Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Tập Đọc lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.12 KB, 22 trang )

I - Lý do chọn đề tài:
1/ Ngôn ngữ là phơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài ngời. Ngôn ngữ còn
là hiện thực trực tiếp của t tởng:
Ngôn ngữ là phơng tiện biểu hiện tâm trạng tình cảm của loài ngời. Môn Tiếng việt
rất quan trọng đối với học sinh tiểu học. Bởi vì nếu học sinh tiểu học không có vốn từ vựng
Tiếng việt thì không sử dụng đúng Tiếng việt sẽ rất khó khăn trong giao tiếp và trong học
tập. Chơng trình tiểu học mới nói chung và lớp 2 nói riêng xác định mục tiêu của môn Tiếng
việt ở bậc tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng việt (Nghe, nói, đọc,
viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trờng hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học Tiếng việt, góp phần rèn luyện các thao tác của t duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng việt và những hiểu biết sơ
giản về xã hội. Tự nhiên và con ngời, về văn hoá văn học của Việt Nam và nớc ngoài.
- Bồi dỡng tình yêu Tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp
của Tiếng việt, góp phần hình thành, nhân cách con ngời Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2/ Xuất phát từ nhiệm vụ của dạy đọc ở tiểu học:
- Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành
năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc đợc tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về
chất lợng của đọc đọc đúng, đọc nhanh (đọc lu loát, trôi chảy) đọc có ý thức (không hiểu
đợc nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng
này đợc hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng đợc rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kỹ năng này sẽ có tác
động tích cực đến những kỹ năng khác.
Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng nh cho phép thông hiểu nội dung văn
bản. Ngợc lại nêu không hiểu điều đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm đợc.
Nhiều khi, khó mà nói đợc rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào, nhờ đọc đúng
mà hiểu đúng, hay chính nhờ hiểu đúng mới đọc đúng. Vì vậy trong dạy đọc không thể xem
nhẹ yếu tố nào.
- Đọc là giáo dục lòng ham đọc sách hình thành phơng pháp và thói quen làm việc với
bản bản, làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị
trong nhà trờng đó là một trong những điều kiện để trờng học thực sự trở thành trung tâm văn hoá.


Nói cách khác, thông qua việc dạy đọc, phải làm cho học sinh thích đọc và thấy đợc rằng khả
năng đọc là có lợi ích cho học sinh thích đọc, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đờng đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
- Về đọc không thể tách rời khỏi những nội dung đợc đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn
kỹ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách phân môn tập đọc còn có nhiệm vụ.
+ Làm giàu kiến thức ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh.
+ Phát triển ngôn ngữ và t duy cho học sinh.
+ Giáo dục t tởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
3/ Xuất phát từ tính tất yếu phải đổi mới phơng pháp và hình thức tổ chức dạy
học Tiếng việt trong chơng trình mới:
Môn Tiếng việt trong chơng trình tiểu học mới, thực hiện sự đổi mới cả về mục tiêu -
nội dung và phơng pháp dạy học, phơng tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học, các
đánh giá kết quả của học sinh.
1
Hiện nay mục tiêu giáo dục đã đợc xác định rõ ràng. Chơng trình SGK tơng đối ổn
định - nội dung Chính vì vậy để thờng xuyên nâng cao chất lợng dạy học thì phơng pháp
dạy học càng trở nên quan trọng vô cùng.
Tầm quan trọng đó phải đợc thể hiện theo quan điểm: Dạy học lấy học sinh trung
tâm. Nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Do đó chúng ta có thể
khẳng định rằng: Việc đổi mới phơng pháp dạy học Tiếng việt ở Tiểu học nói chung và đổi
mới phơng pháp dạy học đọc nói riêng, là một việc làm rất cần thiết và thờng xuyên để nâng
cao chất lợng dạy học tập đọc. Tạo cho học sinh nắm đợc các kiến thức kỹ năng theo yêu
cầu của môn học đúng, để hiểu đợc nội dung đợc đọc. Tôi còn vận dụng các phơng pháp phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý trình độ của học sinh thực tế ở lớp học, trờng ở vùng miền núi
là cần thiết góp phần thực hiện thành công việc đổi mới phơng pháp dạy theo quan điểm
giao tiếp.
4/ Thực trạng ở trờng Tiểu học hiện nay:
Việc dạy đọc bên cạnh những thành công còn có những hạn chế: Học sinh cha đọc đợc
nh ta mong muốn, đọc cha đúng ở những chỗ ngắt nhịp vì các em cha hiểu đợc nội dung câu thơ
câu văn nên các em ngắt nghỉ không đúng với nội dung biểu cảm của tác giả.

Học sinh cha hiểu cách nói văn chơng, vốn lý luận cha có các em thờng ngắt giọng
giữa từ ghép, các em cha đọc đúng chỗ nào cần lên giọng, chỗ nào cần học giọng xuống khi
đọc câu hỏi giọng đọc các em còn đều đều cha toát lên đợc nội dung câu hỏi. Khi đọc các
câu hội thoại các em cha phân biệt đợc giọng của nhân vật, giọng của tác giả.
- Giáo viên tiểu học còn lúng túng các bớc khi dạy tập đọc theo chơng trình mới, vận
dụng quy trình còn máy móc dạy còn theo sách giáo viên, sách thiết kế bài soạn chứ không
chú ý đến đặc thù của địa phơng.
Cần đọc bài tập đọc (mỗi dạng thơ, văn xuôi) nh thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm
cho học sinh dân tộc thiểu số, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, rèn kỹ năng
đọc đúng, đọc hiểu một nội dung để đọc hay hơn, diễn cảm hơn. Làm thế nào để để hiểu đợc
văn Làm sao để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu, với cách dạy nh thế nào để cho
những gì đợc đọc hiểu và tác động và chính cuộc sống các em Đó là những trăn trở của
giáo viên trong mỗi giờ tập đọc từ thực trạng đó nên dẫn đến giờ dạy hiệu quả cha cao mà trong
chơng trình cha có hớng dẫn cụ thể, cha đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy.
Xuất phát từ những lý do vừa nêu trên trong luận văn này chúng tôi chọn nghiên cứu
về đề tài: Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 .
II - Một số cơ sở lý luận:
1/ Một số vấn đề liên quan đến nội dung dạy học:
1.1/ Khái niệm đọc:
Môn Tiếng việt ở trờng phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn
ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đợc thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tơng
ứng với chúng là bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là
quá trình chuyển dạng thức viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình
thức đọc thành tiếng) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị
nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm) Hai mảng này có liên quan với nhau bởi vì đọc
thành tiếng đúng thì mới điểu và ngợc lại có hiểu mới đọc đúng đọc hay.
1.2/ ý nghĩa của việc đọc:
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu của văn hoá khoa học t tởng tình
cảm của các thế hệ trớc và của cả những ngơì đơng thời phần lớn đã đợc ghi lại bằng chữ
viết. Nếu không biết đọc thì con ngời không thể tiếp thu nền văn minh của loài ngời, không

2
thể sống một cuộc sống bình thờng có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội
hiện đại. Biết đọc con ngời đã nhận khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm
hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên xã hội t duy, biết đọc con ngời
sẽ có khả năng chế ngự một phơng tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp đợc với thế giới bên
trong của ngời khác, thông hiểu t tởng, tình cảm của ngời khác đặc biệt khí đọc các tác
phẩm văn chơng, con ngời không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy
nở những ớc mơ tốt đẹp đợc khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng nh bồi d-
ỡng tâm hồn. Không biết đọc con ngời sẽ không có điều kiện hởng thụ sự giáo dục mà xã
hội dành cho họ, không thể hình thành đợc một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại
bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp ngời ra sử dụng các nguồn
thông tin, đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học học cả đời.
Vì những lẽ trên, dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi
hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi ngời đi học. Đầu tiên là trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc
để học. Đọc chiếm lĩnh đợc một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ
để học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó
là một khả năng không thể thiếu đợc của con ngời thời đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng nh t duy
của ngời đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn bồi dỡng ở các em lòng yêu cái
thiện cái đẹp dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgíc cũng nh biết t duy có hình ảnh.
Nh vậy đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dỡng, giáo dục và
phát triển.
1.3/ Cơ sở tâm sinh lý của việc dạy tập đọc:
Để tổ chức giờ đọc cho học sinh chúng ta cần hiểu rõ quá trình đọc, nắm bản chất kỹ
năng đọc. Đặc biệt tâm sinh lý của học sinh khi đọc khi đọc là cơ sở của việc dạy đọc.
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ
viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác.
- Đọc đợc xem là một hoạt động có 2 mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng
bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại bằng lời nói âm
thanh. Đo là vận động t tởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các

con chữ và ý tởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho đợc nội dung
những gì đợc đọc. Đọc bao gồm những yếu tố tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ
quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì đợc đọc, càng ngày những yếu
tố này càng gần với nhau hơn, tác động đến nhau là nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những
mặt riêng lẻ này trong quá trình đọc. Đó là điểm phân biệt ngời mới biết đọc và ngời đọc
thành thạo. Học sinh càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng
hoàn thiện, càng chính xác biểu cảm bấy nhiêu.
Việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là việc chuyển dạng
thức chữ viết của từ và âm thanh) đọc đợc hiểu và kỹ thuật đọc cộng với sự thông hiểu đọc
(không chỉ hiểu nghĩa từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài) ý nghĩa cả hai mặt của thuật ngữ đọc
đợc ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phơng pháp dạy học.
Kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài T.G.E
Gôrốp chia việc hình thành kỹ năng này qua 3 giai đoạn phân tích, tổng hợp (còn gọi là giai
đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chính thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá.
Học sinh lớp 2, 3 bắt đầu đọc tổng hợp. Thời gian gần đây ngời ta đã chú trọng hơn
đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc, làm việc với văn
3
bản. Đòi hỏi tổ chức giờ tập đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc, đồng thời hớng
đến việc hoàn thiện kỹ năng đọc, hớng đến đọc có ý thức bài đọc.
Đọc là hiểu nghĩa chữ viết, nếu trẻ không hiểu thì những từ đa ra cho các em đọc thì
các em sẽ không có hứng thú học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những
gì đợc đọc sẽ tạo ra động cơ hứng thú cho việc đọc.
Mục đích này chỉ có thể đạt đợc thông qua con đờng luyện giao tiếp có ý thức. Một
phơng tiện luyện tập quan trọng, cũng đồng thời là một mục tiêu đạt tới trong sự chiếm lĩnh
ngôn ngữ. Chính là việc đọc cả đọc thành tiếng và đọc thầm.
Quá trình hiểu văn bản bao gồm các bớc sau:
+ Hiểu nghĩa các từ ngữ
+ Hiểu nghĩa các câu
+ Hiểu nghĩa các khối đoạn

+ Hiểu nghĩa đợc cả bài
Học sinh tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu đợc những câu điều mình
đọc. Hầu nh toàn bộ sức chú ý đều tập trung vào việc nhận ra mặt chữ, đánh vần để phát âm,
còn nghĩa thì cha đủ thì giờ và sức lực mà nhận biết. Mặt khác, do vốn từ còn năng lực liên
kết thành câu thành ý còn hạn chế nên việc hiểu và nội dung còn khó khăn. Đây là cơ sở để
đề xuất các biện pháp hình thành năng lực đọc hiểu cho học sinh tiểu học.
1.4/ Cơ sở ngôn ngữ học và văn học của việc dạy học:
Phơng pháp dạy tập đọc, phải dựa trên cơ sở ngôn ngữ học nó liên quan mật thiết với
một số vấn đề của ngôn ngữ học nh vấn đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu, nghĩa của
từ, câu đoạn.
Phơng pháp dạy tập đọc dựa trên cơ sở nghiên cứu của ngôn ngữ học xác lập nội dung
và phơng pháp dạy tập đọc. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những cơ sở ngôn ngữ
học không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tùy tiện và không
đảm bảo hiệu quả dạy học.
+ Chính âm trong Tiếng việt:
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về mặt
xã hội
Theo đa số nhà nghiên cứu nội dung cơ bản của chính âm trong Tiếng việt hiện nay
nên lấy hệ thống ngữ âm (cách phát âm) của phơng ngữ bác bộ mà tiêu biểu là tiếng Hà Nội
làm căn cứ bổ sung cách phát âm. Một số phụ âm quặt lỡi (tr, s, r) và không phát âm phân
biệt d/gi.
1.4.1/ Vấn đề ngữ điệu Tiếng việt:
Ngữ điệu là sợ thay đổi giọng nói, giọng đọc là sự lên cao hay học thấp giọng đọc,
giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn điệu, ngữ điệu gồm toàn bộ
các phơng tiện siêu đoạn (siêu âm đoạn tính) đợc sử dụng bình diện câu nh độ thấp của âm
thanh cờng độ mạnh yếu, hay là môi trờng truyền dẫn (độ dài ngắn của âm thanh, hay là thời
gian thực tế của âm thanh) âm sắc (là sắc thái riêng của âm thanh)
Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yêu tố tham gia tạo thành lời nói
Mỗi ngôn ngữ, có một ngữ điệu riêng, ngữ điệu Tiếng việt nh các ngôn ngữ có thanh
điệu khác, chủ yếu đợc biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng (trờng độ) và sự chuyển

giọng (phối hợp cả cờng độ và trờng độ).
1.4.2/ Cơ sở lý thuyết văn bản phong cách học và việc dạy đọc cho học sinh:
Việc dạy học không thể dựa trên lý thuyết văn bản, những tiêu chuẩn để phân tích,
đánh giá một văn bản nói chung cũng nh lý thuyết để phân tích đánh giá các tác phẩm văn
4
chơng nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn
đánh giá văn bản tốt, tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên các đặc điểm
về kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại văn bản các đặc điểm về tác phẩm
của thể loại văn chơng dùng làm ngữ liệu đọc ở Tiểu học.
Ví dụ: Cách đọc và khai thác để hiểu nội dung bài thơ, một đoạn tả cảnh, một câu tục
ngữ, một truyền thuyết, một bài lịch sử là khác nhau. Việc hớng dẫn học sinh tìm hiểu nội
dung bài đọc cũng phải dựa trên những hiểu biết về đề tài, chủ đề kết cấu nhân vật, quan hệ
giữa nội dung hình thức, các biện pháp thể hiện trong tác phẩm văn học nhằm miêu tả, kể
chuyện và biểu hiện các phơng tiện, biện pháp tu từ.
Khi luyện đọc cho học sinh dựa trên những hiểu biết về đặc điểm ngôn ngữ văn học,
tính hình tợng, tính tổ chức cao và tính hàm đa nghĩa của nó.
* Chuẩn bị cho việc đọc thành tiếng:
Giáo viên hớng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần ngồi ngay
ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35cm, cổ và đầu thẳng, phải
thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. ở lớp khi đợc cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự
tin không hấp dẫn đọc ngay.
Trớc khi nói về việc rèn đọc đúng cần nói về tiêu chí cờng độ và t thế khi đọc, tức là
rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng ngời đọc một lúc
đóng hai vai: Một vai - và mặt này thờng đợc nhấn mạnh - là ngời tiếp nhận thông tin, bằng
chữ viết, vai thứ hai là ngời trung gian để truyền thông tin, đa văn bản viết đến ngời nghe.
Khi giữ vai thứ hai này, ngời đọc đã thực hiện việc tái sản sinh văn bản. Vì vậy khi đọc thành
tiếng ngời đọc có thể đọc cho mình hoặc cho ngời khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát
biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trớc đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên
phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công tạo cho các em sự tự tin cần thiết.
Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến ngời nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các

em đọc không phải chỉ đề cho mình cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc
đủ lớn cho tất cả những ngời này nghe rõ. Nhng nh thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc quá
to hoặc gàn lên. Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ lý nhí giáo viên cần tập cho các em
đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Giáo viên nên cho học sinh
đứng lên bảng để đối diện với những ngời nghe t thế đứng đọc phải vừa đàng hoàng, vừa
thoải mái sinh phải đợc mở rộng và cân bằng hai tay.
* Luyện đọc đúng:
- Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi.
Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ
thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát
âm địa phơng lệch chuẩn, với những học sinh ngời dân tộc thì lu ý không để hệ thống ngữ
âm mẹ đẻ ảnh hớng tiêu cực đến phát âm Tiếng việt. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các
âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu) .
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng việt.
+ Đọc đúng các phụ âm đầu s/x, tr/ch
+ Đọc đúng các chính âm: Có ý thức phân biệt để không đọc Ơn, ân cơn ma,
cân ma.
+ Đọc đúng các âm cuối
+ Đọc đúng các thanh có các lỗi phát âm địa phơng nh lẫn thanh (~) và thanh nặng (.)
VD: Dũng - Dụng, xã - xạ.
5
+ Đọc đúng bao gồm cả đúng tiểu tấu, ngắt hơi, ngữ điệu câu, cần phải dựa vào
nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không đợc tách
một từ làm hai. VD: Ông già bẻ gẫy từng chiếc một/cách dễ dàng.
+ Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm:
Ví dụ không đọc: - Em cầm tờ/lịch cũ
Ngày hôm qua đâu rồi
+ Không tách quan hệ từ là với danh từ đi sau nó, ví dụ không đọc: - Mẹ là/ngọn
gió của con suốt đời:
- Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu

chấm. Đọc đúng các ngữ điệu câu: Lên giọng ở cuối câu hỏi, học giọng ở cuối câu kể, thay
đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm, với câu cầu khiến cần nhấn
giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra còn phải hạ giọng khi
đọc bộ phận giải thích của câu
Nh vậy đọc đúng đa bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
- Trình tự luyện đọc đúng: Trớc khi lên lớp giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các
lỗi khi đọc. Tuỳ đối tợng học sinh, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh địa phơng
hoặc các vùng dân tộc dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để luyện đọc tr-
ớc.
Khi lên lớp đầu tiên giáo viên đọc mẫu rồi cho cả lớp đọc đồng thanh, cuối cùng cho các
em đọc cá nhân các tiếng, từ khó này, với những câu mà giáo viên dự tính sẽ có nhiều em đọc sai
phách câu. Cũng tiến hành nh vậy, cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoàn bài.
- Luyện đọc nhanh: Đọc nhanh là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc
không ê, a ngắc ngứ, vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Đọc nhanh chỉ thực
sự có ích khi có không tách rời việc hiểu rõ điều đợc đọc. Khi đọc cho ngời khác nghe thì
ngời đọc phải xác định tốc độ nhanh nhng để cho ngời nghe hiểu kịp thời. Vì vậy đọc nhanh
không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận đợc của đọc nhanh khi đọc thành tiếng
trùng với tốc độ của lời nói.
+ Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hớng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc
bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ,
câu , đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có
biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của giáo viên của bạn để điều chỉnh
tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có tiếng cho trớc và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút.
Định tốc độ đọc nh thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
* Chuẩn bị cho việc đọc thầm: Cũng nh khi ngồi đọc (vì ít khi đứng đọc) thành
tiếng, t thế ngồi đọc thầm phải ngay ngắn khoảng cách giữa mắt và sách 30-35cm.
- Kỹ năng đọc thầm phải đợc chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to đọc nhỏ
đọc mấp máy môi (không thành tiếng) đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi
(đọc thầm) giai đoạn cuối lại gồm 2 bớc: Di chuyển mắt theo que trỏ hoặc ngón tay rồi đến
chỉ có măt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức quá trình chuyển từ ngoài vào trong này.

Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời gian đọc
thầm cho từng đoạn và bài.
+ Đọc hiểu: Hiệu quả của đọc thầm đợc đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn
bản đọc. Do đó dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức đọc hiểu. Kết quả của đọc thầm
phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài. Tức là toàn bộ những gì đợc
đọc. Nh tâm lý ngôn ngữ học đã chỉ ra để hiểu và nhớ những gì đợc đọc ngời đọc không
phải xem tất cả các chữ đều quan trọng nh nhau mà có thể và cần sàng lọc để giữ lại những
6
từ chìa khoa những nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ để giúp ta hiểu đợc nội
dung của bài. Trong những bài khoa văn chơng đó là những từ dùng đắt tạo nên giá trị
nghệ thuật của từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu màu sắc biểu cảm nh các từ
láy, những từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng, có sự chuyển nghĩa văn chơng.
Tiếp đó cần hớng dẫn học sinh đến việc phát hiện ra những câu quan trọng của bài.
Những câu nêu ý nghĩa chung của bài.
2/ Một số vấn đề liên quan đến phơng pháp dạy học:
2.1/ Nguyên tắt dạy học:
Những nguyên tắt đặc trng của dạy học Tiếng việt ở tiểu học phải phản ánh đợc đặc
trng của chính quá trình dạy học Tiếng việt ở Tiểu học và chi phối bao trùm lên rất cả quá
trình dạy. Những nguyên tắc đang đợc xem là chung nhất và mang tính đặc thù trong dạy
học Tiếng việt ở Tiểu học là nguyên tắt phát triển lời nói (còn gọi là nguyên tắc giao tiếp huy
nguyên tắc thực hành) nguyên tắc phát triển từ duy (còn gọi là nguyên tắc rèn luyện ngôn
ngữ gắn liền với rèn luyện t duy hay nguyên tắc phát triển) và nguyên tắc tính đến trình độ
phát triển tiếng mẹ đẻ của học sinh.
2.1.1/ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc) giao tiếp, nguyên tắc thực hành):
Đây là nguyên tắc trung tâm của dạy học Tiếng việt ở Tiểu học. Nguyên tắc này đòi
hỏi khi dạy học Tiếng việt phải đảm bảo các yêu cầu sau:
a/ Xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đa chúng vào các
đơn vị lớn hơn. Ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu nh thế nào. Câu ở trong đoạn trong bài
ra sao.
b/ Việc lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tiếp làm mục

đích. Từ là hớng vào việc hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh.
c/ Phải tổ chức tốt hoạt động nói năng của học sinh để dạy học Tiếng việt. Nghĩa là
phải sử dụng giao tiếp nh một phơng pháp dạy học chủ đạo ở tiểu học
2.1.2/ Nguyên tắt phát triển t duy, yêu cầu:
a/ Phải chú ý rèn luyện các thao tác và phẩm chất t duy trong giờ dạy tiếng.
b/ Phải chú ý làm cho học sinh thông hiểu đợc ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ.
c/ Phải tạo điều kiện cho học sinh nắm đợc nội dung các vấn đề cần nói viết và biết
thể hiện nội dung này bằng các phơng tiện ngôn ngữ.
2.1.3/ Nguyên tắc chú ý đến trình độ tiếng mẹ đẻ của học sinh: Sự vận dụng nguyên
tắc này khi dạy Tiếng việt với t cách là tiếng mẹ đẻ và với t cách là ngôn ngữ thứ hai có khác
nhau.
Trớc hết, với những học sinh ngời việt, khi nghiên cứu Tiếng việt học sinh tiếp xúc
với một đối tợng quen thuộc, gắn bó trực tiếp với cuộc sống hàng ngày của các em. Trớc khi
đến trờng các em đã nắm hai dạng hoạt động nói và nghe. Các em đã co một vốn từ và quy
tắc ngữ pháp nhất định. Vì vậy, cần phải điều tra, nắm vững vốn Tiếng việt của học sinh theo
từng lớp từng vùng khác nhau để hoạch định nội dung, kế hoạch và phơng pháp dạy học. Đó
là, yêu cầu thứ nhất của việc thực hiện nguyên tắc, yêu cầu thứ hai là phải phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh trong giờ học Tiếng việt. Yêu cầu thứ ba là giáo viên cần hệ
thống hoá, phát huy những năng lực tích cực của học sinh hạn chế và xoá bỏ những mặt tiêu
cực về lời nói của các em trong quá trình học tập. Ví dụ, chú trọng dạy phong cách viết và
dạng độc thoại là những phong cách và dạng lời nơi học sinh mới làm quen lần đầu tiên khi
đến trờng. Chú ý chữa các lỗi phát âm địa phơng đặc biệt là các lỗi chính tả do phát âm địa
phơng.
7
Với những học sinh học Tiếng việt với t cách là thứ tiếng th hai. Việc vận dụng
nguyên tắc này cũng rất quan trọng. Nếu tiếng mẹ đẻ có đặc điểm giống Tiếng việt thì học
sinh cần sử dụng kinh nghiệm nói năng sang nói Tiếng việt. Còn những điểm nào không
giống thì xem là cản trở, cần làm so sánh loại hình, nghiên cứu sự chuyển di tích cực và tiêu
cực để có ứng dụng trọng dạy học Tiếng việt cho những đối tợng này.
Vấn đề nguyên tắc dạy tiếng đang đợc tiếp tục nghiên cứu từ mô hình thực tế đến các

quy luật, từ quy luật đến các nguyên tắc các phơng pháp rồi lại quay về thực tế. Quy trình
cần có này cha đợc khép kín. Vì vậy trên thực tế, các nguyên tắc dạy học Tiếng việt cha đợc
ứng dụng triệt để và cha có kết quả cao.
2.2/ Phơng pháp dạy học:
Phơng pháp dạy học Tiếng việt là cách thức làm việc của thầy giáo và học sinh nhằm
làm cho học sinh nắm vững kiến thức và kỹ năng Tiếng việt.
* Các phơng pháp dạy học Tiếng việt Tiểu học:
+ Phơng pháp phân tích ngôn ngữ:
Là phơng pháp đợc sử dụng một cách có hệ thống trong việc xem xét tất cả các mặt
của ngôn ngữ: Ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, cấu tạo từ, chính tả, phong cách với mục đích
làm rõ cấu trúc các kiểu đơn vị ngôn ngữ. Hình thức và cách thức cấu tạo ý nghĩa của việc sử
dụng chúng trong nói năng. Các dạng phân tích ngôn ngữ: Quan sát ngôn ngữ (là giai đoạn
đầu của quá trình phân tích ngôn ngữ nhằm tìm ra điểm giống và khác nhau và sắp xếp
chúng theo một trật tự nhất định) phân tích ngữ âm, phân tích ngữ pháp, phân tích chính ta,
phân tích tập viết phân tích ngôn ngữ các tác phẩm văn chơng Tất cả các dạng phân tích
ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của nhiều bài tập khác nhau: Bài tập viết, chính ta, kể lại
các bài văn với nhiệm vụ mang tính phân tích:
+ Phơng pháp luyện tập theo mẫu: Là phơng pháp mà học sinh tạo các đơn vị ngôn
ngữ, lời nòi bằng cách mô phỏng lời thầy giáo sách khoa phơng pháp này gồm nhiều dạng
bài tập nh kể lại đặt câu theo mẫu cho trớc. Phát âm hoặc đọc diễn cảm theo thầy giáo phơng
pháp này thờng đợc sử dụng trên giờ tập đọc, chính tả, ngữ pháp tập làm văn.
+ Phơng pháp giao tiếp: Là phơng pháp dạy tiếng dựa vào lời nói những thông báo
sinh động vào giao tiếp bằng ngôn ngữ. Phơng pháp này gắn liền với phơng pháp luyện tập
theo mẫu cơ sở của phơng pháp giao tiếp là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ
đợc coi là phơng tiện giao tiếp thì lời nói đợc coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Dạy Tiếng việt theo hớng giao tiếp tức là dạy phát triển từng lời của từng cá nhân học sinh.
Phơng pháp giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói còn những kiến thức lý thuyết thì đợc
nghiên cứu trên cơ sở sở phân tích các hiện tợng đa ra trong bài. Để thực hiện phơng pháp
giao tiếp phải tạo ra cho học sinh nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp, môi trờng giao tiếp,
các phơng tiện ngôn ngữ và các thao tác giao tiếp.

Việc tách ra từng phơng pháp là để giải thích rõ nội dung của chúng. Trong thực tế
dạy học các phơng pháp thờng đợc sử dụng phối hợp chặt chẽ không có phơng pháp nào là
vạn năng. Điều quan trọng là phải nắm vững các điều kiện cụ thể của dạy học để lựa chọn
phơng pháp cho phù hợp. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến lựa chọn phơng pháp là nhiệm
vụ dạy học, nội dung dạy học, khả năng của học sinh trình độ của giáo viên, điều kiện vật chất.
III - Một số cơ sở thực tiễn:
1/ Các phơng tiện dạy học:
8
- ở địa bàn chúng tôi đồ dùng dạy học đã có là bảng phụ phấn màu, phiếu bài tập và
tranh minh họa trong sách giáo khoa.
Đồ dùng, các phơng tiện hiệu quả giờ dạy tập đọc. Hiện nay trong thực tế dạy học tập
đọc có hai cách làm trái ngợc nhau. Có những giáo viên khi dạy tập đọc không bao giờ quan
tâm đến việc chuẩn bị đồ dùng gì khác ngoài quyển SGK. Ngợc lại có những giáo viên cho
rằng đồ dùng dạy học là điều kiện đầu tiên quyết định chất lợng giờ dạy. Để minh hoạ cho
một tiết tập đọc có giáo viên đã bỏ ra vài trăm ngàn đồng để có đợc một bức tranh.
Khi chuẩn bị đồ dùng dạy học, giáo viên cần xác định đợc mục đích của đồ dùng đó
là gì, nó đợc sử dụng vào lúc vào và cách sử dụng của nó ra sao. Trong thực tế có những giáo viên
đã sử dụng đồ dùng trực quan một cách tuỳ tiện mà không nắm đợc mục đích của chúng.
+ Các tài liệu dạy học:
- Sách giáo khoa
Sách đợc xây dựng theo 2 trục là chủ điểm và kỹ năng trong đó chủ điểm đợc lấy làm
khung cho cả cuốn sách, còn kỹ năng đợc lấy làm khung cho từng tuần, từng đơn vị học.
Sách bao gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị học gắn với một chủ điểm cho trong 2 tuần
(riêng chủ điểm nhân dân học trong 3 tuần) thời gian còn lại (5 tuần) để ôn tập, kiểm tra
giữa kỹ hoặc cuối kỳ.
Tập một tập trung vào mảng Học sinh - nhà trờng - gia đình gồm 8 đơn vị học dạy
trong 16 tuần và 2 tuần cho ôn tập kiểm tra giữa kỳ và cuối kỳ.
Các đơn vị học là: Em là học sinh (Tuần 1, 20 bạn bè (Tuần 3, 4) trờng học (tuần 5, 6)
thầy cô (tuần 7, 8) cha mẹ (tuần 10, 11).
Anh em (tuần 12, 13) ông bà (tuần 14, 15) bạn trong nhà (tuân 16, 17 ).

- Tập 2 gồm 7 đơn vị học dạy trong 15 tuần và 2 tuần ôn tập, kiểm tra.
- Các đơn vị học là: Bốn mùa (tuần 19, 20) chim chóc (tuần 21, 22) muông thú (tuần
23, 24); Sông biển (tuần 25, 26) cây cối (tuần 28, 29) Bác Hồ (tuần 30, 31) nhân dân (tuần
32, 33, 34)
* Cấu trúc mỗi đơn vị học:
Mỗi đơn vị học là một chủ điểm học trong 2 tuần (riêng chủ điểm nhân dân học trong
3 tuần từ 32 - 34)
* Tuần thứ nhất: 10 tiết, gồm:
- Phân môn tập đọc: Có 3 bài dạy trong 4 tiết
+ Bài thứ nhất là một truyện kể dạy trong 2 tiết. Bài tập đọc này còn là ngữ liệu cho
tiết kể chuyện và tiết chính ta kế tiếp giúp cho học sinh thực hành nói và viết tốt hơn qua bài
tập đọc.
+ Bài thứ hai là một văn bản thông thờng dạy trong 1 tiết.
+ Bài thứ 3 là một văn bản thơ đợc dạy trong 1 tiết
- Phân môn kể chuyện: Có 1 bài dạy trong 1 tiết
- Phân môn chính tả có 2 bài dạy trong 2 tiết
- Phân môn luyện từ và câu có 1 bài dạy trong 1 tiết
- Phân môn tập làm văn có 1 bài dạy trong 1 tiết
* Tuần thứ hai 10 tiết gồm:
- Phân môn tập đọc: Có 3 bài dạy trọng 4 tiết
+ Bài thứ nhất là một truyện kể dạy trong 2 tiết
+ Bài thứ 2 là một văn bản miêu tả dạy trong 1 tiết
+ Bài thứ 3 là một truyện vui đợc dạy trong 1 tiết
- Phân môn kể chuyện: Có 1 bài dạy trong 1 tiết
9
- Phân môn luyện từ và câu có 1 bài dạy trong 1 tiết
- Phân môn tập làm văn có 1 bài dạy trong 1 tiết
* Những thuận lợi:
- Khổ sách lớn hơn so với SGK lớp 2 cũ, kênh chữ rõ ràng giúp học sinh dễ dàng
trong việc tập đọc.

- Các chủ điểm sát thực, gần gủi với đời sống hàng ngày của học sinh.
+ Các loại văn bản không phải là văn đợc đa vào dạy trong phân môn tập đọc nh văn
bản hành chính, báo chí hành dụng, giúp học sinh vận dụng những điều đã học vào cuộc
sống. Không văn chơng hoá kiến thức trung các bài tập đọc của Tiểu học.
+ Đa vào dạy các truyện vui đem đến cho các giờ học những tiếng cời nhẹ nhàng, qua
đó góp phần hình thành ở cách em trí thông minh, óc hài hớc và lòng nhân nhận.
- Khó khăn: Khổ sách lớn, giấy lại mỏng nên việc quản lý và giữ gìn SGK không đợc
tốt.
* Sách giáo viên: Cấu trúc bài soạn trong SGK nhìn chung gồm 3 phần: Mục tiêu
của bài học, đồ dúng dạy học những hoạt động dạy học chủ yếu. Cấu trúc này phản ánh đợc
sự đổi mới về phơng pháp dạy học thu định hớng tổ chức các hoạt động học tập cho học
sinh, học sinh đợc hoạt động dới nhiều hình thức, đợc hỗ trợ nhiều phơng tiện và thiết bị dạy
học để hoạt động.
- SGV chỉ đa ra những gợi ý về cách tổ chức cho học sinh làm việc về cách đánh giá,
về việc đúng các thiết bị mà không nếu thành các yêu cầu mang tính chất bắt buộc giáo viên
phải làm theo. Vì thế giáo viên có cơ hội để vận dụng linh hoạt và sáng tạo những hớng dẫn
nói trên vào điều kiện daỵ học cụ thể của lớp mình.
SGV đồng thời là một tài liệu nguồn, trong sách có nhiều bài đã cung cấp cho giáo
viên những kiến thức khoa học cơ bản cần đợc bổ túc để dạy học có nhiều bài giới thiệu cho
giáo viên những kỹ thuật dạy học mới.
* Sách thiết kế bài giảng: Bám sát nội dung chơng trình Tiếng việt 2 mới đợc ban
hành, về phơng pháp, các hoạt động dạy và học đợc thiết kế theo hớng dạy học trên cơ sở
hoạt động học tập của học sinh.
* Các tài liệu khác nh vở bài tập:
Địa bàn trờng đóng tơng đối xa trung tâm điều kiện cấp phát hạn chế. Kinh tế gia
đình hạn hẹp một số phụ huynh cha thật sự quan tâm đến bậc học nên đa số các em không
có điều kiện mua VBT để sử dụng dẫn đến việc sử dụng VBT không đồng đều.
2/ Các hoạt động dạy và học:
2.1/ Hoạt động của giáo viên:
- Đa số giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, yêu nghề mến trẻ song trình độ giáo viên

không đồng đều, do không có điều kiện học tập để nâng cao trình độ. Không cập nhật đợc
các thông tin chơng trình mới, cách bố trí giáo viên trong trờng thiếu tính hệ thống.
- Giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo viên, thiết kế để dạy cha xác định đợc mục tiêu
nội dung bài dạy, cha nắm vững phơng pháp dạy học nên trong quá trình dạy học thờng diễn
ra một cách máy móc rập khuôn, cha có sáng tạo, cha phân phối thời gian hợp lý cho từng
hoạt động, cha biết cách phối hợp các hình thức tổ chức dạy học. Vài trò làm mẫu cho học
sinh cha chuẩn, hớng dẫn học sinh đọc cha cụ thể, có một số câu hỏi còn áp đặt, cha quan
tâm đến tất cả các đối tợng học sinh.
2.2/ Hoạt động của học sinh:
10
Đa số các em là con em dân tộc thiểu số việc tiếp xúc với các hoạt động xã hội còn
hạn chế, cách phát âm cha rõ nên có ảnh hởng đến việc dạy học tiếng việt kỹ năng đọc của
học sinh còn thấp. Đọc ngắt nghỉ hơi cha đúng, học sinh cha hiểu đợc cách nói văn chơng
vốn lý luận cha có. Kết quả học đọc của các em cha đáp ứng đợc yêu cầu của việc hình
thành kỹ năng đọc, các em cha nắm đợc công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, t tởng tình
cảm của ngời khác chứa đựng trong văn bản đọc.
- Đa số các em còn ham chơi vốn kiến thức của các em còn hạn chế.
- Các em còn phụ thuộc nhiều vào giáo viên
VI - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học tập đọc lớp
2
1/ Đối mới các phơng tiện dạy học:
- Xây dựng phổ biến các phơng tiện dạy học khác nhau.
- Khuyến khích giáo viên làm đồ dùng phù hợp với nội dung bài. Biết sử dụng phơng
tiện khác nhau một cách có hiệu quả.
- Hớng dẫn học sinh sử dụng các đồ dùng dạy học để các em tự phát triển tri thức mới
hình thành những kỹ năng cần thiết phát triển năng lực cá nhân
2/ Đổi mới nội dung dạy học:
Nh ta đã biết chất lợng đọc của học sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó vai trò
hớng dẫn của giáo viên rất quan trọng.
2.1/ Chuẩn bị kỹ cho việc đọc:

- Giáo viên có kỹ năng đọc thành thục.
Kỹ năng đọc là mục đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi giờ học.
Những kỹ năng này trớc hết phải có kỹ năng giải mã nghĩa, ý của văn bản đó. Giáo viên phải
tạo đợc hình đọc lý tởng cũng tức là phải có kỹ năng đọc thành thục. Giáo viên phải đọc đợc
bài tập đọc từ việc biết cách xác định từ, câu quan trọng đến việc hiểu đợc nghĩa, ý, tình của
văn bản. Giáo viên không thể hình thành ở học sinh kỹ năng gì mà bản thân mình không có,
không thể gặt hái đợc những gì mà ta không có khả năng gieo trồng. Vì vậy, trong dạy học
chúng ta không có quyền đòi hỏi học sinh làm những gì mà bản thân mình cha không làm đ-
ợc. Giáo viên không thể luyện cho học sinh đọc hay đọc diễn cảm mà bản thân mình cha xác
định đợc bài văn cần đọc với giọng điệu nh thế nào. Khi dạy học không có hiệu quả nhiều
giáo viên đỗ lỗi cho phơng pháp mà không biết rằng Phơng pháp chỉ là hình thức của sự tự
vận động bên trong của chính nội dung.
Một trong ba phơng pháp dạy học quan trọng nhất ở Tiểu học là phơng pháp luyện
theo mẫu. Vì vậy không biết làm mẫu thì không thể tiến hành giờ dạy. Do đó khi soạn bài
giáo viên phải xác định đợc những kỹ năng đọc cần có và luyện tập cho mình thành thục
những kỹ năng này. Khi soạn bài giáo viên phải tự làm trớc những gì mà học sinh phải làm
trên lớp: Đọc thành tiếng, giải nghĩa từ, trả lời những câu hỏi về nội dung bài.
- Giáo viên có sự hiểu biết về chơng trình SGK, các tài liệu dạy học.
- Giáo viên phải tìm hiểu vốn đọc của học sinh, đặc điểm, trình độ của học sinh.
Quyển SGK đầu tiên ngời giáo viên phải nghiên cứu chính là học sinh không phải đến khi
soạn một bài cụ thể chúng ta mới tiến hành tìm hiểu học sinh. Việc tìm hiểu học sinh là
một quá trình lây dài đã đợc tiến hành trớc đó. Để tiến hành dạy học tập đọc chúng ta
phải hiểu rõ học sinh của mình, đặc điểm, trình độ của học sinh, các em đa có những
kiến thức kỹ năng đọc gì, cụ thể chúng ta phải biết rõ học sinh của mình có hứng thú với
những bài tập đọc nào, phát âm có gì sai chuẩn, khó phát âm, những từ ngữ nào trong bài.
Khó đọc đúng, đọc hay những câu nào Để luyện đọc hiểu chúng ta cần nắm đợc học
11
sinh của mình cha hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào nội dung nào trong bài sự hiểu biết
này sẽ giúp chúng ta xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội dung và kỹ năng dạy đọc
chẳng hạn những lỗi phát âm lệch chuẩn của học sinh giúp giáo viên xác định đợc những từ

ngữ trong bài cần luyện đọc đúng chính âm.
2.2/ Xác định mục tiêu nội dung dạy học bài tập đọc:
- Xác định mục tiêu giờ học tức là xác định nội dung để viết mục I mục tiêu trong
giáo án. Chúng ta biết rằng mục tiêu của phân môn tập đọc là các kỹ năng đọc đúng, đọc
nhanh đọc hiểu và đọc diễn cảm.
Vì vậy khi xác định mục tiêu giờ tập đọc ta phải chỉ ra đợc tốc độ, những nội dung
luyện đọc đúng, diễn cảm, đọc hiểu nh thế nào.
- Xác định nội dung dạy đọc công cụ thể chi tiết bao nhiêu thì việc tiến hành giờ dạy
càng có hiệu quả bấy nhiêu. Để xác định mục tiêu, nội dung dạy học chúng ta phải trả lời đ-
ợc: Sau giờ học học sinh đạt đợc những gì? Cụ thể đó là trả lời các câu hỏi.
+ Học sinh cần đọc bài tập đọc trong thời gian bao lâu (để xác định tốc độ đọc, luyện
kỹ năng đọc nhanh).
+ Những từ ngữ, câu nào học sinh luyện đọc thành tiếng chúng cần đợc đọc lên nh thế
nào và vì sao lại chọn những từ ngữ, câu đó để luyện đọc.
+ Toàn bài cần đọc với giọng điệu chúng nh thế nào, tốc độ, cờng độ, cao độ, trờng
độ.
+ Những từ ngữ, câu nào cần dạy nghĩa và dạy nghĩa chúng ra sao? Những tình tiết
nào của câu chuyện cần tìm hiểu và tìm hiểu chúng nh thế nào?
+ Nội dung chính của bài tập đọc là gì, ý nghĩa của bài văn, bài thơ, câu chuyện là gì?
Học sinh đợc giáo dục điều gì sau khi đọc bài tập đọc.
* Luyện đọc đúng - hình thành kỹ năng đọc thành thạo cho các em:
Từ những thực trạng trên ta đề ra những biện pháp để hớng dẫn học sinh đọc đúng nội
dung, hiểu văn bản đợc đọc.
Đọc đúng là tái hiện âm thanh của bài đọc một cách chính xác không có lỗi, đọc
đúng không thừa, không sót tiếng.
Đọc đúng phải thể hiện đợc hệ thống âm chuẩn. Tức là đọc đúng chính âm, với học
sinh ngời dân tộc thì giáo viên phải lu ý không để hệ thống ngữ âm tiếng mẹ đẻ ảnh hởng
tiêu cực đến phát âm Tiếng việt. Đọc đúng bao gồm đọc đúng các âm, các thanh ngắt nghỉ
hơi đúng chỗ.
* Luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc:

Trớc hết phải luyện cho học sinh không bỏ sót tiếng, không thêm tiếng không lạc giọng.
Học sinh lớp 2 khi đọc có em còn bỏ sót tiếng hoặc lạc giọng. Vì các em này cha làm
chủ đợc tia mắt. Với những học sinh này giáo viên phải quay lại với việc sử dụng que trỏ
hoặc thớc đặt dới từng dòng kẻ để học.
- Chữa lỗi phát âm cho học sinh khi dạy bài Bím tóc đuôi sam từ đuôi xam đuôi
sam, chữa lỗi phát âm; Đọc đúng các phụ âm đầu có ý thức phân biệt s/x.
Hoặc bài cây xoài của ông em khi đọc s khác x luyện cho học sinh phát âm đúng cây xoài
không đọc cây soài. Khi học sinh đọc đúng là mục đích cuối cùng của chúng ta.
Muốn có đợc ở học sinh sau mỗi giờ học. Những kỹ năng này phải có ở giáo viên.
Đọc văn bản là giải mã âm thanh và giải mã nghĩa ý của văn bản đó phải có kỹ năng đọc
thành thục, có kỹ năng đọc bài tập đọc với giọng cần thiết.
Giáo viên hình thành ở học sinh những kỹ năng cha có (từ chỗ học sinh cha đọc đúng mà
ta phải hớng dãan cho các em đọc đúng rồi hình thành kỹ năng đọc đúng cho các em).
12
Đọc đúng: Phải ngắt hơi đúng chỗ, đúng nhịp ta đọc theo đơn vị từ không đợc nghỉ
giữa từ.
Trình tự khi dạy luyện đọc đúng:
- Trớc khi lên lớp giáo viên phải dự đoàn học sinh mình sẽ mắc lỗi nào (lỗi phát âm
sai, lỗi phát âm của dân tộc thiểu số).
- Giáo viên chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm, cho học sinh nhận diện vị trí
âm đệm trong từ rồi cho học sinh phát âm. Nếu một em phát âm soi cho em khác phát âm đúng.
Từ đó chữa lỗi bằng biện pháp luyện theo mẫu bằng từ phát âm mẫu của bạn của mình.
- Biện pháp chữa lỗi về âm trung gian là biện pháp chuyển từ âm sai về âm đúng.
Ví dụ: Học sinh ở Nghệ an phát âm sai dấu thanh chúng ta làm rõ biện pháp chữa lỗi
qua âm trung gian bằng cách mô tả chuyển thành nặng về thanh ngã. Vì tiếng quê ta nói
nặng nên đọc sai .
Luyện cho trẻ phát âm riêng từng thanh.
Thanh ngã bắt đầu ở âm vực thấp những kết thúc ở âm vực cao.
* Dạy cho học sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng trong sự thống nhất với đọc hiểu:
Trong giờ dạy tập đọc giáo viên phải hớng dẫn đến giáo dục cho học sinh yêu Tiếng

việt bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong
phú của ngữ điệu. Trong việc biểu đạt nội dung thế nhng hiện nay ở trờng tiểu học mặt âm
thanh của ngôn ngữ, đặc biệt là ngữ điệu cha đợc chú ý đúng mức. Đó là một trong những ký
do khiến cho học sinh của chúng ta đọc và nói cha lu loát. Vì các em không hiểu đúng văn
bản đợc đọc.
Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này.
Khi đọc các bài văn xuôi chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ đoạn. Khi
đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tơng ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn.
Vì vậy đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng nói riêng vừa là mục đích của dạy
đọc thàn tiếng, vừa là phơng tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Mỗi bài đọc
nhằm chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa, ngữ pháp chỗ ngắt giọng dự tính những chỗ học sinh hay ngắt
giọng sai khi đọc, cũng là xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài tập đọc cụ thể.
Từ đó dạy đọc đúng hiểu đúng các bài tập đọc ở Tiểu học.
* Rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh:
Muốn học sinh có năng lực có kỹ năng đọc hiểu tốt. Giáo viên phải có định hớng, có
kế hoạch sắp xếp thời gian tìm hiểu bài nhiều hơn, thời gian luyện đọc thành tiếng mà phải
coi trọng chất lợng đọc.
- Mỗi giờ lên lớp giáo viên xác định nội dung đọc hiểu cho các em. Tuỳ theo khả
năng nhận thức của từng vùng để dẫn dắt câu hỏi cho học sinh hiểu nghĩa của từ chìa khoá
câu khoá trong bài, tóm tắt đợc nội dung của đoạn, bài, phát hiện ra những yếu tố và giá
trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Có nhiều bài chỉ có thể dạy đọc nhớ khó dạy
đọc hiểu nội dung bài rời rạc không có chiều sâu, với những bài tập đọc hiện hành ở lớp 2
tôi tạm chia làm 2 nhóm mức độ tơng ứng với 2 nhóm dạy đọc hiểu.
- Tiếp nhận văn bản văn chơng
- Hiểu những yếu tố văn chơng
Ví dụ bài tí xíu (lớp 2)
- Việc sử dụng các biện pháp tu từ dùng theo nghĩa bóng. Từ đó xác lập đợc cơ sở xây
dựng hệ thống bài tập đọc, dạy đọc hiểu cũng mô tả một cách chi tiết là nhiệm vụ quan trọng.
- Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm.
- Xây dựng hệ thống bài tập nối đúng - nối nhanh.

13
Ví dụ: Bài mẹ lớp 2 có câu cuối mẹ là ngọn gió của con suốt đời là câu thơ có
nhiều chất văn nhất. Nếu giáo viên bình giảng câu này, diễn giảng về tình thơng sự chăm sóc
của mẹ đối với con thì sẽ không đọng lại gì trong tâm trí học sinh lớp 2. Ngợc lại nếu yêu
cầu học sinh giải thích câu thơ lại quá khó. Vì thế nên áp dụng cách hay hơn bằng hình thức
kiểm tra phiếu trắc nghiệm.
* Xây dựng phiếu bài tập trắc nghiệm:
Đánh dấu x vào ô trống trớc câu trả lời em cho là đúng.
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
Mẹ ngồi quạt cho con suốt đời
Sự chăm sóc, tình thơng của mẹ theo con suốt củ cuộc đời.
Mẹ đối với con lúc nào cũng mát nh ngọn gió
Mẹ là ngời nuôi dỡng chăm sóc con từ nhỏ đến lớn.
3/ Tổ chức các hoạt động dạy học trong giờ tập đọc lớp 2:
3.1/ Kiểm tra bài cũ:
Mục đích: Kiểm tra và củng cố việc đọc thành tiếng và đọc hiểu nội dung bài đã học.
Hình thức thực hiện:
- Kiểm tra đọc thành tiếng
+ Yêu cầu học sinh đọc một đoạn hoặc cả bài đã học.
+ Yêu cầu thực hiện một bài tập đọc thành tiếng: Nhận xét giọng đọc, ngữ điệu của
đoạn vừa đọc.
- Kiểm tra đọc hiểu: Yêu cầu thực hiện một bài tập đọc hiểu về nội dung đoạn bài vừa đọc.
Thời gian kiểm tra tiến hành từ 3 - 5 phút. Số lợng kiểm tra có thể từ 2-3
học sinh.
3.2/ Bài mới:
3.2.1/ Giới thiệu thiệu bài: Có thể dùng tranh ảnh, đặt câu hỏi nêu vấn đề để gây hứng
thụ tạo nhu cầu đọc bài ở học sinh không nên nói hết nội dung bài trong phần giới thiệu vì sẽ
áp đặt nội dung trớc cho học sinh trong khi lẽ ra nó là cái đích mà học sinh cần khám phá ra
đợc.
3.2.2/ Đọc mẫu:

Mục đích: Đa ra mẫu về đọc thành tiếng. Đây chính là cái đích, mẫu hình kỹ năng
đọc mà học sinh cần đạt đợc. Đồng thời giáo viên dùng giọng đọc mẫu cho học sinh có một
biểu tợng ban đầu về nội dung văn bản. Lúc này đọc mẫu lại là phơng tiện cho học sinh bớc
đầu làm quen với văn bản để chiếm lĩnh nội dung của nó. Bớc đọc mẫu rất quan trọng vì
cách tiếp xúc trực tiếp ấn tợng đầu tiên rất quan trọng. Nó quyết định việc học sinh yêu thích
hay không yêu thích văn bản đợc đọc. Yêu cầu đọc mẫu phải đảm bảo chất lợng, đọc đúng
chuẩn: Đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm.
* Khi đọc mẫu giáo viên cầm sách theo đúng quy cách. Giáo viên phải ổn định trật
t, tạo cho học sinh tâm thế hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo để theo
dõi bài đọc. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát đợc cả lớp.
Trong khi đọc, giáo viên cần thỉnh thoảng nhìn lên học sinh để tạo đợc sự giao cảm,
thu hút học sinh. Mặc dù vậy, việc hớng vào ngời nghe trong khi đọc không đợc làm bài đọc
bị gián đoạn muốn thế, ở nhà giáo viên phải đọc kỹ bài nhiều lần. Việc luyện đọc thành
tiếng và đọc hiểu có thể chia làm 2 bớc.
+ Mục đích: Luyện tập để học sinh đọc đợc nh mẫu và hiểu đợc nội dung bài đọc.
14
+ Hình thực thực hiện: Học sinh đồng thanh, cá nhân theo nhóm trả lời câu hỏi làm
bài tập. Giáo viên hớng dẫn cho học sinh luyện đọc từ ngữ, câu, đoạn bài theo cả hai hình
thức đã thành tiếng và đọc thầm.
Với những từ ngữ, câu khó đọc, phải luyện tập đi từ đọc từ, đọc cụm từ rồi mới đọc cả
câu. Đồng thời với luyện đọc thành tiếng giáo viên hớng dẫn học sinh tìm hiểu bài, phát
triển các từ quan trọng, những từ mới cần giải nghĩa, phát hiện các hình ảnh, chi tiết có giá
trị tiêu biểu làm các bài tập để xác định cách đọc và thông hiểu nội dung, nắm nội dung
chính của bài sao cho việc đọc đúng sẽ giúp cho hiểu đúng và thông hiểu nội dung sẽ chi
phối trở lại tạo ra một cách đọc có chất lợng cao hơn.
B ớc 1: Có thể tổ chức đọc đồng thanh, cả nhân, theo nhóm.
B ớc 2: Tiếp tục luyện đọc với yêu cầu cao hơn chủ yếu là luyện đọc đoạn, bài và h-
ớng đến mục đích đọc hay có thể gọi bớc 2 là đọc vòng 2 luyện đọc củng cố hay cách đọc
nâng cao.
Yêu cầu học sinh đọc cá nhân cả bài hay đoạn và trả lời câu hỏi để kiểm tra việc đọc

thành tiếng và đọc hiểu nội dung gắn với đoạn vừa đọc. Giáo viên điều chỉnh sửa chữa.
3.2.4/ Củng cố dặn dò: Giáo viên nhận xét chung về giờ học, lu ý chỗ cần luyện đọc
thêm và dặn dò việc chuẩn bị cho tiết sau:
4/ Đổi mới phơng pháp dạy học:
Đổi mới phơng pháp dạy học là một hiện tợng xã hội cái gì cũ kỹ, lọc hậu thì không
thể tồn tại và phải đợc thay thế bằng sự tiến bộ phù hợp với xu thế cảu thời đại mới. Phơng
pháp dạy học cũng nằm trong quy luật đó.
Đổi mới phơng pháp dạy học xong điều kiện hiện nay đợc hiểu là trên cơ sở phát huy
tính tích cực của phơng pháp truyền thống vận dụng những biện pháp dạy tiên tiến vào nhà
trờng tiểu học nhằm nâng cao, chất lợng và hiệu quả giáo dục mà vẫn đảm bảo tính hoạt
động ổn định của nhà trờng.
Đổi mới phơng pháp dạy học chính là sự tích cực hoá hoạt động của ngời học lấy ng-
ời học làm trung tâm trong đó thầy cô giáo đóng vai trò là ngời tổ chức các hoạt động của
học sinh thông qua hoạt động học mỗi học sinh đều đợc hoạt động, đều đợc bộc lộ mình và
đều có cơ hội phát triển.
Dạy học Tiếng việt bên cạnh các phơng đặc biệt gắn với từng loại bài là các phơng
pháp dạy học có thể sử dụng nhiều loại bài học.
+ Phơng pháp thực hành:
Thực hành là phơng pháp đợc sử dụng nhiều trong dạy học nói chung trong dạy học
Tiếng việt nói riêng. Hình thức cốt lỗi thực hiện phơng pháp thực hành là làm bài tập có thể
dùng phơng pháp này để dạy tri thức, để rèn luyện kỹ năng và khả năng giao tiếp Tiếng việt
cho học sinh. Hình thức phổ biến để hình thành kiến thức cho học sinh Tiểu học là thông qua
thực hành. Dạy thực hành Tiếng việt trong giao tiếp là xây dựng nên các tình huống giao
tiếp. Sau đó, dùng biện pháp sắm vai để thực hiện các tình huống giao tiếp này.
+ Phơng pháp sử dụng tình huống có vấn đề:
Dạy học việc vấn đề là đòi hỏi học sinh tham gia giải quyết các vấn đề do tình huống
đặt ra. Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan trọng dạy học nêu vấn đề. Phải có tình huống
có vấn đề mới thực hiện đợc phơng pháp dạy học nêu vấn đề. Thông qua việc tham gia giải
quyết vấn đề trong tình huống cụ thể, học sinh vừa nắm vững tri thức vừa phát triển t duy
sáng tạo. Phơng pháp sử dụng tình huống có vấn đề có nhiều khả năng phát tính độc lập suy

nghĩ và trí sáng tạo của học sinh.
+ Phơng pháp thảo luận nhóm:
15
Phơng pháp chủ yếu khi học theo nhóm là thảo luận nhóm: Thảo luận là cách học tạo
điều kiện cho học sinh luyện tập kỹ năng giao tiếp, khả năng hợp tác và khả năng thích ứng
với hoàn cảnh xung quanh. Thông qua thảo luận ngôn ngữ và t duy của học sinh trở nên linh
hoạt và sinh động hơn.
* Điều kiện đảm bảo thành công cho việc thảo luận là:
- Các đề tài đa ra thảo luận vừa sức, mởi mẻ để kích thích đợc hứng thú suy nghĩ của
học sinh. Nếu để quá học sinh chóng chán, nếu khó quá học sinh không có kiến thức trao
đổi, cuộc thảo luận sẽ trở nên bế tắc.
- Không lạm dụng quá nhiều hình thức thảo luận nhóm:
Cần xen kẻ hình thức thảo luận nhóm với các hình thức tổ chức học tập khác.
- Có em nhóm trởng điều khiển hoạt động của nhóm các ý kiến thảo luận cần đợc ghi
chép lại để dễ cho việc trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả làm việc của nhóm cần đợc có ý kiến góp ý của các nhóm bạn và giáo viên.
+ Phơng pháp sử dụng các trò chơi học tập.
Là hình thức học tập thông qua trò chơi, nhằm góp phần củng cố tri thức kỹ năng học
tập cho học sinh.
Trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng của
học sinh bớt đi vẻ khô khan tăng thêm phần sinh động hấp dẫn.
Đổi mới phơng pháp dạy học đợc thực hiện trong bối cảnh đổi mới giáo dục Tiểu học
nói chung và đổi mới hình thức tổ chức lớp học.
Hình thức tổ chức lớp học là cách thức tổ chức sắp xếo học sinh của lớp thành các
đơn vị học tập khác nhau trong quá trình dạy học. Có các hình thức tổ chức lớp học sau:
- Học theo lớp: Tổ chức học chung toàn lớp
- Học theo nhóm: Tổ chức nhiều nhóm để trao đổi bàn bạc về một nội dung bài học.
- Học cặp đôi: Hai cá nhân gần nhau cùng trao đổi thảo luận về một nội dung, về một
câu hỏi đợc giáo viên nêu ra.
- Học cá nhân: Tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của học sinh. Từng cá nhân

làm việc độc lập để cùng thực hiện một nhiệm vụ học tập nào đó.
Sự phối hợp các hình thức tổ chức lớp học khác nhau tạo nên sự mềm dẻo, linh hoạt
và sinh động cho quá trình dạy học. Nó cho phép giáo viên có thể sử dụng nhiều biện pháp
và phơng pháp dạy học khác nhau.
Quan trọng hơn nó tạo điều kiện cho giáo viên cá thể hoá việc dạy học, tạo cơ hội cho
mọi học sinh đều đợc tham gia vào hoạt động học tập, tạo cho học sinh cách làm việc tập thể
theo nhóm cách phối hợp với bạn bè trong công việc cách chủ động tự tin trình bày ý kiến cá
nhân. Đối với việc dạy học Tiếng việt, phối hợp các hình thức tổ chức lớp học nêu trên tạo môi tr-
ờng thuận lợi cho việc giao tiếp, cho việc rèn luyện 4 kỹ năng sử dụng Tiếng việt.
Đổi mới phơng pháp dạy học đã vận dụng quan điểm tích hợp:
Vừa hình thành kỹ năng vừa cung cấp tri thức trong các tri thức cung cấp cho học
sinh ngoài những tri thức Tiếng việt còn có các tri thức về khoa học tự nhiên và xã hội. Việc
hình thành các kỹ năng sử dụng Tiếng việt muốn có hiệu quả cao phải đợc thực hiện không
chỉ ở bài học Tiếng việt mà còn có ở những bài học thuộc những môn học khác nh nội dung
dạng từ trong phân môn tập đọc (tích hợp phân môn luyện từ và câu) dùng từ đặt câu.
Tập đọc: Luyện đọc là kỹ năng trung tâm (luyện đọc thành tiếng và đọc hiểu) có kết
hợp ôn luyện âm vần, nghe, nói, vốn từ Trong các bài chính tả kết hợp cho học sinh làm
quen với dấu câu; các bài kể chuyện: Luyện kể kết hợp với luyện nghe, nói
16
Các phân môn nh tập đọc, chính tả, tập viết, kể chuyện tập hợp quanh trục chủ điểm
và các bài đọc.
II - Thực nghiệm:
1/ Mục đích thực nghiệm:
Chúng tôi tổ chức thực nghiệm bằng cách đa ra một số ý kiến đề xuất của mình một
bài học cụ thể và tổ chức dạy ở Tiểu học nhằm đánh giá tính khả thi của các biện pháp đã đ-
ợc đề xuất ở trong luận văn.
2/ Đối tợng địa bàn thời gian thực nghiệm:
Chúng tôi tổ chức thực nghiệm vào tuần 11, bài cây xoài của ông em. Lớp 2 trờng Tiểu học
Quỳnh Nghĩa - Quỳnh Lu - Nghệ an (Nơi chúng tôi đang công tác).
3/ Nội dung thực nghiệm:

- Soạn giáo án
- Tiến hành dạy thực nghiệm
- Bài dạy: Cây xoài của ông em
- Phiếu đánh giá tiết dạy (1 tiết)
Do ban giám khảo đánh giá (theo thang điểm 20/20)
4/ Kết quả thực nghiệm:
Sau khi kiểm tra kết quả học tập của học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ở
trên chúng tôi nhận thấy:
+ ở lớp đối chứng: Hoạt động chính là giáo viên truyền thụ tri thức và đa ra một hệ
thống các câu hỏi yêu cầu học sinh đa vào ngữ liệu và kết quả phân tích của sách giáo khoa
để trả lời. Vì vậy học sinh tham gia hoạt động học tập một cách thụ động, máy móc và chỉ
tập trung vào nhóm học sinh khá giỏi và rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh còn hạn chế
nên hiệu quả đọc cha cao
+ ở lớp thực nghiệm: Mức độ hoạt động tích cực của học sinh trong giờ học đợc biểu
hiện khá rõ ràng. Bằng việc sử dụng các phơng pháp và hình thức tổ chức lớp học linh hoạt
lấy học sinh làm trung tâm, trong giờ học hầu hết học sinh đợc tham gia quá trình chiếm lĩnh
tri thức và rèn luyện kỹ năng. Học sinh nhút nhát, học sinh yếu đợc chú ý một cách đúng
mức, khuyến khích, động viên kịp thời. Vì vậy, kết quả học tập, rèn luyện đợc nâng cao.
Trong giờ thực nghiệm không có hiện tợng làm việc riêng các em đều bị cuốn hút vào các
hoạt động học tập. Qua đó chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa hai lớp thực nghiệm và đối
chứng.
17
Giáo án dạy thực nghiệm trên lớp:
Bài: Cây xoài của ông em
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
A - Kiểm tra bài cũ:
- Gọi 3 học sinh lên bảng đọc bài bà
cháu
- Gọi lần lợt 3 học sinh lên đọc bài,. trả lời câu
hỏi.

- Lớp theo dõi nhận xét
- Đoạn 1, 2: Gọi 1 học sinh đọc - Học sinh 1 lên bảng đọc bài
- Hỏi: Sau khi bà mất cuộc sống của hai
anh em nh thế nào?
- Sau khi bà mất, hai anh em sống giàu sang và
sung sớng
- Giáo viên nhận xét: - Học sinh khác nhận xét bạn
- Đoạn 3, 4 gọi 1 học sinh đọc - Học sinh 2 đọc đoạn 3, 4
- Hỏi: Vì sao hai anh em đã trở nên giàu
có mà không thấy vui sớng?
- Hai anh em đã trở nên giàu có những không
cảm thấy vui sớng vì thiếu vắng bà vàng bạc
châu báu không thay đợc tình thơng ấm áp của

- Giáo viên nhận xét - Học sinh khác nhận xét bạn
- Gọi 1 học sinh đọc toàn bài - Học sinh 3 đọc toàn bài
Hỏi: Câu chuyện khuyến chúng ta điều gì? - Tình cảm là thứ của cải quý nhất
Giáo viên nhận xét ghi điểm cho học sinh
B - Bài mới:
1/ Giới thiệu bài:
- Yêu cầu học sinh quan sát trong SGK - Học sinh quan sát tranh
Hỏi bức tranh vẽ gì? - Bức tranh vẽ cây xoài và hai mẹ con bạn nhỏ.
- Giáo viên giới thiệu về quả xoài thật và
nói: Xoài là một loại hoa quả rất thơm và
ngon. Nhng mỗi cây xoài lại có đặc điểm
và ý nghĩa khác nhau. Chúng ta cũng học
bài Cây xoài của ông em để hiểu thêm
về điều này.
- Ghi tên bài lên bảng - 3 học sinh đọc lên bài
2/ Luyện đọc:

2.1/ Đọc mẫu:
- Giáo viên: Bài này các em cần đọc với
giọng tả và kể nhẹ nhàng, chậm tình cảm.
- Các em theo dõi cô đọc bài
- Giáo viên đọc mẫu 1 lần
- Theo dõi giáo viên đọc bài
2.2/ Giáo viên hớng dẫn học sinh luyện
đọc, kết hợp giải nghĩa từ
a/ Đọc từng câu:
- Mỗi em đọc một câu, bạn bào đọc đầu
tiên phải đọc cả tên bài.
- Học sinh tiếp nối nhau đọc từng câu đến hết
bài
- Hỏi: Trong khi đọc bài ai phát hiện đợc
bạn nào còn đọc sai ở những từ nào (Hay
bạn nào còn khó phát âm ở những từ nào) - Lẫm chẫm, nở trắng cành, lúc lỉu, xoài, thơm
dịa dàng, đậm đà, đẹp, trảy, xôi nếp hơng.
18
- Giáo viên ghi những từ khó lên bảng
- Giáo viên đọc mẫu những từ khó rồi gọi 1
số em luyện đọc. - Học sinh yếu luyện phát âm: Cá nhân
lớp đọc nhẫm - đọc đồng thanh.
- Qua phần luyện đọc từng cầu các em đã
đọc và phát âm từ khó rất tốt. Bây giờ ta
chuyển sang phần luyện đọc đoạn.
b/ Đọc từng đoạn trớc lớp:
- Bài này đợc chia làm 3 đoạn:
- Đoạn 1 từ đầu đến bay lên bàn thờ ông
- Đoạn 2 từ xoài thanh cả đến màu sắc đẹp,
quả lại to.

- Đoạn 3 là phần còn lại
+ Giáo viên giới thiệu các câu cần luyện đọc
(đã chép sẵn trên bảng phụ) yêu cầu học sinh
tìm cách đọc.
- Tìm cách đọc và luyện đọc các câu:
Mùa xoài nào / mẹ em cũng chọn
những quả chín vàng / và to nhất bày
lên bàn thờ ông //
- Ăn quả xoài cát chín trảy từ cây quả
ông em trồng, kẽm với xôi nếp h ơng /
thì đối với em / không thứ quà gì ngon
bằng //
- Nhấn giọng ở các từ đợc gạch chân và
từ: Lẫm chẫm nở trắng cành, quả to, đu
đa, càng nhớ ông, dịu dàng, đậm đà, đẹp
to.
Bây giờ các em hãy chú ý vào bài theo dõi
bạn đọc.
3 học sinh tiếp nối nhau đọc 3 đoạn.
Học sinh cả lớp nghe theo dõi để nhận
xét cách đọc của bạn.
Gọi học sinh đọc các từ chú giải trong SGK - Học sinh đọc: Lẫm chẫm: Dáng trẻ b-
ớc đi cha vững.
+ Đu đa: Đa qua đa lại nhẹ nhàng
+ Đậm đà: Có vị ngọt đậm
+ Trảy: Bái
Giải nghĩa thêm:
+ Xoài cát: Tên một loại xoài rất thơn non,
ngọt.
+ Xôi nếp hơng: Xôi nấu từ 1 loại gạo rất

thơm.
c/ Đọc từng đoạn trong nhóm:
Mỗi nhóm 3 học sinh yêu cầu các em theo
dõi bạn đọc rồi nhận xét
- Giáo viên theo dõi các nhóm đọc.
Học sinh luyện đọc theo nhóm 3 ngời
trong nhóm nhận xét lẫn nhau (Mỗi em
đọc 1 đoạn luân phiên để em nào cũng
đợc đọc cả 3 đoạn)
d/ Thi đọc giữa các nhóm cho các nhóm thi
đọc đồng thanh đọc cá nhân. Các nhóm cử cá nhân thi đọc cá nhân.
19
Các nhóm thi đọc tiếp nối, đọc đồng
thanh đoạn 2 và đoạn 3.
- Lớp nhận xét - bình chọn bạn đọc
đúng, đọc hay nhất
Qua 3 bạn và 3 nhóm thi đọc cô thấy nhóm
nào cũng đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ hơi đúng.
Cô ghi mỗi cá nhân trong nhóm một bông
hoa điểm mời
e/ Cả lớp đọc đồng thanh Lớp đọc đồng thanh cả bài
Qua phần luyện đọc cô thấy lớp ta bạn nào
cũng đọc rất tốt. Biết ngắt nghỉ đúng chỗ.
Để biết loại xoài này có đặc điểm gì tình
cảm thơng yêu, lòng biết ơn của hai mẹ
con bạn nhỏ đối với ngời ông đã mất nh
thế nào ta chuyển sang phần tìm hiểu bài.
3/ Hớng dẫn tìm hiểu bài
- Gọi học sinh đọc đoạn 1 1 học sinh đọc
Hỏi: Cây xoài ông trồng thuộc loại xoài gì? - Xoài cát

H: Những từ ngữ, hình ảnh nào cho thấy cây
xoài cất rất đẹp?
- Hoa nở trắng cành, từng chùm quả to
đu đa theo gió
Gọi 1 học sinh đọc thành tiếng đoạn 2 - Học sinh đọc đoạn 2
H: Quả xoài cát chín có mùi vị, màu sắc nh
thế nào?
- Học sinh đọc thầm đoạn 1
- Có mùi thơm dịu dàng, vị ngọt đậm đà,
màu sắc vàng đẹp
H: Tại sao mùa xoài nào mẹ cũng chọn
những quả xoài ngon nhất bày lên bàn thơ
ông?
- Để tởng nhớ, biết ơn ông đã trồng cây
cho con cháu có quả ăn.
Hỏi: Vì sao nhìn cây xoài bạn nhỏ lại càng
nhớ ông?
- Vì ông đã mất
- Gọi học sinh đọc đoạn 3 - Học sinh đọc đoạn 3
H: Tại sao bạn nhỏ cho rằng quả xoài cát nhà
mình là thứ quà ngon nhất? - Vì xoài cát rất thơm ngon bạn đã ăn từ
nhỏ, cây xoài lại gắn với kỷ niệm về ng-
ời ông đã mất
4/ Luyện đọc lại:
Giáo viên hớng dẫn học sinh thì đọc lại từng
đoạn, cả bài
- Học sinh thi đọc cá nhân
- Lớp nhận xét
- Giáo viên nhận xét ghi điểm
Giải nghĩa thêm:

+ Xoài cát: Tên một loại xoài rất thơn non,
ngọt.
+ Xôi nếp hơng: Xôi nấu từ 1 loại gạo rất
thơm.
c/ Đọc từng đoạn trong nhóm:
Mỗi nhóm 3 học sinh yêu cầu các em theo Học sinh luyện đọc theo nhóm 3 ngời
20
dõi bạn đọc rồi nhận xét
- Giáo viên theo dõi các nhóm đọc.
trong nhóm nhận xét lẫn nhau (Mỗi em
đọc 1 đoạn luân phiên để em nào cũng
đợc đọc cả 3 đoạn)
5/ Củng cố dặn dò
H: Bài văn nói lên điều gì? Tình cảm thơng nhớ của hai mẹ con đối
với ngời ông đã mất
H: Qua bài văn này con học tập đợc điều gì? Phải luôn nhớ và biết ơn những ngời đã
mang lại cho mình những điều tốt lành.
+ Học sinh làm vào phiếu bài tập. Giáo viên thu chấm - chữa bài.
Nhận xét tiết học.
Qua tiết học cô thấy các em học bài rất tốt. Đa số các em chú ý và có ý thức xây dựng bài.
Dặn dò:
- Về nhà các em đọc lại bài này
- Và chuẩn bị bài sau: Đi chợ
Phần kết luận
1/ Điểm lại những nội dung chính của đề tài:
Trên đây trong 2 chơng của Luận văn chúng tôi đã nêu những cơ sở lý luận và thực
tiễn của đề tài. Chúng tôi đã đề xuất một số biện pháp nhằm rèn luyện kỹ năng đọc cho học
sinh lớp 2 và đã tổ chức dạy thực nghiệm để bớc đầu đánh giá tính khả thi của những biện
pháp đó. Đặc biệt là qua một thời gian đi sâu tìm hiểu những khó khăn sai sót trong việc
dạy tập đọc ở lớp 2 chơng trình mới. Tôi thấy rằng: Là ngời giáo viên phải luôn luôn trau dồi

kinh nghiệm để nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu của ngời học trong thời kỳ
đổi mới. Mỗi ngời giáo viên chỉ là ngời hớng dẫn học sinh tự hoạt động phát hiện và chiếm
lĩnh tri thức mới, hình thành cho mỗi cá nhân học sinh. Vì vậy giáo viên phải nghiên cứu kỹ
bài dạy, xác định rõ các kỹ năng trọng tâm của mỗi bài học, mục tiêu cần đạt của mỗi bài tập
đọc.
- Rèn kỹ năng đọc cho học sinh phải biết kết hợp với nhiều hình thức tổ chức dạy học.
- Quá trình dạy học theo phơng pháp mới sẽ huy động tối đa, tổng hoà các phơng
pháp dạy học đã có đề hớng đến tích cực hoá các hoạt động của học sinh trong việc học tập đọc.
- Sử dụng các phơng tiện dạy học khác nhau ở trờng ở lớp đúng lúc để học sinh đọc
đúng, đọc hiểu nội dung.
- Sử dụng các hình thức tổ chức lớp học, cá nhân theo nhóm, theo lớp.
Giáo viên này chỉ đóng vai trò cố vấn, hớng dẫn cho học sinh thực hiện rồi khuyến
khích hoạt động trao đổi qua lại, trực tiếp giữa học sinh và vật liệu tập nh hiểu để gạch nhịp
lên bảng phụ, trên phiếu bài tập, hiểu để điền đúng vào phiếu bài tập trắc nghiệm, hiểu để đọc đúng,
đọc nhanh, đọc ngắt giọng đúng.
Bằng nhiều hình thức tổ chức trên thì sẽ đạt đợc mục tiêu mà mình mong muốn. Đáp
ứng nhu cầu rèn luyện kỹ năng đọc - nghe - nói - viết. Từ đó dễ dàng nhận biết và tháo gỡ đ-
ợc những băn khoăn trong dạy học.
Lu ý:
- Khi dạy tập đọc chúng ta cần hớng cho các em những kỹ năng, những hiểu biết gần
gũi nhất trong kinh nghiệm trong vốn sống của các em. Từ đó nâng dần lên kỹ năng giao
tiếp hình thành nhân cách con ngời mới.
21
- Rèn luyện cho học sinh khả năng đọc thể hiện bằng giọng điệu của riêng mình, làm
sao cho ngời nghe hiểu đợc ý văn bản đợc đọc.
- Thờng xuyên rèn kỹ năng đọc đúng để tránh đợc sự phát âm sai theo vùng miền.
- Việc áp dụng phơng pháp mới để dạy 4 kỹ năng (nghe - nói - đọc - viết) nhằm đáp
ứng đợc nhu cầu nhận thức của thế hệ trẻ ngày này đòi hỏi phải có những nét đổi mới t duy,
nên mỗi giáo viên chúng ta phải đổi mới cách dạy là một điều tất yếu.
Kết quả thực nghiệm ban đầu cho thấy những biện pháp chúng tôi đề xuất đã có tính khả thi.

Tuy nhiên ở quy mô nhỏ hẹp (ở đơn vị trờng miền núi) nếu đợc phổ biến trên diện rộng hiệu quả đạt đ-
ợc nh mong muốn. Đây chính là dấu hiệu phát triển tốt của việc dạy tập đọc nói riêng. Tiếng việt nói
chung và môn học này cũng chính là bàn đạp mạnh mẽ cho việc học các môn học khác. Đáp ứng đợc
nguyện vọng và nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục nớc nhà.
2/ Đề xuất:
- Giáo viên phải luôn học hỏi, có các lớp học để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ.
- Các cấp quản lý tổ chức cho các lớp chuyên đề bồi dỡng giáo viên nên cho giáo viên
một khoảng tự do không tập khuôn máy móc.
- Luôn tổ chức các cuộc nói chuyện chuyên đề khi có một phát hiện về cách dạy hay
hơn, sáng tạo hơn của một thành viên nào đó.
- Tăng cờng khuyến khích các sáng kiến kinh nghiệm cấp trờng, huyện triển khai vào
thực tế dạy học.
- Luôn chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng là hàng đầu chứ không đợc áp đặt kiến
thức lên trớc từ đó nắm đợc các kỹ năng thì dễ dàng đi đến kiến thức. Hiểu và cảm thụ đợc
cái mà các em cha có, cái mà các em cần tìm tòi để thực hành trong ứng xử, giao tiếp ngoài
xã hội.
+ Sau một thời gian suy nghĩa miệt mài tìm hiểu đến hôm nay chúng tôi đã hoàn
thành đề tài mang tên rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2. Để hoàn thành đề tài này tôi có
nhiều cố gắng song do trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, thời giàn còn hạn
hẹp, cho nên chắc chắn trong không khổ của đề tài này không tránh khỏi đợc những sai sót
tôi rất mong nhận đợc sự góp ý và xây dựng của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp để đề
tài đợc hoàn thiện và vận dụng vào thực tế dạy - học.
22

×