cụ thể nội dung cần đạt, đặc biệt
chú ý kỹ năng phát hiện và phân tích những dấu hiệu nghệ thuật đặc sắc của văn
bản.
4. Giáo viên không ngừng tìm tòi, học tập, sáng tạo, bồi dưỡng thêm năng
lực cảm thụ văn học kết hợp với thực tế, đối tượng học sinh để giảng dạy, tăng
tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh.
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 12
Vận dụng hiệu quả chuyên đề khai thác một số yếu tố hình thức cần chú ý khi phân tích một tác phẩm thơ
III. KẾT LUẬN:
Trên đây là vài suy nghĩ thực tế giảng dạy của bản thân tôi nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giờ dạy môn học Ngữ văn, đặc biệt Đọc – Hiểu văn bản.
Còn rất nhiều vấn đề cần được thử nghiệm, trao đổi rút kinh nghiệm. Những
năm học tiếp theo tôi cần cố gắng nhiều hơn nữa.
Kinh mong các đồng nghiệp, chuyên môn và các cấp lãnh đạo góp ý xây
dựng để bản thân tôi hoàn thiện hơn trong con đường học tập và giảng dạy của
mình.
Hải Đình, ngày 14 tháng 4 năm 2011
NGƯỜI VIẾT
Phan Thị Lâm Lý
Giáo viên: Phan Thị Lâm Lý – THCS Hải Đình Trang 13

×