Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

đề tài một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.85 KB, 15 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

PHẦN MỘT
PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp
chính thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.Bởi thế
dạy Tiếng Việt có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và
trong đời sống của mỗi con người.Mục tiêu của chương trình Tiếng việt
tiểu học mới ngoài việc cung cấp kiến thức Tiếng Việt và thái độ, tình yêu
Tiếng Việt còn phải giúp học sinh giao tiếp tốt trong môi trường hoạt động
lứa tuổi.Vì thế việc sử dụng từ ngữ đúng,nắm rõ nghĩa của từ có ý nghĩa
quan trong trong giao tiếp, giúp học sinh tự tin tham gia vào hoạt động giao
tiếp qua đó bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn
sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Muốn làm được điều này học sinh phải có kiến thức vững chắc về
Tiếng Việt. Đó không chỉ là kiến thức về ngữ pháp, về vốn từ mà còn phải
nắm vững kiến thức về nghĩa cuả từ. Trong chương trình Tiếng Việt 5 học
sinh được học kiến thức về nghĩa của từ: các hiện tượng trái nghĩa, đồng
âm, đồng nghĩa và nhiều nghĩa. Trong các hiện tượng đó thì kiến thức về từ
nhiều nghĩa là phức tạp nhất. Là một giáo viên lớp 5, qua hai năm kinh
nghiệm giảng dạy tôi nhận thấy học sinh còn rất nhiều lúng túng, khó khăn,
khi học nội dung kiến thức này dẫn tới các tiết học nặng nề,không hứng
thú, không lôi cuốn được các em. Nguyên nhân nào dẫn tới những khó
khăn đó? Làm thế nào để nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa?
Đó là lý do tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
các tiết học về từ nhiều nghĩa”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm góp phần nâng cao hơn nữa kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho
học sinh .


III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
1. Khách thể nghiên cứu:
Phần môn luyện từ và câu Tiếng Việt lớp 5.
2.Đối tượng nghiên cứu
Các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa.
IV.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
-Tìm hiểu về hiện tượng nhiều nghĩa.
-Tìm hiểu những khó khăn mà học sinh còn gặp phải
-Những nguyên nhân dẫn đến khó khăn đó.
-Đề xuất một số giải pháp khắc phục những khó khăn.

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
1
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

PHẦN HAI:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU .
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI :
Trong từ vựng có những từ một nghĩa như:bươn, hiền, điềm tỉnh…
tuy nhiên phổ biến hơn là những từ nhiều nghĩa. Các từ đơn thường nhiều
nghĩa hơn các từ phức. VD:máy, làm, dắt…là những từ nhiều nghĩa nhưng
máy may, máy tiện, máy nổ là những từ một nghĩa. Tùy theo chức năng mà
từ chuyển đảm nhiệm trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý nghĩa
khác nhau:
-Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật.
-Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức năng biểu niệm.
- Ý nghĩa biểu thái ứng với chức năng biểu thái.
Ngoài ra từ các có ý nghĩa ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp
trong câu.

Trước đây khi nghiên cứu về nghĩa của từ các nhà nghiên cứu thường
vận dụng cách phân biệt nghĩa đen và nghĩa bóng hoặc nghĩa hẹp và nghĩa
rộng để phân biệt các nghĩa hiện dùng của một từ .
Theo SGK Tiếng Việt 5: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và
một hay một số nghĩa chuyển .Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ có
mối liên hệ với nhau.
Theo cách phân chia này nghĩa của từ được chia làm hai loại: nghĩa
gốc và nghĩa chuyển. Nghĩa gốc là cái nghĩa chỉ vật, khái niệm mà những
người trong một cộng đồng ngôn ngữ thường hiểu đối một từ nào đó khi nó
đứng một mình, ít bị phụ thuộc vào những từ đi trước hoặc sau nó. Nghĩa
chuyển là nghĩa chuyển được suy ra từ nghĩa gốc .Ví dụ: Đối với từ chân
nghĩa “chi dưới của động vật”, đối với từ nhà nghĩa “công trình kiến
trúc để ở”, đối với từ chạy nghĩa :“dời chổ bằng chân với tốc độ cao”,
đối với chín nghĩa “chỉ trạng thái của quả cây” là nghĩa gốc thì các nghĩa
còn lại của mỗi từ đều là nghĩa chuyển.
Mặt khác các từ trong cùng một phạm vi biểu vật thường chuyển
nghĩa theo một hướng nên nghĩa gốc và nghĩa chuyển có tính chất giống
nhau.
Ví dụ: Nếu xem nghĩa “ bộ phận cơ thể người, động vật” là nghĩa
gốc của từ tay thì đó cũng là nghĩa gốc của từ: đầu, mặt,cổ, chân, cánh,
lưng, bụng….và các nghĩa của các từ trên trong các tổ hợp sau đây là
nghĩa chuyển của chúng: tay ghế, tay áo, đầu bút, đầu sóng, mặt bàn, tai
mũ, tai chén, cổ áo, cổ chai, cánh quạt lưng áo, lưng quần, lưng ghế, chân
bàn, chân mây, ruột bút, ruột máy…

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
2
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa


Từ có thể chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về vị trí hoặc hình
thức của các sự vật như: lòng sông, đầu làng, ngọn núi. Từ cũng có thể
chuyển nghĩa dựa trên sự giống nhau về chức năng của sự vật như: bến
trong bến xe, bến tàu điện giống với bến đò, bến sông vì cùng chỉ chức
năng đầu mối giao thông.
Có khi người ta dùng tên gọi của những giác quan này để gọi tên
những cảm giác của những giác quan khác hay những cảm giác trí tuệ, tình
cảm như: “chua”, “nhạt”, “mặn”, “chát” là những cảm giác vị giác được
dùng để gọi tên các cảm giác thính giác : “nói chua loét”, “lời nói ngọt
ngào”, “pha trò nhạt quá”, “nói cay quá”…
Cũng có nhiều khi từ chuyển nghĩa bằng cách lấy tên gọi bộ phận cơ
thể thay cho cả cơ thể, cho cả người hay cả toàn thể . Ví dụ: chân, tay,
miệng là tên gọi bộ phận cơ thể nhưng trong các tập hợp sau: “có chân
trong đội bóng đá”, “ một tay cờ xuất sắc”, “ gia đình bảy tám miệng
ăn” chúng chỉ cả người hay cả cơ thể trọn vẹn.
Cũng có khi lấy tên gọi của đơn vị thời gian nhỏ gọi tên đơn vị thời
gian. Ví dụ xuân là tên gọi một mùa nhưng nó có thể để chỉ năm “ bảy
mươi xuân”.
Trong Tiếng Việt lại có hiện tượng đồng âm, đó là những từ giống
nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ từ chín trong “lúa
chín” và trong “suy nghĩ chín chắn” là từ nhiều nghĩa và nó đồng âm với
chín trong “số chín”.
Như vậy dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học rất phức tạp. Là giáo viên
giảng dạy lớp 5 giáo viên cần phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa,
các cách thức chuyển nghĩa của từ để từ đó có thể lựa chọn phương pháp
hướng dẫn học sinh học tập phù hợp.
Đối với học simh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm
vững các thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song
yêu cầu học sinh phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm
từ cụ thể, xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ

nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của
từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều nghĩa.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI:
1.Những khó khăn mà học sinh thường gặp phải
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ nhiều
nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:
-Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa từ
sai, lúng túng và còn lủng củng.
-Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ: học sinh còn
làm sai đến 40-45%.

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

-Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa: còn mơ hồ, định tính.
-Đặt câu có sử dụng từ nhiều nghĩa: chưa hay, chưa đúng với nét
nghĩa yêu cầu.
2. Các bài tập trong SGK tiếng Việt 5:
1/ Tìm nghĩa của từ.
2/So sánh các nghĩa của từ: giống nhau và khác nhau.
3/Tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của một số từ thông qua một só
câu cụ thể.
4/Tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ:Vd: lưng, cổ, miệng,
lưỡi…
5/Đặt câu để phân biệt được các nghĩa của từ nhiều nghĩa là động từ
hoặc tính ví dụ như: đi, đứng, chín
6/Phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
3. Nguyên nhân củ những khó khăn:

Như trên đã nói từ nhiều nghĩa là một khái niệm rất khó đối với học
sinh tiểu học lứa tuổi mà vốn kiến thức ngữ nghĩa còn ít. Mặt khác do các
bài tập trong SGK nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối khó đối với học
sinh.
Mặt khác do giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc giúp học
sinh nắm vững hiện tượng nhiều nghĩa của từ, còn lúng túng trong việc giải
nghĩa các từ nhiều nghĩa, chưa nắm vững bản chất của từ nhiều nghĩa, giáo
viên còn truyền thụ kiến thức, chưa đổi mới phương pháp.
III . Một số giải pháp khắc phục
Xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất của từ nhiều nghĩa, xuất phát
từ những khó khăn mà học sinh còn gặp phải khi học các tiết học về từ
nhiều nghĩa và nguyên nhân của những khó khăn đó, để nâng cao hiệu quả
các tiết học về từ nhiều nghĩa trong chương trình Tiếng Việt lớp 5, qua
nghiên cứu và thử nghiệm tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
A-Về mặt lí luận, phương pháp:
1. Giáo viên phải nắm vững kiến thức về từ nhiều nghĩa:
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến
thức cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều song lại yêu cầu giáo viên
phải nắm vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho
học sinh. Đối với các tiết luyện từ và câu về từ nhiều nghĩa vốn kiến thức
của giáo viên lại đặc biệt quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải bồi
dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ, đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một
cách chính xác.
VD: Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa” SGK đưa ra hai nghĩa của từ: tai, răng,
mũi thì giáo viên còn phải nắm thêm một số nét nghĩa nữa.
Ví dụ : Từ “ mũi” có một số nét nghĩa sau:

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
4
Sáng kiến kinh nghiệm

Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

1. Bộ phận củ cơ quan hô hấp.
2. Phần trước của tàu thuyền.
3. Bộ phận nhọn của vũ khí: mũi dao, mũi súng.
4. Phần đất nhô ra ngoài biển: mũi đất, mũi cà Mau.
5. Năng lực cảm giác về mũi: Con chó có mũi thính.
6. Đơn vị quân đội : mũi quân bên trái.
2. Thiết kế hệ thống bài tập:
Phiếu học tập cho nhóm hoặc cá nhân là một trong những hình thức
học tập rất hữu hiệu giúp học sinh có thể tích cực, chủ động trong học
tập.Mặt khác nó còn giúp giáo viên nắm được kết quả ngược từ học sinh
một cách chính xác, từ đó giáo viên có thể linh hoạt trong việc giảng dạy,
học sinh nắm vững nội dung bài học. Phiếu học tập cần được thiết kế bằng
hệ thống các bài tập trắc nghiệm khách quan như: nối, đúng- sai, nhiều lựa
chọn…
3. Cần sử dụng các phương pháp dạy học mới:
Để dạy tốt các tiết học về từ nhiều nghĩa giáo viên cần đưa các
phương pháp dạy học mới như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp
đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp trò chơi…
-Phương pháp thảo luận nhóm: Nhằm giúp học sinh tham gia tính
cực chủ động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý
kiến hay để cùng giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó.
-Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Nhằm mục đích đưa học sinh
và tình huống có vấn đề, từ đó kích thích sự hứng thú học tập của học sinh
vào việc giải quyết vấn đề đưa ra.
VD: Bài “ Luyện tập về từ nhiều nghĩa” trang 73.
? Đặt một câu có từ chạy .
- Học sinh đặt câu.
? Từ chạy trong câu trên có nghĩa là gì?

- Học sinh không giải thích được. Giáo viên cho học sinh làm bài
tập 1 SGK
4. Cần chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích
hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng.
ngoài ra giáo viên cần kiểm tra bài vở học sinh kể cả học sinh yếu lẫn học
sinh khá, giỏi để tất cả các em cùng học tập, tránh tình trạng vì kiến thức
quá khó nên một vài học sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả.
B- Về mặt thực tiễn
1. Khi dạy bài “Từ nhiều nghĩa”:
Mục tiêu của bài học này là giúp học sinh nắm vững khái niệm về từ
nhiều nghĩa, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ. Xác định được

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
5
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Tìm được nghĩa chuyển của
một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể người , động vật.
Để giúp học sinh hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, giáo viên hướng dẫn
học sinh từ nhận xét 1, học sinh có thể nêu ra một số ví dụ về nghĩa của từ
đó. Ví dụ: răng em bé, răng sữa, răng mèo…Để đến nhận xét 2, học sinh
tìm thêm được từ chứa tiếng mới: răng cào, từ đó giúp học sinh hiểu được
răng của chiếc cào không nhai được như răng người hay động vật nhưng
vẫn gọi là răng vì chúng chỉ vật nhọn, sắc, sắp đều nhau thành hàng. Sau đó
yêu cầu học sinh tìm thêm các từ chứa tiếng răng có nghĩa như răng cào:
răng lược, răng bừa…Tiếp theo đó yêu cầu học sinh nhận xét được từ răng
qua nhận xét 1 và 2 có 2 nghĩa:
- Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa gốc.

- Nghĩa ở nhận xét 1 là nghĩa chuyển.
Hai nghĩa này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Sau khi học sinh nắm vững nhận xét 1 và 2 cần đặt câu hỏi vấn đáp
để giúp học sinh nhớ khái niệm từ nhiều nghĩa, yêu cầu học sinh lấy ví dụ
về từ nhiều nghĩa. Giáo viên cùng học sinh phân tích từ vừa tím được. Nếu
học sinh còn lúng túng, giáo viên có thể lấy ví dụ về từ nhiều nghĩa trong
các kết hợp từ khác nhau.
Ví dụ: Đi
- Nó chạy còn tôi đi.
- Chân nó không đi giày.
- Ca nô đi nhanh hơn thuyền.
Đối với ví dụ này giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét được từ đi
trong câu 1 có nghĩa là di chuyển từ nơi này sang này sang nơi khác bằng
những bước chân. Từ đi trong câu thứ 2 có nghĩa là mang hay đeo vào. Từ
đi trong câu thứ 3 có nghĩa là chuyển động của cá phương tiện giao thông.
Để rút ra kết luận đi trong câu 1 là nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động của cơ thể
người, từ đi trong câu 2, câu 3 là nghĩa chuyển vì nghĩa của nó được suy ra
từ nghĩa gốc và nó có mối liên hệ về nghĩa với từ đi trong câu 1.
-Với bài tập có dạng tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ trong các
câu văn giáo viên nên cho học sinh thảo luận, phát biểu ý kiến của mình
sau khi học sinh đã rút ra được kết quả đúng. Giáo viên nên yêu cầu học
sinh tìm thêm một số câu hay từ chứa tiếngđó mang nghĩa chuyển.
Ví dụ với từ: - Mắt: mắt kính, mắt tre, mắt lưới,mắt xích…
- Chân: chân bàn, chân lưới, chân núi, chân mây…
- Đầu: chải đầu, đầu tàu hỏa, đầu đũa, đầu
người( thành viên trong một gia đình)…
- Với bài tập 2 của phần luyện tập của tiết học yêu cầu học sinh tìm
sự chuyể nghĩa của từ cổ, tay, lưng, lưỡi, miệng. Giáo viên giúp học sinh

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà

6
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

ghi nhớ được nhận xét các từ chỉ bộ phận cơ thể người và động vật là
những từ nhiều nghĩa và nó luôn là nghĩa gốc của từ.
2. Khi dạy các tiết “Luyện tập về từ nhiều nghĩa”:
Trong SGK Tiếng Việt 5, sau khi học bài khái niệm từ nhiều nghĩa
có 3 tiết dành để luyện tập về từ nhiều nghĩa. Ở các tiết luyện tập này giáo
viên cần củng cố cho học sinh về khái niệm về từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và
nghĩa chuyển. mối liên hệ về nghĩa của từ nhiều nghĩa.
* Để tránh sự nhàm chán, gây hứng thú cho học sinh, đối với các bài
tập tìm nghĩa ở cột A ứng với nghĩa ở cột B giáo viên nên tổ chức các trò
chơi học tập như trò chơi: “Nhà giải nghĩa giỏi”, “ Ai nhanh hơn”, “Ai
giỏi hơn”. Đồng thời sau khi học sinh chơi phải yêu cầu học sinh nêu lí do
vì sao em làm như vậy.
* Đối với các bài tập yêu cầu học sinh đặt câu để phân biệt từ nhiều
nghĩa là động từ hay tính từ, giáo viên nên hướng dẫn học sinh tìm từ ứng
với từng nghĩa rồi đặt câu với những từ vừa tìm được. Nên khuyến khích
học sinh tìm được nhiều từ, có khi đó là những từ có nghĩa khác với yêu
cầu nhưng như vậy cũng tốt vì như thế học sinh sẽ nắm vững nghĩa hơn sau
khi được giải thích từ giáo viên .
Ví dụ : Đi Nghĩa 1: Tự di chuyển bằng hai chân: đi bộ, tập đi
Nghĩa 2: Mang, xỏ vào chân hoặc tay để che, giữ.
Học sinh có thể đặt câu:Nghĩa 1: Em đi bộ đến trường.
Bé Na đang tập đi.
Nghĩa 2: Em đi dép quai hậu đến trường
Mùa đông phải đi tất để giữ ấm đôi chân.
Nhận xét: Đi nghĩa 1 mang nghĩa gốc vì nó chỉ hoạt động di chuyển
bằng hai chân của con người. Còn đi nghĩa 2 là nghĩa chuyển, mặc dù nó

không chỉ hoạt động di chuyển bằng hai chân của con người nhưng đều chỉ
hoạt động mang, xỏ cái gì đó vào chân, tay.
Song song với biện pháp trên đối với dạng bài tập này để giúp học
sinh phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển, giáo viên nên sử dụng một số
câu hỏi để giúp học sinh hình dung ra nghĩa ban đầu của nó.
Ví dụ:
? Nhắc đến ngọt ta có cảm giác thế nào?(ngọt của đường, mật)
? Từ ăn gợi cho ta hoạt động gì của bộ phận nào?(hoạt động đưa
thức ăn vào miệng)
? Từ đi gợi cho ta hoạt dộng của cái gì?(sự di chuyển của hai chân)
Nhờ thế học sinh sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa gốc và nghĩa chuyển của
từ trong dạng bài tập này và cũng nhờ thế nên chắc chắn học sinh sẽ dễ
dàng đặt câu theo yêu cầu bài tập hơn rất nhiều.

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
7
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

* Dạng bài tập yêu cầu phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa là
một dạng bài tập khó đối với học sinh vì học sinh rất khó khăn trong việc
gọi ra nét nghĩa của từng từ trong các kết hợp khác nhau. So sánh nó với
các kết hợp bên cạnh để xác đinh nó là đồng âm hay nhiều nghĩa.
Trước khi làm bài tập giáo viên phải yêu cầu học sinh nêu khái niệm
về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Mối quan hệ về ý nghĩa của từ đồng âm
(khác nhau hoàn toàn), nghĩa của từ nhiều nghĩa( bao giờ cũng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau).
Để giúp học sinh làm tốt dạng bài tập này giáo viên nên sử dụng
phiếu học tập cho nhóm, cá nhân hoặc cả lớp để học sinh tìm nghĩa của nó
cho phù hợp rồi nêu nhân xét đó là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.

Ví dụ: a) Chín
Câu có từ chín Nghĩa của từ chín trong câu
- Lúa ngoài đồng chín
vàng.
1. Suy nghĩ kĩ càng.
- Tổ em có chín học sinh. 2. Hoa, quả, hạt phát triển đến mức thu hoạch
được.
- Nghĩ cho chín rồi hãy
nói.
3. Số 9.
Chín…. với chín … là từ nhiều nghĩa, đồng âm với chín….
b) Đường
Câu có từ đường Nghĩa của từ đường trong câu
- Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt. 1. Chất kết tinh vị ngọt.
-Các chú công nhân đang chữa đường dây
điện thoại.
2. Vật nối liền hai đầu.
- Ngoài đường, mọi người đã đi lại nhộn
nhịp.
3.Chỉ lối đi lại.
Đường … với đường … là từ nhiều nghĩa, đồng âm với đường …
* Sau mỗi tiết luyện tập để củng cố kiến thức cho học sinh, giáo viên
có thể đưa ra thêm một số dạng bài tập mới. mục đích của các bài tập này
là củng cố, mở rộng kiến thức từ nhiều nghĩa.
Dạng bài tập 1: Tìm từ đồng nghĩa có tể thay thế từ nhiều nghĩa
trong các câu văn.
Ví dụ : Tìm từ có thể thay thế từ ăn trong câu sau:
- Cả nhà ăn tối chưa? (dùng bữa)
- Loại ô tô này ăn xăng lắm. (tốn, hao)
- Tàu ăn hàng ở cảng. (tiếp nhận)

- Bà Đào ăn lương rất cao (hưởng)
- Cậu làm như vậy dễ ăn đòn lắm. (chịu)

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
8
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

- Da cậu ăn nắng quá. (bắt)
- Hồ dán không ăn. (dính)
- Hai màu này rất ăn với nhau. (hợp)
- Rễ tre ăn ra tới ruộng. (lan)
Dạng bài tập 2: Cho từ trong các kết hợp từ, tìm nghĩa của nó tương
ứng.
Ví dụ: Trong thành ngữ: “ Chạy thầy chạy thuốc” dòng nào dưới
đây nêu đúng nét nghĩa của từ chạy? Chọn câu trả lời đúng:
a) Di chuyển nhanh bằng chân.
b) Hoạt động của máy móc.
c) Lo liệu khẩn trương để được cái mình cần.
d) Khẩn trương tránh những điều không may xảy đến.
Dạng bài tập 3: Cho nghĩa của từ trong kết hợp từ, câu văn tìm câu
có từ dùng với nghĩa đó.
Ví dụ : Câu nào dưới đây từ đánh được dùng với nghĩa “ xoa hoặc
xát lên bề mặt của vật để vật sạch sạch, đẹp”
a) Bọn trẻ chơi trò đánh trận giả.
b) Các bác nông dân đang đánh trâu ra đồng.
c) Sau bữa tối, ông và bố thường đánh cờ.
d) Hàng tuần vào ngày nghỉ, bố thường đánh giày.
IV. THIẾT KẾ MỘT BÀI HỌC CÓ SỰ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP:
Bài : TỪ NHIỀU NGHĨA (SGK Tiếng Việt 5 tập 1 trang 67)

I.Mục tiêu : Giúp học sinh hiểu:
- Hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa, nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa.
- Xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của một số từ nhiều nghĩa.
- Tìm được nghĩa chuyển của một số danh từ chỉ bộ phận cơ thể người và
động vật.
II. Đồ dùng dạy học:
-Bảng phụ ghi nhớ SGK, bút dạ, bảng phụ chuẩn bị ch trò chơi.
-Vở bài tập Tiếng Việt 5 tập 1.
-Tranh, ảnh về các sự vật, hiện tượng, hoạt động minh họa cho từ nhiều
nghĩa.VD tai, mũi, răng.
III. Các hoạt động dạy học
Hoạt động giáo viên Hoạt động học sinh
1.Kiểm tra bài cũ
-Gọi 3 học sinh lên bảng đặt câu với cặp từ
đồng âm mà em biết.
- Gọi học sinh nhận xét.
Giáo viên nhận xét cho điểm.
3 học sinh lên bảng làm
-Các học sinh khác nêu ý kiến
nhận xét.

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
9
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

2.Dạy học bài mới:
Hoạt động 1:Giới thiệu bài
Ở tiết học trước các em đã biết cách

dùng từ đồng âm để chơi chữ. Tiếng Việt
chúng ta có rất nhiều hiện tượng thú vị .
Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về từ
nhiều nghĩa.
Hoạt động 2: Tìm hiểu ví dụ
Bài 1: Gọi 1 học sinh đọc yêu cầu và nội
dung của bài tập.
-Cho học sinh quan sát và nhận xét tranh
ảnh về răng, mũi, tai.
- Yêu cầu học sinh tự làm vào vở bài tập
Tiếng việt
- 1 học sinh làm bảng lớp.
- Nhận xét kết luận bài làm đúng
- Gọi học sinh nhắc lại nghĩa của từng từ.
- Tai: Bộ phận ở bên trên đầu người hoặc
động vật dùng để nghe.
-Răng: Phần xương cứng, màu trắng, mọc
trên hàm, dùng để cắn, giữ và nhai thức ăn.
Mũi: Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người
hoặc động vật , có xương sống dùng để thở
và ngửi.
Bài 2: Gọi học sinh đọc yêu cầu và nội
dung của bài tập.
-Cho học sinh thảo luận trao đổi theo cặp
để làm bài.
- Gọi học sinh phát biểu ý kiến.

? Các từ : tai, mũi, răng có mấy nét nghĩa?
? Nghĩa của các từ : tai, răng, mũi ở hai bài
tập có gì giống nhau?

-Học sinh theo dõi.
-Học sinh quan sát, nhận xét.
-Học sinh làm bài
-5,6 học sinh đọc bài củ mình.
- Răng – b, mũi – c, tai – a.
- Cho 3 ,4 học sinh đọc
-1 học sinh đọc, cả lớp lắng
nghe.
-2 học sinh cùng bàn trao đổi
thảo luận, trả lời câu hỏi.
-3 học sinh nối nhau phát biểu
ý kiến, các học sinh khác
thống nhất , bổ sung.
+Răng của chiếc cào không
nhai được như răng người.
+Mũi thuyền không dùng để
ngửi được như mũi của người.
+Tai của ấm không dùng để
nghe như tai người.
-Học sinh thảo luận trả lời.
+ Răng đều chỉ vật nhọn, sắc,

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
10
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

- Giáo viên kết luận:
+ Cái răng cào không dùng để nhai mà vẫn
gọi là răng vì chúng cùng nghĩa gốc với từ

răng: đều chỉ vật nhọn, sắc, sắp đều nhau
thành hàng.
+Mũi củ chiếc thuyền không dùng để ngửi
như mũi người hay động vật nhưng vẫn
gọi là mũi vì chúng có chung nét nghĩa là
chỉ bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước.
+Tai của ấm không dùng để nghe vẫn được
gọi là tai vì nó có nghĩa gốc chung với từ
tai là cùng chỉ bộ phận mọc ở hai bên, chìa
ra như hai cái tai người.
- Nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ bao
giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
? Thế nào là từ nhiều nghĩa?
? Thế nào là nghĩa gốc?
? Thế nào là nghĩa chuyển?
- Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ
cũng có mối liên hệ với nhau, nghĩa
chuyển được suy ra từ nghĩa gốc. nó khác
hẳn với từ đồng âm. Nghĩa của từ đồng âm
hoàn toàn khác nhau.
Hoạt động 3: Luyện tập.
Bài 1: Gọi học sinh đọc yêu cầu và nội
dung của bài tập.
- Yêu cầu học sinh tự làm bài tập.
- Nhắc học sinh gạch 1 gạch dưới từ mang
nghĩa gốc, gạch 2 gạch dưới từ mang nghĩa
chuyển.
- Gọi học sinh nhận xét
- Giáo viên hỏi học sinh về nghĩa của từng
từ, nếu học sinh giải thích chưa đung, giáo

viên giải thích cho học sinh hiểu.
sắp đều nhau thành hàng.
+Mũi chỉ bộ phận có đầu
nhọn nhô ra phía trước.
+Tai cùng chỉ bộ phận mọc ở
hai bên chìa ra như tai người.
-Học sinh theo dõi.
-Từ nhiều nghĩa là từ có một
nghĩa gốc và có một hay
nhiều nghĩa chuyển.
-Nghĩa gốc là nghĩa chính của
từ.
-Nghĩa chuyển là nghĩa của từ
được suy ra từ nghĩa gốc.
-Học sinh dọc ghi nhớ SGK.
-Một số học sinh lấy VD minh
họa về từ nhiều nghĩa.
-Học sinh tự làm bài tập.
-1 học sinh tự làm bảng lớp
-Nhận xét.
-Học sinh giải thích.
-Học sinh thi đua tìm từ

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
11
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

? Tìm từ chứa tiếng mắt mang nghĩa gốc?
? Tìm từ chứa tiếng mắt mang nghĩa

chuyển?
Bài 2: Gọi học sinh đọc yêu cầu và nội
dung của bài tập.
-Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm 4 làm
bài tập.
-Học sinh nhận xét bổ sung.
-Giáo viên kết luận.
-Cho học sinh giải thích một số từ.
Nếu học sinh không giải thích được, giáo
viên giải thích lại cho chính xác
3.Củng cố,dặn dò
Hôm nay chúng ta đã tìm hiểu được những
từ nhiều nghĩa nào?
Giáo viên chốt: Các từ chỉ bộ phận cơ thể
người,động vật là từ nhiều nghĩa và nó
luôn là nghĩa gốc của từ.
-Trò chơi: Nhà giải nghĩa giỏi.
-Giáo viên phổ biến luật chơi.
-Nhận xét:Tổng kết trò chơi.
-Yêu cầu:Nối mỗi cụm từ có tiếng “trông”
ở ô bên trái với nghĩa thích hợp
bên phải
Trông lên trời Hướng đến ai với nổi
hi vọng được giúp đỡ
tin cậy
Trông nhà Nhìn vào mắt.
Cữa sổ trông ra
vườn
Để ý coi sóc giữ gìn
Trông vào bạn


Quay mặt về phía
vườn
-2 học sinh đọc.
-4 học sinh tạo thành nhóm
cùng trao đổi , tìm tù và ghi
vào phiếu.
-1 nhóm báo cáo kết quả.
+ Lưỡi: Lưỡi liềm, lưỡi hái,
lưỡi dao, lưỡi cày, lưỡi lê,
lưỡi gươm…
+ Miệng:Miệng bát, miệng
hủ, miệng bình, miệng hố…
+Cổ:Cổ chai, cổ lọ, cổ bình…
+Tay:Tayáo,taynghề, tay
chân, tay bóng bàn…
+Lưng:Lưng áo, lưng đồi,
lưng đèo, lưng núi, lưng đê…
-Mổi tổ cử 4 đại diện lên chơi
lần lượt nối từ với nghĩa sao
cho phù hợp.
-Học sinh tiến hành chơi

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
12
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

V:THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM:
Tôi tiến hành thực nghiệm bài dạy này trên hai lớp

Lớp 5B:Lớp thực nghiệm:30 học sinh
Lớp 5A:Lớp đối chứng: 30 học sinh
Kết quả như sau:
Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL Tỷ lệ
%
SL Tỷ Lệ
%
SL Tỷ Lệ
%
SL Tỷ lệ
%
Lớp TN 10 33,3 15 50 5 16,7 0 0
Lớp ĐC 3 10 7 23,3 16 53,3 4 13,4
Qua kết quả trên ta thấy nếu giáo viên khéo léo trong việc sử dụng
các biện pháp dạy học mới, kích thích được hứng thú học tập của học sinh
thì kết quả học tập của các em sẽ tốt hơn từ đó nâng cao kết quả dạy học
môn Tiếng Việt nói chung và chất lượng giáo dục tiểu học nói riêng.
PHẦN BA

Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
13
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dạy học từ nhiều nghĩa ở tiểu học là một vấn đề rất khó và phức tạp.
Việc nắm vững các kiến thức về từ nhiều nghĩa góp phần quan trọng nâng
cao kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh để từ đó học sinh có thể giao
tiếp tôt trong môi trường hoạt động lứa tuổi. Thực tế hiện nay chất lượng

các tiết học về từ nhiều nghĩa chưa cao, học sinh còn gặp rất nhiều khó
khăn, lúng túng trong những tiết học. Giáo viên chưa lôi cuốn thu hút được
học sinh vào hoạt động học tập tích cực. Nguyên nhân của vấn đề này có từ
hai phía: giáo viên và học sinh. Qua nghiên cứu tôi cũng nhận thấy rằng
nếu trong quá trình dạy học giáo viên sử dụng khéo léo các phương pháp
dạy học, các hình thức dạy học khác nhau có thể phát huy được tính tích
cực của học sinh và kích thích, lôi kéo các em vào quá trình học tập, từ đó
nâng cao hiệu quả dạy học.
Qua 2 năm nghiên cứu thử nghiệm tôi nhận thấy để dạy các tiết học
về từ nhiều nghĩa có kết quả cao, hạn chế được những khó khăn của học
sinh khi học từ nhiều nghĩa đồng thời kích thích hứng thú học tập, nâng cao
chất lượng học tập của học sinh, tôi xin đề xuất một số biện pháp sau:
1.Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ SGK, tài liệu tham khảo về hiện
tượng nhiều nghĩa của từ để từ đó nắm vững, giải nghĩa từ một cách chính
xác.
2. Giáo viên cần phải nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, xác
định những khó khăn mà học sinh lớp mình gặp phải để từ đó có biện pháp
khắc phục, nâng cao hiệu quả các tiết học.
3. Với mỗi tiết học giáo viên cần phải phân loại các dạng bài tập, lựa
chọn các phương pháp dạy học khác nhau để kích thích hứng thú học tập
của học sinh.
4. Sau mỗi bài học giáo viên nên đưa ra một số dạng bài tập khác nhau
để củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh.
Là một giáo viên trẻ, kinh nghiệm bản thân chưa nhiều, thời gian và
điều kiện nghiên cứu hạn chế nên đề tài chắc chắn còn có nhiều thiếu sót.
Rất mong các bạn đồng nghiệp đọc và góp ý để đề tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!




Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
14
Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả các tiết học về từ nhiều nghĩa





Người thực hiện : Phan Thị Nga – Trường Tiểu học Thụ Lộc – Lộc Hà
15

×