Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

tóm tắt luận án đặc điểm sinh học của cá ngát phân bố trên tuyến sông hậu, việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
 



BÁO CÁO TÓM TẮT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ



ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA
CÁ NGÁT (Plotosus canius Hamilton, 1822)
PHÂN BỐ TRÊN TUYẾN SÔNG HẬU, VIỆT NAM

Chuyên ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Mã số: 62.62.03.01



NGUYỄN BẠCH LOAN

Cần Thơ, 2012
1

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
TÓM LƯỢC 4
SUMMARY 5
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU - TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI……………7
1.1 Tính cấp thiết của đề tài …………………………………… 7


1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu…………………………… 7
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu ………………………………… 7
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………… 8
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài …………………… 9
1.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 10
1.4.1. Thời gian nghiên cứu ……………………………… 10
1.4.2. Địa điểm nghiên cứu 10
1.5. Những đóng góp của luận án 10
1.6. Cơ sở lý luận và giả thuyết khoa học 11
Chương II: TỔNG QUAN 12
2.1. Hình thái phân loại 12
2.2 Phân bố 12
2.3. Đặc điểm hình thái giải phẫu các cơ quan tiêu hóa của cá 12
2.4. Đặc điểm dinh dưỡng 13
2.4.1. Xác định tính ăn của cá 13
2.4.1.1. Phương pháp số lượng 13
2.4.1.2. Phương pháp khối lượng 13
2.4.1.3. Phương pháp trọng lượng 13
2.4.2. Tính ăn của cá ngát 14
2.5. Đặc điểm sinh trưởng 14
2.6. Đặc điểm sinh sản 14
2

2.7. Sự biến đổi các chỉ tiêu sinh hóa trong quá trình phát triển tuyến
sinh dục cá 15
Chương III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
3.1. Đối tượng nghiên cứu 17
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 17
3.3. Phương pháp thu và bảo quản mẫu 17
3.4. Phương pháp phân tích mẫu 18

3.4.1. Hình thái cấu tạo và mô học 18
3.4.2. Đặc điểm dinh dưỡng 18
3.4.3. Đặc điểm sinh trưởng 18
3.4.4. Đặc điểm sinh học sinh sản 19
3.4.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa 20
3.4.6. Đặc điểm phân bố 20
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 20
Chương IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 22
4.1. Đặc điểm hình thái 22
4.1.1. Hình dạng và các cơ quan bên ngoài cơ thể 22
4.1.2. Hình thái cấu tạo các cơ quan bên trong cơ thể 23
4.1.2.1. Hệ tiêu hóa 23
4.1.2.2. Hệ hô hấp 27
4.1.2.3. Hệ tuần hoàn 29
4.1.2.4. Hệ tiết niệu 31
4.1.2.5. Hệ sinh dục 31
4.2. Đặc điểm dinh dưỡng 33
4.2.1. Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá 34
4.2.2. Phổ dinh dưỡng của cá ngát 34
4.2.2.1. Tần suất xuất hiện các loại thức ăn 34
3

4.2.2.2. Phổ dinh dưỡng của cá ngát 35
4.3. Đặc điểm sinh trưởng 35
4.3.1. Tương quan giữa chiều dài và khối lượng cá ngát 35
4.3.2. Xác định các tham số tăng trưởng của cá (K, L∞, t0) 36
4.3.3. Quan hệ giữa tuổi và chiều dài thân cá 37
4.4. Đặc điểm sinh học sinh sản cá ngát 38
4.4.1. Phân biệt đực cái 38
4.4.2. Đường kính trứng 38

4.4.3. Sức sinh sản 39
4.4.4. Độ béo Fulton và Clark 40
4.4.5. Hệ số thành thục của cá (GSI) 41
4.4.6. Mùa vụ sinh sản 41
4.5. Biến động một số chỉ tiêu sinh hóa ở một số cơ quan trong quá
trình phát triển của tuyến sinh dục cá ngát 42
4.5.1. Độ ẩm 42
4.5.2. Hàm lượng tro 43
4.5.3. Hàm lượng lipid và acid béo 43
4.5.4. Hàm lượng protein 44
4.5.5. Hàm lượng vitellogenin trong huyết tương cá ngát 45
4.6. Đặc điểm phân bố 45
4.6.1. Phân bố theo thời gian 45
4.6.2. Phân bố ở các điểm trên sông Hậu 46
Chương V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Đề xuất 50
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 51
51

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Bạch Loan, Nguyễn Văn Thảo và Truơng Quốc Phú
(2010), Đặc điểm hình thái giải phẫu của cá Ngát (Plotosus
canius Hamilton, 1822). Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, chuyên đề Thủy sản, Volum:14-2010. Trang 233-
242.
2. Nguyễn Bạch Loan, Trần Thị Diễm Trinh, Nguyễn Văn Thảo và

Vũ Ngọc Út (2010), Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá
Ngát (Plotosus canius Hamilton, 1822). Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, Volum:15-2010. Trang 198-206.

50

có tập tính sống đáy; chúng tập trung nhiều phía bờ sông lở, ở những
chỗ sông sâu và có gốc cây hoặc đất đá làm chỗ ẩn nấp.
5.2. Đề xuất
Tiếp tục nghiên cứu về vai trò của cơ quan dendrictic và khả năng
điều hòa áp suất thẩm thấu của cá ngát (Plotosus canius).
Nghiên cứu tiếp về ngưỡng oxy và (các) cơ quan hô hấp khí trời của
cá ngát làm cơ sở cho việc chọn mật độ nuôi phù hợp.

4

TÓM LƯỢC
Nghiên cứu đặc điểm sinh học của cá ngát (Plotosus canius) phân bố
trên sông Hậu được tiến hành từ tháng 04/2007 đến 05/2011. Mẫu cá
định kỳ mỗi tháng một lần trên 5 điểm thuộc tuyến sông Hậu; mẫu
được giữ sống và bảo quản lạnh, chuyển về phân tích tại phòng thí
nghiệm của Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Kết quả cho
thấy cá ngát phân bố trên tất cả 5 điểm thu mẫu từ vùng nước ngọt
như Long Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ xuống vùng lợ mặn cửa sông
như Đại Ngãi, Trần Đề. P. canius là loài cá ăn động vật ở đáy; phổ
thức ăn của chúng gồm có: cá, giáp xác, thân mềm và giun. Trong đó,
giáp xác chiếm tỉ lệ cao nhất (95,39%). Tương quan giữa chiều dài
(Lt) và khối lượng thân cá có dạng phương trình W = 0,0082L
2,8695


với R
2
= 0,9829 (Lt=3,3-97,5 cm). Cá ngát thu trên sông Hậu có thể
đạt chiều dài lý thuyết cực đại L

= 141,2 cm, hệ số tăng trưởng
K=0,49 và chiều dài t
0
= -0,27. Ở đồng bằng sông Cửu Long, mùa vụ
sinh sản tập trung của cá ngát là từ tháng 4, tháng 5 đến tháng 8,
tháng 9 hàng năm. Sức sinh sản của cá ngát thấp (1.301±380-
2.250±855 trứng/Kg cá cái), đường kính trứng cá ở giai đoạn IV bằng
6,02±0,6 mm. Ẩm độ và hàm lượng chất khoáng trong cơ, gan và
tuyến sinh dục cá ngát có xu hướng giảm khi tuyến sinh dục của cá
ngát phát triển từ từ giai đoạn I sang giai đoạn IV. Hàm lượng lipid
trong cơ và gan cá giảm từ giai đoạn II sang giai đoạn IV. Ngược lại,
hàm lượng lipid trong tuyến sinh dục tăng lên. Tương tự, hàm lượng
protein trong cơ và gan cá cùng giảm từ giai đoạn I đến giai đoạn IV,
trong khi ở tuyến sinh dục thì hàm lượng protein tăng từ I qua giai
đoạn IV. Hàm lượng vitellogenin trong huyết tương cá ngát cái tăng
lên khi buồng trứng chuyển sang giai đoạn II, III và IV. Khi buồng
trứng phát triển đến giai đoạn VI, hàm lượng vitellogenin trong máu
cá lại giảm xuống gần bằng ở giai đoạn I.
Từ khóa: Sự phân bố, hình thái, đặc điểm dinh dưỡng và sinh sản,
vitellogenin,cá ngát, Plotosus canius.
5

SUMMARY
The study on biological characteristics of grey eel catfish (Plotosus
canius) distributed in Hau River was carried out from April, 2007 to

May, 2011. Specimens were collected monthly at five sampling sites
belong to Hau Rive. The samples were kept alive or in cold
conditions, and transported to the lab of College of Aquaculture and
Fisheries, Cantho University. The results revealed Plotosus canius
are appeared at all five sampling sites belong to Hau River in
freshwater areas like Long Xuyen, Thot Not, Can Tho, and in
brackish water areas as Dai Ngai, Tran Đe. The large specimens were
collected in the main Hau river, while the small fish (fry) were caught
from the main, the first and the second branches of the river.
Dendrictic organ is behind anus that only seen on the species
belonging to the family Plotosidae. The first gill arch is covered by
22 to 25 long and sharp rakers. P.canius is zoobenthos eating fish.
Their food spectrum were fishes, crustaceans, mollusks and worms.
Crustaceans (95.39%) was the most component observed in the fish
alimentary tract. The relationship between total length (L) and total
weight (W) is expressed by equation W = 0,0082L
2,8695
with R
2
=
0,9829 (total length of fish samples ranging from 3,3-97,5 cm). The
maximum theory length of fish collected on Hau River are L

=141.2
cm with the parameter K=0.49 and t
0
= -0.27 respectively. In the
Mekong Delta, spawnning season of P. canius is from April, May to
August, September. Their fecundity is low (1,301±380-2,250±855
eggs/Kg). Diameter of egg of gonad development of female at stage

IV is 6.02±0.6 mm. Moisture and ash contents in muscle, liver, nad
gonad reduced from fish with gonad development at stage I to IV.
Lipid and protein content in muscle and live of fish reduced from
stage II down to stage IV. However, lipid content in gonad increased
from 10% to 10.2%. The vitellogenin content in blood plasma of
female at stage I of ovary development was lowest (1.60±0.63
49

CHUƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
- Plotosus canius là loài cá ăn động vật. Thành phần thức ăn của cá
ngát con gồm có: giáp xác (kích thước nhỏ), giun, thân mềm, thực vật
phiêu sinh, mùn bã hữu cơ và động vật phiêu sinh (Copepoda luôn có
tỉ lệ cao nhất). Phổ dinh dưỡng của cá ngát lớn gồm có: giáp xác,
thân mềm, giun và cá. Trong đó, giáp xác luôn chiếm tỉ lệ cao nhất
(95,39%).
- Tương quan chiều dài và khối lượng thân cá có dạng phương trình
W= 0,0082L
2,8695
, R
2
=0,9829 (Lt= 4,6– 97,5 cm). Cá ngát có thể đạt
chiều dài lý thuyết tối đa L

=141,2 cm; với hệ số tăng trưởng K=0,49
và t
0
=- 0,33. Cá 1 tuổi có thể đạt chiều lý thuyết Lt=65,4 cm.
- Độ béo cá ngát cao nhất ở tháng 3 và tháng 8 (0,71% và 0,70%). Hệ

số điều kiện CF cũng biến động tương tự qua các tháng. Hệ số thành
thục (GSI) của cá ngát tăng cao vào tháng 4 (12,74 %) và tháng 6
(12,56 %); giảm xuống thấp I ở tháng 9 (0,15%). Cá ngát có sức sinh
sản thấp (1.411±467–2.250±855 trứng/kg cá cái). Đường kính trứng
giai đoạn IV ở khoảng 6,02±0,6 mm. Ở đồng bằng sông Cửu Long,
mùa vụ sinh sản của cá ngát ngoài tự nhiên kéo dài từ tháng 4-5 đến
tháng 7-8 hàng năm.
- Trong quá trình phát triển của tuyến sinh dục, hàm lượng tro, lipid,
protein trong cơ và gan cá ngát cao nhất ở giai đoạn I và II, thấp nhất
giai đoạn IV. Ngược lại, hàm lược tro, lipid và protein trong tuyến
sinh dục tăng cao nhất ở giai đoạn IV. Hàm lượng vitellogenin trong
huyết tương cá ngát cũng biến động trong quá trình phát triển của
buồng trứng, thấp nhất ở giai đoạn I (1,60±0,629µgALP/mg protein)
và cao nhất ở giai đoạn IV (4, 36±1, 14µgALP/mg protein).
- Cá ngát hiện diện ở cả 5 điểm trên tuyến sông Hậu. Chúng phân bố
nhiều ở vùng nước lợ và cửa sông (Đại Ngãi-Trần Đề). Loài cá này
45

Ngoài ra, cá ngát còn ngược dòng sông vào sâu trong nội địa đến
vùng biên giới giữa Việt Nam và Campuchia (Hình 4.44).
Ở mỗi điểm thu mẫu, sẽ có những nơi có nhiều cá con xuất hiện và
địa hình của thủy vực là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến sự phân bố của cá ngát con. Tại Long xuyên thường thu
được cá ngát con phía bên lở của cồn Mỹ Hòa Hưng vì nơi đây có
nhiều đất (bị lở từ trên bờ xuống đáy thủy vực), rể cây làm nơi trú ẩn
tốt cho cá con. Tương tự, tại Thốt Nốt có khu vực cồn Tân Lộc. Ở
Cần Thơ, bến phà là khu vực có độ sâu thích hợp và có nhiều nơi ẩn
nấp tốt (rể cây, đất và đá), nhất là phía bờ lở (Hình 4.88) thuộc bến
phía Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) thuận lợi sự phân bố nên thường
cào được nhiều cá ngát con hơn những khu vực khác. Theo ngư dân

vùng Long Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ, cá ngát chỉ sống ở sông chính
và nhánh sông lớn mà không vào trong kênh, mương, đồng ruộng.
Thông tin này phù hợp với kết quả nghiên cứu của đề tài. Trong quá
trình thu mẫu đề tài chỉ thu được mẫu cá ngát lớn trên dòng chính và
nhánh sông cấp 1; có thể thu được mẫu cá ngát con ở dòng sông
chính, nhánh sông cấp 1 và cấp 2. Đặc biệt là không thu được mẫu cá
ngát con và cá lớn ở những nhánh sông nhỏ cấp 3, kênh mương và
đồng ruộng ngay cả vào mùa lũ, thời gian mà tất cả các cánh đồng
vùng ở các tỉnh vùng thượng nguồn của sông Tiền, sông Hậu như
tỉnh Đồng Tháp, An Giang ngập sâu dưới mặt nước nên lúc này,
nhiều giống loài cá cùng lên đồng kiếm ăn như cá linh (Cirrhinus
julieni), cá mè vinh (Barbonymus gonionotus), cá kết (K.bleekeri), cá
leo (Wallago attu),….
6

µgALP/mg protein). It was higher in the second, the third and fourth
stage (II (2.05±0.68, 3.44±0.9 and 4.35±1.14 µgALP/mg protein).
Remarkable decrease at stage 6
th
(1, 78±0, 18 µgALP/mg protein).
Key word: Distribution, morphology, nutrition and breeding
characteristics, vitellogenin, grey eel catfish, Plotosus canius.
7

CHUƠNG I
MỞ ĐẦU - TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cá tra, cá basa, tôm sú là những đối tượng nuôi chủ lực của vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, biến động về giá cả, tình hình
dịch bệnh trong những năm gần đây là thách thức không nhỏ cho

ngành thủy sản. Vì thế, chủ trương đa dạng hóa đối tượng nuôi đã
được đề ra nhằm giảm thấp rủi ro cho người nuôi và phát triển những
loài cá bản địa, phẩm chất thịt ngon, tạo sự đặc trưng cho vùng.
Cá ngát (Plotosus canius) là loài cá kinh tế quan trọng ở vùng ven
biển, thuộc danh sách đỏ nên cần được bảo vệ ở nhiều nước. Vì vậy,
từ 1945 đến nay đã có 68 nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan
đến cá ngát được công bố. Thế nhưng, hầu hết các nghiên cứu tập
trung vào phân loại, mô tả và phân bố. Những thông tin về tập tính
dinh dưỡng, đặc điểm sinh trưởng và sinh học sinh sản của cá ngát
chưa nhiều. Trong khi đó, nghề nuôi đòi hỏi hiểu biết về sinh học của
đối tượng nuôi càng nhiều bao nhiêu thì việc nuôi dưỡng càng có
hiệu quả bấy nhiêu (Pravdin, 1973). Phát xuất từ thực tế nêu trên,
luận án: “Đặc điểm sinh học của cá ngát (Plotosus canius
Hamilton, 1822) phân bố trên tuyến sông Hậu, Việt Nam” được
thực hiện.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chính: Tìm hiểu về những đặc điểm sinh học cơ bản của
cá ngát ngoài tự nhiên làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo sản
xuất giống, đồng thời cung cấp thêm thông tin khoa học giúp người
dân nâng cao hiệu quả nuôi thông qua việc chọn công thức thức ăn
phù hợp với đối tượng nuôi.

44

ngọt (Long Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ), hầu hết mẫu cá ngát con thu
được vào ban ngày và ở khu vực xa bờ. Tại Đại Ngãi và Trần Đề,
trong khoảng thời gian từ sáng sớm đến chiều (6h00-18h30) những
mẫu cá ngát con đề tài thu được chủ yếu ở khu vực giữa sông (hoặc
gần giữa song) bằng hai loại ngư cụ là cào đáy và đáy trụ. Ngược lại,

lúc đêm xuống thì phần lớn mẫu cá ngát con thu mua được ở vùng
rừng ngập ven bờ biển từ loại hình khai thác là đăng mé (đăng
quầng). Kết quả trên phù hợp với nhận định của ngư dân trong vùng:
ban ngày cá ngát con phân bố ở giữa dòng sông nhưng lúc đêm
xuống cá con sẽ vào bờ kiếm ăn.
4.6.2. Phân bố ở các điểm trên sông Hậu
Cá ngát P. canius hiện diện ở cả 5 điểm thu mẫu trên suốt tuyến sông
Hậu, từ vùng nước ngọt trong nội địa (độ mặn > 0,5‰) như Long
Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ (Ninh Kiều) xuống đến vùng nước lợ
như: Đại Ngãi, cửa sông như Trần Đề (độ mặn 0,5-8‰).



Hình 4.44: Mức độ phân bố của cá ngát ở các điểm thu mẫu
Chú thích: Ít gặp: *; thường gặp:**; gặp nhiều:***; rất nhiều: ****
43

buồng trứng cá ngát ở giai đoạn I, vitellogenin trong máu cá có giá trị
thấp nhất (1,64±0,629 µgALP/mg protein) (Hình 4.43).
4.35
3.44
2.05
1.64
0.00
2.00
4.00
6.00
I II III IV
Giai đoạn
H à m luợ n g V it e llo g en in


Hình 4.43: Hàm lượng vitellogenin ở các giai đoạn phát triển của buồng trứng
cá ngát
Lúc buồng trứng phát triển đến giai đoạn III, hàm lượng vitellogenin
bắt đầu tăng lên rõ rệt (3,44±0,899 µgALP/mg protein) và khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với giai đoạn I và II (p<0,05). Buồng trứng
chuyển sang giai đoạn IV thì hàm lượng VTG tiếp tục tăng lên và đạt
giá trị 4,36 ±1, 14 µgALP/mg protein .
4.6. Đặc điểm phân bố
4.6.1. Phân bố theo thời gian
Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy hầu hết những mẫu cá ngát
con cỡ rất nhỏ (Wt≥ 0,3) mà đề tài đã thu được vào mùa mưa lũ
trong khoảng thời gian từ tháng 4, 5 đến tháng 7, 8. Theo ngư dân ở
Long Xuyên, Thốt Nốt, Cần Thơ, cá ngát con xuất hiện trên sông
Hậu theo mùa, thường tập trung cao vào mùa mưa lũ, từ tháng 5
(13,69 %) đến tháng 9 (13,69% ) hàng năm. Tuy nhiên, ý kiến của tất
cả ngư dân ở Đại Ngãi và Trần Đề được phỏng vấn (100 %) đều
thống nhất là ở vùng này có thể thu được cá ngát con quanh năm cá
ngát con và thường xuất hiện nhiều ở vùng nước lợ, cửa sông từ
tháng 4 (13,73 %) đến tháng 8 (19,61%). Đề tài cũng thu được cá
ngát lớn trên sông Hậu quanh năm.
Sự phân bố theo thời gian giữa ngày và đêm của cá ngát con có sự
khác nhau giữa các điểm thu mẫu. Ở các điểm thu mẫu vùng nước
8

- Mục tiêu cụ thể: Thu thập thông tin về hình thái cấu tạo và mô
học các cơ quan trong cơ thể cá, đặc điểm dinh dưỡng qua các giai
đoạn phát triển cùng với những đặc tính sinh sản của cá ngát
(P.canius). Tìm hiểu những biến động về các chỉ tiêu sinh lý và sinh
hóa như hàm lượng vitellogenin trong máu và protein, lipid của gan,

cơ qua các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục nhằm làm cơ sở
cho các nghiên cứu tiếp theo về sinh sản nhân tạo, ương giống và
nuôi thịt cá ngát góp phần làm đa dạng đối tượng nuôi cho vùng
ĐBSCL.
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm hình thái các cơ quan bên ngoài và bên
trong cơ thể cá ngát.
Nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng của cá ngát con và cá ngát lớn
ở hai vùng sinh thái nuớc ngọt và nuớc lợ-mặn, ở hai mùa mưa
và nắng.
- Khảo sát các đặc điểm sinh trưởng như tương quan giữa chiều
dài – khối lượng thân cá; tương quan giữa tuổi – chiều dài thân
cá ngát.
- Nghiên cứu các đặc điểm sinh học sinh sản như quá trình phát
triển của tuyến sinh dục, biến động của độ béo Fulton, Clark và
nhân tố điều kiện qua các tháng, hệ số thành thục, sức sinh sản
tuyệt đối, tương đối, đường kính trứng và mùa vụ sinh sản của cá
ngoài tự nhiên.
- Tìm hiểu sự biến động của một số chỉ tiêu sinh hóa (độ ẩm, hàm
luợng lipid, protein, khoáng trong cơ, gan và tuyến sinh dục.
Khảo sát sự biến động của hàm lượng vitellogenin ở các giai
đoạn phát triển của tuyến sinh dục cá ngát.
- Nghiên cứu đặc điểm phân bố của cá ngát theo thời gian và
không gian trên tuyến sông Hậu.

9


1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các mẫu cá ngát dùng cho

nghiên khai thác từ các thủy vực tự nhiên thuộc tuyến sông Hậu với
kích cỡ Wt=0,3-3.330 g; Lt=3,3-97,5 cm.
Phạm vi nghiên cứu: của đề tài bao gồm đặc điểm hình thái
cấu tạo; dinh dưỡng, sinh trưởng, sự biến động của một số chỉ tiêu
sinh hóa qua các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục, mùa vụ sinh
sản và phân bố của cá ngát trên sông Hậu.
1.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
1.4.1. Thời gian nghiên cứu
- Quyết định công nhận Nghiên cứu sinh số 5231/QĐ-BGDĐT
ngày 20/9/2006 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thời gian đào tạo theo hệ không tập trung là 4 năm (12/2006
đến 12/2010), theo Quyết định giao đề tài và người hướng dẫn
Nghiên cứu sinh số 224/QĐ/ĐHCT-SĐH ngày 18 tháng 12 năm 2006
của Hiệu Trưởng Trường Đại học Cần Thơ. Thời gian nghiên cứu
của nghiên cứu sinh cho đến khi hoàn thành các nội dung nghiên cứu
theo đề cương của đề tài.
1.4.2. Địa điểm nghiên cứu
Mẫu dùng cho nghiên cứu đuợc thu ở 5 điểm trên tuyến sông
Hậu: Long Xuyên (Tỉnh An Giang), Thốt Nốt và Cần Thơ (Thành
phố Cần Thơ), Đại Ngãi và Trần Đề (Tỉnh Sóc Trăng).
Các mẫu được phân tích tại các phòng thí nghiệm Nguồn lợi,
Dinh duỡng, Sinh học và Bệnh Thủy sản thuộc Khoa Thủy sản,
Truờng Đại học Cần Thơ và Trung tâm Dịch vụ Phân tích thí nghiệm
thành phố Hồ Chí Minh.

42

Lipid
6.23
4

0.31
0
7.57
5.9
10
10.2
0
3
6
9
12
II III IV
Giai đoạn
%

gan
TSD
cv

84.73
85.15
83.97
73.13
63
62.84
55.68
50.64
60.54
63.32
0.00

20.00
40.00
60.00
80.00
100.00
I II III IV

Gan
TSD
Giai đoạn
%

Hình 4.41: Biến đổi hàm lượng lipid ở
các cơ quan qua các giai đoạn phát triển
của tuyến sinh dục cá ngát
Hình 4.42: Biến đổi hàm lượng protein ở
các cơ quan qua các giai đoạn phát triển
của tuyến sinh dục cá ngát
Tuy nhiên, sự biến đổi hàm lượng của nhóm acid béo này ở gan và
tuyến sinh dục lại không hoàn toàn giống nhau. Từ giai đoạn III sang
giai đoạn IV, hàm lượng của một số acid béo no giảm xuống; ngược
lại, hàm lượng của một số acid béo không no lại có xu hướng tăng
lên. Nhìn chung, hàm lượng của phần lớn các acid béo đạt mức cao
nhất ở tuyến sinh dục giai đoạn IV do những chất này từ các cơ quan
khác chuyển qua cho tế bào trứng phát triển (Henderson et al., 1984;
Wieand và Idler, 1985 trích bởi Gangaet et al., 2010). Hàm lượng
DHA ở cá ngát cái đã thành thục giảm hơn so với cá chưa thành thục
và DHA được chọn lọc tích lũy nhiều trong trứng cá cái. Sự biến
động trên phù hợp với nhận định của Dương Tuấn (1981), hàm lượng
lipid của tế bào sinh dục và cơ thể cũng thay đổi rất lớn trong quá

trình thành thục của tế bào sinh dục.
4.5.4. Hàm lượng protein
Trong quá trình phát triển của tuyến sinh dục cá ngát, hàm lượng
protein trong cơ và gan có xu hướng giảm (Hình 4.42). Biến động
của hàm lượng protein ở tuyến sinh dục ngược lại tăng từ giai đoạn
III sang giai đoạn IV.
4.5.5. Hàm lượng vitellogenin trong huyết tương cá ngát
Kết quả cho thấy hàm lượng vitellogenin (VTG) trong huyết tương cá
ngát thay đổi qua từng giai đoạn phát triển của buồng trứng. Khi
41

Ẩm độ
83.693
82.603
81.987
80.880
77.027
75.753
58.952
80.222
80.147
66.137
0.000
30.000
60.000
90.000
I II III IV
Giai đoạ n
%


Gan
TSD
Tro
6.596
6.520 6.514
6.194
5.378
6.022
6.049
5.510
4.847
4.997
0.000
2.000
4.000
6.000
8.000
I II III IV
%
Giai đoạn

gan
TSD
Hình 4.39: Biến động độ ẩm ở một số cơ
quan qua các giai đoạn phát triển của
tuyến sinh dục cá ngát
Hình 4.40: Biến động hàm lượng tro ở
một số cơ quan trong quá trình phát
triển của tuyến sinh dục cá ngát
Trong gan, hàm lượng tro tăng nhẹ từ giai đoạn I (6,022%) sang giai

đoạn II (6,049%). Tương tự, hàm lượng tro trong tuyến sinh dục cũng
giảm từ giai đoạn III sang giai đoạn IV nhưng sự khác biệt này không
đáng kể (4,997- 4,847%).
4.5.3. Hàm lượng lipid và acid béo
Chất béo ở một số cơ quan trong cơ thể cá ngát (P.canius) cũng có sự
biến đổi qua quá trình phát triển của tuyến sinh dục. Hình 4.41 cho
thấy hàm lượng lipid trong các cơ và gan cá ngát có xu hướng giảm
rõ qua các giai đoạn thành thục của tuyến sinh dục.
Hàm lượng các acid béo ở cơ, gan và tuyến sinh dục cá ngát cũng có
sự khác biệt qua các giai đoạn thành thục sinh dục. Hầu hết các acid
béo no trong cơ thể cá giảm rõ về hàm lượng khi tuyến sinh dục phát
triển từ giai đoạn II sang giai đoạn III và giảm xuống đáng kể lúc
chuyển từ giai đoạn III qua IV.

10

1.5. Những đóng góp của luận án
- Nghiên cứu đầu tiên về hình thái cấu tạo và mô học của các cơ quan
nội tạng của cá ngát (P.canius).
- Xác định giai đoạn chuyển tính ăn (Wt ≤ 1,96 g, Lt≤0,72 cm) và
thành phần thức ăn của cá ngát con gồm có 6 loại, trong đó động vật
phiêu sinh là thức ăn quan trọng nhất, đặc biệt là Copepoda.
- Kết quả khảo sát đặc điểm sinh trưởng cho thấy cá ngát tăng trưởng
tốt nhất ở năm thứ I, cá vẫn còn tăng trưởng tốt ở năm thứ II và III,
chiều dài tối đa mà cá ngát có thể đạt L=141,2 cm.
- Luận án đã đi sâu tìm hiểu sự biến động hàm lượng protein, lipid
tổng trong gan, cơ, tuyến sinh dục và hàm lượng của vitellogenin
trong máu cá ngát qua các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục.
- Cuối cùng, kết quả nghiên cứu đầu tiên về đặc điểm phân bố trên
tuyến sông Hậu theo mùa và theo ngày-đêm của cá ngát con ở vùng

sinh thái nước lợ sẽ cung cấp cơ sở cho việc bảo tồn và khai thác bền
vững nguồn lợi cá tự nhiên.
1.6. Cơ sở lý luận và giả thuyết khoa học
- Cá ngát (Plotosus canius) là loài cá da trơn thuộc họ Plotosidae, bộ
Siluriformes (Henry, 1932; Ferraris, 2007). Plotosus canius là loài cá
kinh tế quan trọng ở vùng ven biển, thuộc danh sách đỏ, cần được
bảo vệ ở nhiều nước (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương,
2006).
- Cá ngát (Plotosus canius Hamilton, 1822) là một trong những loài
cá bản xứ có giá trị thương phẩm cao (Trần Ngọc Hải và ctv, 2008).
Vì vậy, từ 1945 đến nay đã có 68 nghiên cứu trong và ngoài nước về
cá ngát đã được công bố. Thế nhưng, hầu hết các nghiên cứu tập
trung vào phân loại, mô tả và phân bố của cá ngát. Những thông tin
về tập tính dinh dưỡng, sinh trưởng và thành thục sinh dục của loài cá
này chưa nhiều. Trong khi đó, nghề nuôi đòi hỏi hiểu biết càng nhiều
về sinh học của chúng bao nhiêu thì việc nuôi dưỡng càng có hiệu
quả bấy nhiêu (Pravdin, 1973)
11

CHƯƠNG II
TỔNG QUAN
2.1. Hình thái phân loại
Cá ngát Plotosus canius Hamilton, 1822 thuộc bộ cá da trơn
(Siluriformes); họ cá ngát (Plotosidae); giống cá ngát (Plotosus
Lacépède, 1803). Thân cá thon dài, đầu dẹp bằng, phần sau thân dẹp
bên. Cá có hai vi lưng, vi lưng thứ I có gai độc, gốc vi lưng thứ II và
vi hậu môn dài, nối liền với vi đuôi nhỏ. Vi ngực cũng có gai độc.
Gai độc ở vi ngực và vi lưng thứ I rất nhọn, cạnh trước và sau có răng
cưa bén (Mai Đình Yên và ctv, 1992; Trương Thủ Khoa và Trần Thị
Thu Hương, 1993; Fish base, 2008).

2.2. Phân bố
Các loài thuộc họ cá ngát Plotosidae sống được ở cả ba môi trường
nước ngọt, nước lợ và mặn ở vùng nhiệt đới (Gomon, 1983; Ahmed,
1991; Mijkherjee, 2002). Cá ngát (P. canius) phân bố tự nhiên ở
vùng hạ lưu các con sông và vùng ven biển. Chúng cũng xuất hiện
nhiều ở tầng đáy các cửa sông, hồ, vịnh, đầm phá nước lợ, biển
nhưng cũng có thể sống ở vùng nước ngọt sâu trong nội địa (Ferraris,
1999; Fishbase, 2008; Fish wise, 2012). Ở lưu vực sông Mekong cá
ngát P. canius có tập tính sống ở tầng đáy, phân bố khá rộng từ các
thuỷ vực tự nhiên như sông, kênh lớn vùng nước ngọt thuộc hạ lưu
các con sông miền Nam, Việt Nam như sông Tiền, sông Hậu
(An Giang, Đồng Tháp) đến vùng nước lợ- mặn, cửa sông và biển
ven bờ thuộc tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng (Mai Đình Yên và ctv, 1992;
Nguyễn Bạch Loan, 2004; Fish base, 2008).
2.3. Đặc điểm hình thái giải phẫu các cơ quan tiêu hóa của cá
Từ lúc bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài, cá con của các loài cá đều phải
trải qua giai đoạn chuyển đổi tính ăn và cuối cùng là chuyển sang ăn
loại thức ăn ưa thích của loài. Ống tiêu hóa của cá trưởng thành gồm
có miệng, răng, lưỡi, lược mang, thực quản, dạ dày, manh tràng, ruột
40

11.11
55.56
27.78
5.56
14.29
16.67
25.00
58.33
22.22

27.78
50.00
7.69
15.38
76.92
5.56
5.56
88.89
5.00
95.00
11.11
22.22
22.22
44.44
10.00
40.00
25.00
25.00
23.08
69.23
7.69
53.85
30.77
15.38
88.89
11.11
54.55
31.82
4.55
9.09

0%
25%
50%
75%
100%
Các giai đoạn TSD (%)
1 3 5 7 9 11
Tháng
IV
III
II
I

Hình 4.38: Các giai đoạn thành thục của cá ngát ở các tháng
Kế quả này cũng phù hợp với nhận định của Nguyễn Văn Trọng và
Nguyễn Văn Hảo (1994 trích bởi Nguyễn Văn Kiểm, 2007) “mùa vụ
sinh sản của nhiều loài cá da trơn thuộc hệ thống sông Mekong trùng
vào mùa mưa lũ hàng năm”. Cá P. canius cái đẻ quanh năm, mùa
sinh sản tập trung từ tháng 2-8 hàng năm và đẻ rộ từ tháng 5-7
(Sinha, 1981 trích dẫn bởi Khan et al., 2002; Nguyễn Bạch Loan,
2004). Theo ngư dân, cá ngát sinh sản quanh năm trên sông Hậu và
thời gian cá ngát đẻ tập trung từ tháng 3, 4 đến tháng 7, 8 hàng năm.
Thông tin này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của đề tài.
4.5. Biến động một số chỉ tiêu sinh hóa ở một số cơ quan trong
quá trình phát triển của tuyến sinh dục cá ngát
4.5.1. Độ ẩm
Trong quá trình phát triển của tuyến sinh dục, sự biến động của độ
ẩm ở một số cơ quan khác nhau trong cơ thể cá (cơ, gan và tuyến
sinh dục) cũng có sự khác biệt qua các giai đoạn. Độ ẩm trong cơ,
gan và tuyến sinh dục cá ngát có xu hướng giảm từ giai đoạn I đến

giai đoạn IV (Hình 4.39).
4.5.2. Hàm lượng tro
Hàm lượng tro (chất khoáng) trong cơ, gan và tuyến sinh dục cũng
biến động trong quá trình phát triển của tuyến sinh dục cá ngát (Hình
4.40).giai đoạn IV.
A A
39

4.4.5. Hệ số thành thục của cá (GSI)
Kết quả hệ số thành thục (GSI) của các mẫu cá ngát thu được trên
tuyến sông Hậu có sự biến động lớn giữa các tháng trong năm (Hình
4.37). Hệ số này (GSI) tăng cao trong khoảng thời gian từ tháng 3
đến tháng 7 (10,11-10,54%) và đạt giá trị cao nhất ở tháng 4
(12,74%) và tháng 6 (12,56%).
4.4.6. Mùa vụ sinh sản
Độ béo (Fulton và Clark) của các mẫu cá ngát thu được trên sông
Hậu tăng cao ở tháng 3 (0,62 và 0,51 %) và 8 (0,74 và 0,70 %), đến
tháng 9 thì cả hai độ béo cùng bắt đầu giảm thấp đến tháng 01, 02
năm sau (Hình 4.37). Đây có thể là thời gian cá đang huy động vật
chất dinh dưỡng dự trữ trong cơ thể để tạo ra sản phẩm sinh dục
chuẩn bị cho mùa vụ sinh sản.

Hình 4.37: Biến động của hệ số thành thục và độ béo của cá ngát
Hệ số thành thục của cá (GSI) cũng tăng cao ở tháng 3,4 và tháng
6,7. Cá ngát con kích thước rất nhỏ (Wt=0,3 g) xuất hiện nhiều trên
tuyến sông Hậu từ tháng 4 đến tháng 8 (Hình 4.38). Điều đó cho thấy
trên sông Hậu, mùa vụ sinh sản tập trung của cá ngát có thể từ tháng
4 đến tháng 8 hàng năm.

12


và hậu môn. Hình dạng của miệng cá nói lên rất nhiều điều về tính ăn
của cá (Castro và Huber, 2003). Kích cỡ của miệng có liên quan đến
tập tính ăn mồi, nhất là khi miệng cá được xem xét cùng với kích
thước và cách bố trí của răng (Lagler et al., 1977). Hình dạng, kích
thước và số lượng lược mang trên cung mang sẽ phát triển theo
những hướng khác nhau để phù hợp tính ăn của từng loài cá
(Nikonxki, 1963; Nguyễn Hữu Phụng và Nguyễn Bạch Loan, 1999).
Hình dạng, kích thước và cấu tạo vách dạ dày của hầu hết các loài cá
có liên quan đến các loại thức ăn khác nhau và kích thước con mồi.
Chiều dài ruột của các loài cá thường tương ứng với lượng chất khó
tiêu được cá tiêu hóa (Smith, 1989). Các loài cá ăn thịt nói chung thì
có ruột thẳng và ngắn (Nikonxki, 1963; Mc Millan, 2007; Lagler et
al., 1977).
2.4. Đặc điểm dinh dưỡng
2.4.1. Xác định tính ăn của cá
a. Cách tốt nhất để xác định tính ăn của cá ngoài tự nhiên là khảo sát
thức ăn chứa trong ống tiêu hóa của cá. Nhiều phương pháp đã được
sử dụng, có thể gom thành ba phương pháp chung như sau:
2.4.1.1. Phương pháp số lượng: đếm tổng số các loại thức ăn hiện
diện trong ống tiêu hóa của cá. Phương pháp trên có thể biến đổi
thành bốn cách khác nhau là: Phương pháp tần suất xuất hiện;
phương pháp số lượng; phương pháp ưu thế và phương pháp đếm -
điểm.
2.4.1.2. Phương pháp khối lượng: có ba cách để đánh giá khối lượng
thức ăn chứa trong ruột cá là ước lượng (đánh giá) bằng mắt; đếm -
thể tích và thay thế.
2.4.1.3. Phương pháp trọng lượng: phương pháp này giống với
phương pháp thể tích, chỉ khác ở chỗ thay thể tích bằng khối lượng
khô của mẫu sẽ được xác định và tính ra phần trăm trên tổng khối

lượng thức ăn (Biswas, 1993).
13

b. Chỉ số RLG (Relative length of the gut) thường được sử dụng để
dự đoán tính ăn của cá. Giá trị RLG được tính theo Al-Hussainy
(1949, trích bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004) như sau:


2.4.2. Tính ăn của cá ngát
Cá ngát P. canius ăn tạp nghiêng về động vật, phổ thức ăn gồm có
động vật thân mềm, giáp xác và các loài cá nhỏ (Rainboth, 1996;
Sukapan et al., 2006). Theo Gomon (1983), cá ngát ăn động vật đáy,
giáp xác, cá, sinh vật tự do, nhuyễn thể. Loài P. canius cũng ăn mùn
bã hữu cơ, mảnh vụn, chất tan rã, chân khớp, nhộng, giun nhiều tơ,
động vật không xương sống (Nguyễn Bạch Loan, 2004;
Monkolprasit, 1994 trích bởi Fish base, 2008; Fish base, 2011).
2.5. Đặc điểm sinh trưởng
Cá ngát trưởng thành có khối lượng thân trung bình ở khoảng 64,3-
228,8 g, chiều dài trung bình là 21,1-34,0 cm (Supakan et al., 2006).
Theo Ryan (1980) và Rainboth (1996) thì Plotosus canius có thể đạt
đến chiều dài Lt=150 cm, thường gặp cá có kích cỡ Lt=80 cm.
2.6. Đặc điểm sinh sản
Tuổi thành thục của cá da trơn khác nhau tùy loài và môi trường
sống. Xác định các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục cá bao
gồm việc quan sát những thay đổi mang tính mùa vụ của tổ chức mô
và hình dạng tuyến sinh dục. Có nhiều thang phân chia các giai đoạn
thành thục sinh dục của cá đã được đề ra với số bậc thay đổi từ 4-5,
đôi khi 7-8 giai đoạn tùy theo tác giả (Wood, 1930; Kesterven, 1960;
Nikolski, 1963; Laevastu, 1965; Crossland, 1977 trích bởi Biswas,
1973). Hệ số thành thục (GSI: Gonado Somatic Index) là một trong

các chỉ số để xác định mùa vụ sinh sản. GSI cũng là một trong những
điều kiện cần thiết để nhận biết mức độ chín muồi của sản phẩm sinh
dục.
RLG = Chiều dài ruột/Chiều dài thân cá
38

Bảng 4.3: Sức sinh sản của cá ngát ở các kích cỡ khác nhau
Kích cỡ cá (g)
Số lượng
(n-45)
SSS tuyệt đối
(trứng/cá thể)
SSS tương đối
(trứng/kg cá cái)
<500 7 840±336

2.250±855
500-<1.000 19 1.398±334,5 1.755,41±334,5
1.000-<1.500 14 1.912,4±372,09

1.567±305,46
1.500-3.330 5 3.204,3±1395,18

1.301,1±380,16
Sức sinh sản của cá cũng có sự biến động lớn giữa các nhóm kích cỡ
cá. Bảng 4.3 cho thấy ở khoảng kích cỡ mẫu khảo sát (840±336-
3.330 g), sức sinh sản tuyệt đối của cá ngát có xu hướng tăng tỉ lệ
thuận với khối lượng thân cá.
4.4.4. Độ béo Fulton và Clark
Giá trị độ béo Fulton và Clark cùng với nhân tố điều kiện (CF) của cá

ngát biến động khá lớn qua các tháng. Trong đó, độ béo Fulton biến
động trong khoảng 0,45- 0,74%; độ béo Clark ở khoảng 0,39-0,70%
(Hình 4.35). Giá trị của nhân tố điều kiện (CF) cũng biến động trong
khoảng 4,5-7,37 (Hình 4.36).
0.50
0.52
0.62
0.45
0.50
0.52
0.51
0.74
0.54
0.49
0.51
0.52
0.55
0.43
0.51
0.39
0.42
0.42
0.42
0.70
0.50
0.46
0.48
0.47
0.00
0.10

0.20
0.30
0.40
0.50
0.60
0.70
0.80
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tháng
Đ ộ b é o (% )
Fulton
Clack

6.18
4.95
5.2
4.5
4.97
5.18
5.06
7.37
5.35
4.94
5.12
5.17
0
3
6
9
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

Tháng
N h â n t ố đ iề u k iệ n (C F )
Hình 4.35: Biến đổi độ béo của cá ngát
qua các tháng
Hình 4.36: Biến động của nhân tố
điều kiện ở cá ngát qua các tháng

37

gai sinh dục của cá đực thon nhỏ, gốc gai nhỏ và đỉnh gai nhọn, lỗ
niệu và lỗ sinh dục nhập lại thành một là lỗ niệu–sinh dục nhỏ nằm ở
đỉnh gai sinh dục.
Như vậy, dựa vào một số đặc điểm sinh dục phụ có thể phân biệt giữa
cá ngát đực và cái giống như các loài cá da trơn khác như cá kết
(Kryptopterus bleekeri), cá leo (Wallago attu)(Marriod et al., 1997;
Nguyễn Văn Triều và ctv, 2006; Nguyễn Bạch Loan và ctv, 2006).
4.4.2. Đường kính trứng
Kết quả quan sát đường kính trứng của 102 mẫu cá cái ở các
giai đoạn cho thấy đường kính trứng cũng có sự biến đổi theo kích cở
cá cái đã thành thục (Bảng 4.1)
Bảng 4.1: Đường kính trứng cá ngát theo các kích cỡ
W Khối lượng
(g)
Số lượng
(n=102
Khối lượng
thân cá (g)
Đường kính
trứng cá (mm)
<500 8 373 ± 112,5 4,45± 0,4

500 – <1.000 42 838,3 ± 129,9 5,43± 1,2
1.000 – <1.500 46 1.229,5 ± 96,1 6,02 ± 0,6
1.500 – <2.000 4 1.785,3 ± 201,5 5,38 ± 2
2.000 – 3.330 2 3.105 ± 318,2 5,6 ± 1,6
Đường kính trung bình nhỏ nhất là 4,45±0,4 mm gặp ở nhóm cá ngát
có khối lượng thân Wt= 373 ± 112,49 g. Khi khối lượng thân cá tăng
lên (Wt=838,3±129,9 và Wt=1.229,5±96,05) thì đường kính trứng cá
cũng tăng lên tương ứng (5,43±1,2 và 6,02±0,6). Bởi vì, kích thước
trứng phụ thuộc vào kích cở và tuổi của cá cái (cá mẹ); cá mới đẻ lần
đầu kích thước nhỏ nên (đường kính) trứng cũng nhỏ hơn những lần
đẻ sau (Lưu Thị Dung và Phạm Quốc Hùng, 2005).
4.4.3. Sức sinh sản
Cá ngát có sức sinh sản tuyệt đối ở khoảng 840±336 - 4,451 (trứng/cá
thể) và sức sinh sản tương đối là 1.506±423- 2.250±855 (trứng/kg cá)
(Bảng 4.3).
14

Giống như các loài cá da trơn khác, mùa vụ sinh sản của cá ngát là
mùa mưa và thường đẻ rộ vào tháng 5, 6 và 7 hàng năm (Nguyễn
Bạch Loan, 2004). Sức sinh sản, tập tính đẻ trứng là các đặc trưng
sinh học quan trọng của các loài cá. Theo Graaf và Janssen (1996),
Nguyễn Bạch Loan và ctv (2006) thì sức sinh sản của cá ngát khá
thấp (ở khoảng 2.318 trứng/kg cá cái).
2.7. Sự biến đổi các chỉ tiêu sinh hóa trong quá trình phát triển
tuyến sinh dục cá
Quá trình thành thục sinh dục và tham gia sinh sản có ảnh hưởng
nhiều đến tình trạng sinh hóa thể hiện qua những biến đổi lớn về
thành phần hóa học ở một số cơ quan trong cơ thể cá nhất là cá cái.
Hàm lượng protein tăng lên và đạt cao nhất khi buồng trứng ở
giai đoạn IV và thấp nhất ở giai đoạn II. Hàm lượng nước (độ ẩm)

trong buồng trứng cũng thay đổi, độ ẩm giảm theo sự phát triển của
tuyến sinh dục và có giá trị thấp nhất ở giai đoạn IV (Dương Tuấn,
1981; Đỗ Thị Thanh Hương và Trần Thị Thanh Hiền, 2000). Trong
quá trình thành thục, chất béo dự trữ trong các cơ quan khác nhau sẽ
được chuyển giao cho tuyến sinh dục phát triển (Milroy, 1898;
Lovern and Wood, 1937; Hickling, 1947 trích bởi Apparao, 2011).
Vitellogenin (VTG) là một lipoprotein (còn được gọi là protein
noãn hoàng) sẽ thông qua hệ tuần hoàn đi vào buồng trứng cung cấp
cho việc tạo noãn hoàng (Nguyễn Tường Anh, 1999; Goncharov,
1977 trích bởi Nguyễn Tường Anh, 1999; Navas et al., 2005). Sự
phát triển của tế bào trứng diễn ra trong suốt quá trình hình thành
noãn hoàng chủ yếu là do sự tích lũy tiền chất protein noãn hoàng có
nguồn gốc ngoại sinh. Ở lươn đồng và cá đối có sự tương quan giữa
hàm lượng vitellogenin với các giai đoạn phát triển buồng trứng con
cái, hàm lượng vitellogenin thấp nhất khi buồng trứng ở giai đoạn I
(0,13±0,19 µgALP/mg protein), sau đó tăng dần và đạt cao nhất ở
giai đoạn V (3/,79±1,57 µgALPmg protein) (Nguyễn Thị Lệ Hoa,
2009).
15

CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Mẫu dùng cho nghiên cứu là cá ngát (Plotosus canius) đánh bắt từ
các thủy vực tự nhiên có kích cỡ Wt=0,3-3.330 g; Lt=0,33-97,5 cm.
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 4/2007-5/2011
Địa điểm: Thu mẫu ở ba điểm thuộc vùng nước ngọt là Long Xuyên
(An Giang), Thốt Nốt và Ninh Kiều (Cần Thơ) cùng với hai điểm ở
vùng nước lợ là Đại Ngãi và cửa sông Trần Đề (Sóc Trăng). Mẫu

được phân tích tại các phòng các thí nghiệm Nguồn lợi, Dinh dưỡng,
Sinh học và Bệnh thủy sản thuộc Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Cần Thơ. Mẫu nghiên cứu về thành phần acid béo trong cơ, tuyến
sinh dục và gan cá ngát được phân tích ở Trung tâm Dịch vụ
Phân tích thí nghiệm thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Phương pháp thu và bảo quản mẫu
Mẫu cá ngát tươi sống (n=1.692), không dị hình và còn đủ các vi
được thu từ trực tiếp từ ghe cào đáy, đăng mé, đáy trụ, câu ở các thủy
vực tự nhiên và mua ở các chợ địa phương định kỳ mỗi tháng một
lần. Mỗi lần thu ít nhất 30 mẫu cá, mẫu được trữ lạnh và chuyển về
lưu giữ trong tủ đông - 20
o
C của phòng thí nghiệm Nguồn lợi.
Mẫu cá dùng cho nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh hóa và mô học
sau khi thu được giữ sống, chuyển về phòng thí nghiệm Dinh dưỡng,
Sinh học và Bệnh thuộc Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Máu cá được ly tâm lạnh ở 4
o
C trong 6 phút (6000 vòng/phút) để
tách lấy huyết tương. Mẫu da, cơ được cố định trong dung dịch
formol trung tính 10%; mẫu các cơ quan còn lại như: mang, ống tiêu
hóa, gan, tim, động mạch, tĩnh mạch tỳ tạng, thận và tuyến sinh dục
của cá được bảo quản trong dung dịch Bouin từ 18 đến 24 giờ. Mẫu
36

Từ kích thước của những mẫu cá thu được và mối quan hệ giữa
tuổi và chiều dài thân cá ở Hình 4.33 cho thấy đa phần những
mẫu cá ngát đề tài đã thu được ở sông Hậu thuộc nhóm cá từ 1-
3 tuổi.
4.4. Đặc điểm sinh học sinh sản cá ngát

4.4.1. Phân biệt đực cái
Ở cá ngát, có thể phân biệt đực/cái thông qua hình dạng và kích cỡ
của đầu, gai sinh dục, bụng và tuyến sinh dục. Sự khác biệt thể hiện ở
tỉ lệ giữa chiều dài chuẩn và chiều rộng đầu (ngang hai mắt) (Ls/Wh)
của cá ngát đực và cái. Tỉ lệ này đã thể hiện rõ sự khác biệt giới tính
ở nhóm cá lớn (Wt > 5 g), phần đầu sau mắt của cá đực thon dài nên
tỉ lệ Ls/Wh lớn hơn ở cá cái và sự khác biệt này có ý nghĩa (p <
0,05). Sự khác biệt này cũng có ý nghĩa (p < 0,01) ở những mẫu có
kích cỡ lớn hơn (Wt >15 g - <25 g) (Hình 4.34). Hình dạng gai
sinh dục và vị trí của lỗ sinh dục cũng có thể dùng để phân biệt
đực/cái.

0.00
0.20
0.40
0.60
0.80
1.00
1.20
1.40
1.60
1.80
2.00
<5g 5g - <10g 10g - <15g 15g - <25g
Khối lượng thân cá (g)
Tỉ lệ Ls/ Wh
Đực
Cái

Hình 4.34: Biến động của tỉ lệ giữa độ rộng đầu và chiều dài

chuẩn của cá ngát đực và cái
Chú thích: Ls là chiều dài chuẩn; Wh là độ rộng đầu
Gai sinh dục cá ngát cái hình trụ, gốc gai to và đỉnh tà; lỗ sinh dục to,
màu hồng đỏ hoặc màu đỏ nằm ở gần gốc của gai sinh dục và tách
biệt với lỗ niệu; Lỗ niệu nhỏ nằm ở đỉnh của gai sinh dục. Ngược lại,
35

Hình 4.32: Đường cong tăng trưởng của cá ngát
Như vậy, đường cong tăng trưởng của cá ngát phân bố trên sông Hậu
có dạng phương trình:
)1(2,141)(
)27,0(49,0 

t
etL
(2)
Hệ số tăng trưởng K= 0, 49 cho thấy tốc độ tăng trưởng bình quân
của cá ngát trong năm đạt 0, 49 lần so với chiều dài lý thuyết tối đa.
4.3.3. Quan hệ giữa tuổi và chiều dài thân cá
Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm cá ngát 1 tuổi cá có thể đạt chiều
dài lý thuyết Lt=65,4 cm, khi 2 tuổi cá có thể đạt chiều dài Lt=94,8
cm, 3 tuổi thì chiều dài thân Lt=112,8 cm, 4 tuổi thì chiều dài thân
Lt=123,8 cm (Hình 3.33). Từ 5-11 tuổi thì chiều dài thân cá tăng
không đáng kể, nằm trong khoảng 130,5-140,7 cm. Kết quả này cũng
phù hợp với thông tin từ Fishbase (2012), cá ngát Plotosus canius có
thể đạt chiều dài tối từ 90-150 cm.
Như vậy, giai đoạn 1-3 tuổi cá ngát tăng trưởng nhanh hơn, nhất là
lúc cá ở giai đoạn 1-2 tuổi.
65,4
94,8

112,8
123,8
130,5
134,7
137,2
138,8
139,7
140,3
140,7
-20
10
40
70
100
130
160
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11
Tuổi cá
C hiều dài thâ n cá (c m )

Hình 4.33: Tương quan giữa tuổi và chiều dài thân cá ngát
16

cơ, gan và tuyến sinh dục cá dùng cho nghiên cứu về các chỉ tiêu
sinh hóa được bảo quản trong tủ đông - 80
o
C.
3.4. Phương pháp phân tích mẫu
3.4.1. Hình thái cấu tạo và mô học
Hình dạng cơ thể, đầu, các vây; miệng, cơ quan dendrictic của 315

mẫu cá ngát được quan sát theo Pravdin (1973); tham khảo thêm từ
Fish base (2007, 2010); Yoshino và Kishimoto (2008). Mẫu cá được
chia làm 4 nhóm: Nhóm I (W
t
< 5 g); nhóm II (W
t
: 5- <10 g); nhóm
III (W
t
: 10- <15 g) và nhóm IV (W
t
: ≥ 15 g).
Hình dạng cấu tạo các cơ quan thuộc hệ tiêu hóa (miệng, răng,
lược mang, thực quản, dạ dày, ruột, gan); hệ hô hấp (mang, bóng hơi,
da) và hệ tiết niệu-sinh dục (thận, ống dẫn niệu, lỗ niệu; tuyến sinh
dục, ống dẫn sản phẩn sinh dục, lỗ sinh dục) được phân tích theo
Lagler et al. (1977) và Bond (1996).
Cấu trúc mô của mang, vách thực quản, dạ dày, ruột, gan, tim,
động mạch, tĩnh mạch, tỳ tạng, thận và tuyến sinh dục của cá được
nghiên cứu theo phương pháp cắt mẫu vùi trong parafin, nhuộm với
Haematoxyline - Eosin của Drury và Wallington (1967).
3.4.2. Đặc điểm dinh dưỡng
Chỉ số tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân RLG
(Relative Lengh of the Gut) được nghiên cứu theo Al-Hussainy (1949
trích bởi Biswas, 1973) và tính theo công thức: RLG = Li/ Lt.
Trong đó: Li là chiều dài ruột; Lt là chiều dài toàn thân cá.
Phổ dinh dưỡng được nghiên cứu thông qua việc phân tích thức ăn
hiện diện trong ống tiêu hóa của các mẫu cá ngát con và cá lớn thu ở
hai vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ vào mùa khô và mùa mưa theo
3 phương pháp: tần suất xuất hiện, đếm-điểm, kết hợp phương pháp

tần suất xuất hiện với đếm-điểm của Biswas (1973).
3.4.3. Đặc điểm sinh trưởng
- Tương quan giữa chiều dài (L) và khối lượng thân (W) cá
17

Quan hệ L-W của 1.692 mẫu cá ngát được xác định theo King (1995)
có dạng phương trình hồi qui:
W = aL
b

Với W: khối lượng thân cá (g); L: chiều dài thân cá (cm); a: hệ số điều kiện;
b: hệ số tăng trưởng.
- Ước tính các tham số tăng trưởng (L

, K, t
o
)
Dựa vào đường cong tăng trưởng không mang tính mùa vụ và
phương pháp ELEFAN trong chương trình phần mềm LFDA (Length
Frequency Data Analysis) của DFID (2003) để xác định các tham số
tăng trưởng (L

, K, t
o
) của cá ngát.
- Mối quan hệ giữa tuổi và chiều dài thân cá
Thông qua phương trình Von Bertalanffy (King, 1995) để xác
định mối quan hệ giữa tuổi và chiều dài thân của 1.692 mẫu cá
ngát theo công thức: L(t) = L


(1- e
-K (t - to)
)
Trong đó: t: Tuổi cá ở thời điểm khảo sát; L

: Chiều dài lý thuyết cực đại;
t
o
: Thời điểm cá có L=0; K: Hệ số tăng trưởng
3.4.4. Đặc điểm sinh học sinh sản
- Các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục cá ngát: được xác định
theo thang phân chia 6 bậc của Xakun và Buskaia (1968). Tiêu bản
mô học tuyến sinh dục được thực hiện theo phương pháp cắt mẫu vùi
trong parafin và nhuộm với Haematoxyline và Eosin của Drury và
Wallington (1967).
- Độ béo Fulton, Clark và nhân tố điều kiện:
Ðộ béo Fulton: F = W  100/L
o
3

Ðộ béo Clark: Cl = W
o
 100/L
o
3

Nhân tố điều kiện: CF = W/L
b

Trong đó W: Khối lượng thân cá có nội quan; W

o
: Khối lượng thân không
nội quan; L: Chiều dài toàn thân; L
o
: Chiều dài chuẩn; b

: Hệ số
tăng trưởng.
34

Mũ b của phương trình tương quan L-W của cá ngát đực (b = 2,8225)
nhỏ hơn cá ngát cái (b=2,8787). Điều đó cho thấy trong loài P.canius
song cá ngát cái có khả năng tăng trưởng nhanh hơn cá đực; cùng có
chiều dài Lt= 50 cm, nhưng khối lượng thân của cá ngát đực chưa đạt
500 g, ngược lại khối lượng thân cá cái đã vượt qua 500 g.

y = 0.0094x
2.8225
R
2
= 0.9787
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
0 50 100
Chiều dài tổng (cm)

Khối Lư ợng cơ thể (g)
y = 0.0079x
2.8787
R
2
= 0.9835
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
0 50 100
Chiều dài tổng (cm)
K hối lư ợ n g cơ thể (g)

Hình 4.31: Tương quan chiều dài và khối lượng thân cá ngát đực và cái
Theo Phan Phương Loan (2006), cá leo (W. attu) cái thường có khối
lượng lớn hơn cá đực ở cùng một chiều dài; sự sai khác này thể hiện
rõ khi cá càng lớn. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với cá ngát.
43.3.2. Xác định các tham số tăng trưởng của cá (K, L

, t
0
)
Kết quả phân tích các tham số tăng trưởng từ phương pháp ELEFAN

trong chương trình phần mềm LFDA của 1.692 mẫu cá dựa theo bộ
dữ liệu về tần suất chiều dài của cá ngát thu trên 5 điểm thuộc tuyến
sông Hậu được thể hiện ở Hình 4.32 và phương trình 4.

Chiều dài (cm)
33

4.2.2.2. Phổ dinh dưỡng của cá ngát
Thành phần thức ăn bắt gặp trong ống tiêu hóa của cá ngát P.canius
lớn gồm 8 loại: cá, giáp xác, giun, thân mềm, động vật phiêu sinh,
thực vật phiêu sinh, mùn bã hữu cơ và thức ăn khác. Tuy nhiên, chỉ
có giáp xác, cá, giun, thân mềm là 4 loại thức ăn mà cá ngát lớn
thường ăn, phù hợp với hình thái các cơ quan tiêu hóa và cá ngát có
thể tiêu hóa tốt. Kết quả trên cho thấy ngoài tự nhiên P. canius là loài
cá ăn động vật, phổ thức ăn gồm có: giáp xác, thân mềm, giun và cá
(Hình 4.30).
Thân mềm: 1.69%
Giun: 1.48%
Cá: 1.44%
Giáp xác: 95.39%
Giáp xác

Giun
Thân mềm

Hình 4.30: Phổ thức ăn của cá ngát
Trong đó, giáp xác luôn chiếm tỉ phần cao trong ống tiêu hóa của cá
ngát (95,39%).
4.3. Đặc điểm sinh trưởng
4.3.1. Tương quan giữa chiều dài và khối lượng cá ngát

Kết quả nghiên cứu 1.692 mẫu cá ngát thu được trên tuyến sông Hậu
cho thấy tương quan giữa chiều dài và khối lượng thân cá (ở kích cỡ
biến động trong khoảng Lt= 3,3-97,5 cm; W=0,3-3.330 g) có dạng
phương trình hồi quy: W=0,0082L
2,8695
(1).
Trong cùng một loài nhưng các cá thể sống ở các môi trường khác
nhau thì chúng vẫn có tốc độ sinh trưởng khác nhau theo giới tính
(Hình 4.31 Avà B, phương trình 2 và 3).
18

- Hệ số thành thục (GSI: Gonado Somatic Index): được tính theo
công thức: GSI = (W
g
 100)/ W
t
. Với:
Trong đó W
g
: Khối lượng tuyến sinh dục; W
t
:Khối lượng thân cá cái
- Sức sinh sản tuyệt đối và tương đối được tính theo công thức:
* Sức sinh sản tuyệt đối: F = nG/g. Trong đó G: là khối lượng
buồng trứng (g); g là Khối lượng mẫu trứng được lấy ra đếm (g);
n là số trứng của mẫu được lấy ra để đếm (hạt).
* Sức sinh sản tương đối:
F
A
=Số trứng trong buồng trứng/Khối lượng thân

* Đường kính trứng: Trứng cá ngát ở ba vị trí đầu, giữa và cuối
buồng trứng giai đoạn III và IV được lấy ra, đưa lên kính hiển vi
quan sát và đo bằng trắc vi thị kính. Đường kính trứng ở mỗi giai
đoạn là giá trị trung bình đường kính của 30 trứng ở ba vị trí nêu trên.
- Mùa vụ sinh sản: Được dự đoán dựa trên kết quả khảo sát biến động
của độ béo, hệ số thành thục, quá trình phát triển tuyến sinh dục
cá ngát thu được qua các tháng và thời gian xuất hiện của cá con.
3.4.5. Một số chỉ tiêu sinh hóa
* Hàm lượng vitellogenin: Được xác định bằng phương pháp so màu
quang phổ (theo phương pháp Alkali-Labile phosphat dựa trên đường
chuẩn Phosphorus standard và so màu ở bước sóng 660 nm).
* Độ ẩm, hàm lượng khoáng, lipid thô, protein: Được phân tích theo
AOAC (2005).
3.4.6. Đặc điểm phân bố
Đặc điểm phân bố của cá ngát con và cá ngát lớn ở các điểm thu mẫu,
qua các tháng được nghiên cứu bằng cách thuê ghe cào thu mẫu trực
tiếp kết hợp với thu mua mẫu từ các ngư cụ đánh bắt khác như: đáy
trụ, câu, đăng mé kết hợp với phỏng vấn ngư dân ở các địa phương.
3.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu độ béo Fulton và Clark, hệ số điều kiện, hệ số thành thục, sức
sinh sản tuyệt đối, sức sinh sản tương đối, đường kính trứng,
19

tương quan giữa chiều dài và khối lượng thân cá được tính toán bằng
phần mềm Microsoft Office 2003 và 2007, tương quan giữa tuổi và
chiều dài thân cá, các tham số tăng trưởng: L

, K, t
o
được tính toán

bằng phần mềm LFDA.
32

4.2.2. Phổ dinh dưỡng của cá ngát
4.2.2.1. Tần suất xuất hiện các loại thức ăn
Thức ăn của cá ngát con nhỏ hơn 2g (Wt = 0,3–1,94 g) có 6 loại là
giáp xác, thân mềm, giun, động vật phiêu sinh (ĐVPS), thực vật
phiêu sinh (TVPS) và mùn bã hữu cơ (mùn bã HC) (Hình 4.28).
Giai đoạn này, cá con thường ăn giáp xác có kích thước nhỏ. Động
vật phiêu sinh mà cá ngát con ăn là: Copepoda, Cladocera, Rotifera
và một ít Protozoa; thường gặp nhất là Copepoda và đây có thể là
thức ăn ưa thích của cá ngát convì nó phù hợp với cấu tạo của các cơ
quan tiêu hóa giai đoạn này (Răng nhỏ, mịn; ruột ngắn).
85
45
25
100
90
70
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100

TS XH (% )
Giáp xác Giun Thân
mềm
Động vật
PS
Thực vật
PS
Mùn bã
HC
Loại thức ăn

36.11
95.83
63.89
13.79
81.04
100
75
1.67
0
20
40
60
80
100
120
T S X H (% )
Cá Giáp
xác
Giun Thân

mềm
Động
vật PS
Thực
vật PS
Mùn bã
HC
Thức
ăn khác
Loại thức ăn

Hình 4.28: Tần suất xuất hiện các loại
thức ăn của cá ngát nhỏ hơn 2 g
Hình 4.29: Tần suất xuất hiện các loại
thức ăn của cá ngát lớn hơn 2 g
Ở nhóm mẫu có kích cỡ lớn hơn (Wt > 2 g), thành phần thức ăn tăng
lên 8 loại là: giáp xác, cá, thân mềm, giun, ĐVPS, TVPS, mùn bã HC
và một số loại thức ăn khác (Hình 4.29).
Bên cạnh 6 loại thức ăn bắt gặp trong ống tiêu hóa của cá ngát con
Wt<2 g (giáp xác, thân mềm, giun, ĐVPS, TVPS, mùn bã HC), trong
ống tiêu hóa của những mẫu cá con có kích cỡ lớn hơn (Wt>2 g) còn
có thêm cá và những loại thức ăn khác. Lúc này, thức ăn là giáp xác
kích thước nhỏ đã được thay thế bằng những giáp xác kích thước lớn
như: các giống loài tôm, tép, cua… Như vậy, tính ăn của cá ngát con
ở kích cỡ này đã gần giống với cá trưởng thành và đây có thể là giai
đoạn chuyển tính ăn của cá ngát con ngoài tự nhiên.

31

Buồng tinh cá ngát phân thùy rất sâu. Ở thời kỳ cơ thể chưa phát dục,

buồng tinh là hai dãy mảnh, dài, màu trắng hồng nằm song song nhau
(Hình 4.26A). Vào mùa sinh sản, buồng tinh có màu trắng hồng đến
trắng sữa; các thùy tăng kích cỡ rất nhanh (Hình 4.26A).
b) Ống dẫn sản phẩm sinh dục
Vách ống dẫn trứng cũng có 3 lớp giống ống dẫn niệu: màng bao liên
kết ở ngoài cùng, giữa là lớp cơ trơn, trong là lớp biểu mô.
c) Gai sinh dục và lỗ niệu sinh dục
Gai sinh dục của cá ngát đực dài, nhọn; gai sinh dục của cá ngát cái
lại ngắn, lỗ sinh dục nằm gần ở gốc gai sinh dục.

Hình 4.27: Hình dạng gai sinh dục của cá ngáy đực và cái
4.2. Đặc điểm dinh dưỡng
4.2.1. Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài thân cá
Chỉ số RLG trung bình ở khoảng 1,08 0,37 (n = 493) cho thấy cá
ngát thuộc nhóm cá ăn động vật.
Giá trị RLG của cá ngát tăng theo sự gia tăng khối lượng cơ thể.
Chiều dài ruột của cá cũng phụ thuộc vào tuổi và loại thức ăn tự
nhiên mà chúng tiêu thụ (Smith, 1991); giá trị RLG thấp ở giai đoạn
cá hương và cao ở giai đoạn cá trưởng thành (Girgis, 1952 trích bởi
Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định, 2004).
A
20

CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm hình thái
4.1.1. Hình dạng và các cơ quan bên ngoài cơ thể
Cơ thể cá ngát (Plotosus canius) thon dài với đầu dẹp bằng, phần
trước của thân cá tròn và phần sau dẹp bên. Cá ngát có miệng dưới,
quanh miệng có viền rua (gai thịt); môi dày và mềm. Tỉ lệ khoảng

cách hai mắt/dài chuẩn (Dia2e/Ls) giảm dần theo sự gia tăng
khối lượng thân cá, tỉ lệ này cao nhất ở nhóm cá con có kích thước
dưới 5 g, đến nhóm 5-10 g tỉ lệ này giảm còn khoảng 0,089 và tiếp
tục giảm khi kích thước cá tăng lên 10-15 g (Hình 3.1).
0.105
0.089
0.077
0.074
0
0.02
0.04
0.06
0.08
0.1
0.12
0.14
<5g 5-10g 10-15g >15g
Khối lượng
Dia2e/Ls

0.102
0.128
0.139
0.183
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25

<5g 5-10g 10-15g >15g
Khối lượng
W h /L s

Hình 4.1: Tỉ lệ khoảng cách hai mắt và

chiều dài chuẩn theo khối lượng thân cá
Hình 4.2: Tỉ lệ chiều rộng đầu và
dài chuẩn theo khối lượng thân cá
Tỉ lệ này thấp nhất ở nhóm cá có kích thước>15 g, chỉ bằng 50% của
nhóm cá dưới 5 g. Tỉ lệ giữa chiều rộng đầu và chiều dài chuẩn của
cá ngát cũng có sự thay đổi theo khối lượng thân cá (Hình 4.2).
Cá ngát có bốn đôi râu là đôi râu mép, đôi râu mũi và hai đôi râu
hàm. Hình dạng và chiều dài của râu cũng là đặc điểm phân loại của
các loài thuộc giống Plotosus.
Ở sau gai sinh dục cá ngát còn có cơ quan dạng nhánh cây
(Dendrictic organ). Cơ quan này gồm có một gốc phân làm hai nhánh
21

lớn, mỗi nhánh lại chia thành nhiều nhánh nhỏ (Hình 4.3). Tiêu bản
mô cho thấy rõ cấu trúc các tế bào và các mạch máu phân bố dày đặc
ở các nhánh (Hình 4.4).




Cơ quan dendrictic là một trong những đặc điểm hình thái chỉ gặp ở
các loài cá thuộc họ Plotosidae (Gomon, 983). Ở loài cá ngát
Cnidoglanis macrocephalus (thuộc họ Plotosidae), cơ quan này tham
gia vào việc điều hòa áp suất thẩm thấu của máu cá (Kowarsky (1973

trích bởi Bond, 1996).
4.1.2. Hình thái cấu tạo các cơ quan bên trong cơ thể
4.1.2.1. Hệ tiêu hóa
a) Miệng
Miệng cá ngát thuộc dạng miệng dưới, rộng nên phù hợp với tập tính
sống và ăn những loại thức ăn kích thước lớn ở nền đáy các thủy vực
(Lagler et al., 1977). Kết quả khảo sát miệng cá ngát ở các kích cỡ
khác nhau cho thấy cỡ miệng cá tăng đều ở giai đoạn dưới 15g. Sự
biến đổi cỡ miệng và chiều dài thân cá có mối tương quan thuận. Từ
nhóm II đến nhóm III chiều dài xương hàm trên tăng 1,4 lần
trong khi chiều dài cơ thể cá chỉ tăng khoảng 1,2. Tương tự, từ nhóm
III lên nhóm IV chiều dài cơ thể tăng 1,7 lần trong khi chiều dài
xương hàm trên tăng gấp đôi.
Hình 4.3: Vị trí và hình dạng
ngoài của cơ quan dendrictic

Hình 4.4: Cấu tạo mô học của cơ quan
dendrictic (H&E, 10X)
A:L
ớp biểu mô;B: Mao mạch
;
C:Các nhánh

30

Ống dẫn niệu màu trắng, đi từ thận sau đến bàng quang và đổ ra lỗ
niệu (cá cái) hay lỗ niệu-sinh dục (cá đực). Vách ống dẫn niệu có 3
lớp: màng bao liên kết, lớp cơ trơn và lớp biểu mô.
Cá ngát là loài cá đẻ trứng nên bàng quang thuộc dạng bàng quang
ống dẫn niệu. Vách bàng quang cũng gồm có 3 lớp giống như vách

của ống dẫn niệu.
4.1.2.5. Hệ sinh dục
Hệ sinh dục cá ngát gồm có tuyến sinh dục, ống dẫn sản phẩm
sinh dục, gai sinh dục và lỗ sinh dục/lỗ niệu - sinh dục.
a) Tuyến sinh dục
Buồng trứng
Cá ngát là loài cá thụ tinh ngoài nên buồng trứng của cá cái thuộc
dạng buồng trứng kín; các tế bào trứng có màng bao bọc bên ngoài.
Ở thời kỳ chưa phát dục buồng trứng cá chỉ là hai sợi nhỏ, mảnh màu
trắng xám. Đến mùa sinh sản, kích cỡ buồng trứng tăng lên thành hai
túi to, dài, màu sắc cũng nhanh chuyển sang màu vàng.

Hình 4.25 A: Buồng trứng giai đoạn I; B: Buồng trứng giai đoạn IV



Hình 4.26 A: Buồng tinh giai đoạn II; B: Buồng tinh cá ngát giai đoạn IV
Buồng tinh
A
A B
B
29










4.1.2.4. Hệ tiết niệu
Hệ tiết niệu của cá ngát gồm có thận, ống dẫn niệu và lỗ niệu (cá cái)
hoặc lỗ niệu sinh dục (cá đực) giống như các loài cá xương khác.
a) Thận cá


Hình 4.23: Cấu trúc thận trước
của cá ngát (H&E, 10X)
A: trung tâm đại thực bào s
ắc tố;
B:ống thận; C: ống góp chung;
D: mao mạch
Hình 4.24: Cấu trúc thận sau cá ngát
(H&E,40X)
A: Mao mạch chứa hồng cầu; B: Tiểu cầu
thận; C: Khoảng không của nang
Bowman’s; D: Lớp biểu mô của nang
Bowman’s;E:Ống thận;F:Tế bào biểu mô.
Thận của cá ngát lớn là trung thận, gồm 2 phần có màu đỏ thẩm là
thận trước và thận sau. Tiêu bản mô cho thấy thận trước cá ngát có
các ống thận, ống góp chung, trung tâm đại thực bào và các mao
mạch. Thận sau của cá ngát được cấu tạo từ rất nhiều ống thận, mạch
máu, ống dẫn và các tiểu cầu thận, nang Bowman.
b) Ống dẫn niệu, bàng quang

Hình 4.22: Cấu trúc tỳ tạng cá ngát (H&E, 10X)
A: Tủy trắng; B: Tủy đỏ
22



b) Răng
Cá ngát có đủ cả 3 nhóm răng là: răng hàm, răng vòm miệng và răng
hầu. Răng hàm của cá ngát to, khỏe và phân bố ở cả hàm trên và
hàm dưới (Hình 4.5) cho thấy cá ngát là loài ăn động vật đáy nhưng
không phải là cá dữ vì không có răng chó (răng nanh).


Hình 4.5:Hình dạng
miệng của cá ngát
Hình 4.6: Răng hàm trên, răng lá mía và răng khẩu
cái (A); Răng hàm dưới (B) của cá ngát
Răng vòm miệng cá ngát gồm có răng khẩu cái và răng lá mía nằm ở
bên trong răng hàm trên (Hình 3.6). Răng hầu cá ngát nhỏ nhọn, sắc
bén, xếp thành 4 đám hình bầu dục nằm ở hầu của cá.
Ở cá ngát con (W = 0, 3 g) đã có đủ cả 3 nhóm răng: răng hàm, răng
vòm miệng và răng hầu. Hàm trên và hàm dưới cá ngát con là một
hàng răng nhỏ như lông nhung nhưng sắc bén (Hình 3.7A). Răng
khẩu cái cũng chỉ có 1 hàng có hình chữ V. Dạng răng nầy thích hợp
cho cá ngát con ăn các loại động vật kích thước nhỏ (Hình 3.7 B).

Hình 4.7: Răng hàm (A) và răng hầu (B) của cá ngát con
c) Lược mang
Mỗi cung mang cá ngát có hai hàng lược mang dạng gai nhọn màu
trắng, cứng, dài và thưa giống dạng lược mang của cá leo (Wallago
A

B

A B

A

A

B

B

B

23

attu) (Phan Phương Loan, 2006). Trên cung mang thứ I của cá ngát
có 22-25 lược mang. Lược mang ở cung mang thứ II, vẫn còn dạng
gai nhọn, thưa nhưng ngắn hơn các lược mang ở cung mang thứ I.
d) Thực quản
Thực quản cá ngát có dạng ống, to, màu trắng nằm tiếp sau xoang
miệng hầu. Vách thực quản dày, cấu tạo bởi 3 phần: màng bao bên
ngoài, giữa là lớp cơ trơn, trong cùng là lớp niêm mạc. Màng bao
ngoài vách thực quản được tạo bởi nhiều mô liên kết. Lớp cơ vân ở
giữa dầy, xếp thành 2 dạng: Lớp cơ vòng bao bên ngoài và lớp cơ
dọc ở bên trong (Hình 3.8). Niêm mạc thực quản gồm 2 phần: Lớp
dưới niêm mạc mỏng nằm cạnh lớp cơ dọc và lớp niêm mạc ở trong
cùng được tạo bởi các biểu mô dày (Hình 3.9), xen kẽ bên dưới là các
tế bào tiết dịch nhầy (nhớt) giúp thức ăn dễ dàng đi qua thực quản.











e) Dạ dày
Dạ dày cá ngát có dạng ống, ngắn, to với vách dày giống dạ dày cá
leo. Đây là dạng trung gian giữa dạ dày dạng túi của nhóm cá dữ và
dạng ống ở nhóm cá ăn thực vật (Lagler et al., 1977). Vách dạ dày có
3 lớp giống vách thực quản: màng bao mô liên kết ở ngoài cùng, giữa
là lớp cơ trơn dầy xếp thành 2 dạng là cơ dọc bên trong và cơ vòng
bao bên ngoài, trong cùng là phần niêm mạc.
Hình 3.9: Lắt cắt ngang dạ dày
cá ngát (H&E, 10X)
A: Thành dạ dày; B: Lớp dưới niêm
mạc; C: Lớp niêm mạc; D: Xoang
mao mạch; E: Nhánh của nếp gấp
Hình 3.8: Lắt cắt ngang thực
qu
ản cá ngát (H&E, 10X)
A: Màng ngoài; B: Lớp áo cơ;
C: Lớp niêm mạc;D: Lớp cơ dọc;
E: Lớp cơ vòng
28



Tâm nhĩ
Tâm nhĩ màu đỏ đậm nằm tiếp theo sau tâm thất. Vách tâm nhĩ
mỏng hơn, cấu tạo gồm có 3 lớp: lớp biểu mô mỏng ở bên ngoài, lớp

cơ tim dày hơn ở giữa và lớp màng rất mỏng ở trong cùng (Hình
4.19).
b) Động mạch
Động mạch chủ bụng là một trong những động mạch quan trọng.
Vách động mạch gồm có 3 lớp: bên ngoài là một lớp mô liên kết
mỏng, giữa là các sợi đàn hồi và sợi cơ trơn, lớp trong cùng là các
biểu mô vẩy đơn giản.


Hình 4.20: Cấu trúc của động mạch
chủ bụng (H&E, 10X)
A: Lớp ngoài; B: Lớp cơ trơn;C: Lớp trong
Hình 4.21: Cấu trúc của tĩnh mạch
thận H&E, 10X)
A:Lớp ngoài;B:Lớp cơ trơn;C:Lớp trong
c) Tĩnh mạch
Tĩnh mạch thận to, là một trong những tĩnh mạch quan trọng của cá
ngát. Vách tĩnh mạch cũng gồm 3 lớp giống như vách động mạch
(Hình 4.21).
d) Tỳ tạng
Tỳ tạng gồm hai phần chính là tủy đỏ và tủy trắng. Phần tuỷ trắng bắt
màu nhạt; phần tủy đỏ bắt màu đậm hơn (Hình 4.22)
27


Hình 4.17A: Hình dạng bóng hơi; B: Sự phân thùy bên trong bóng hơi cá ngát
Bên trong có vách ngăn chia bóng hơi thành nhiều buồng nhỏ, trong
các buồng nhỏ này đều có mạch máu phân nhánh đến để đưa máu có
chứa nhiều CO
2

đi vào bóng hơi tiến hành trao đổi khí giống bóng hơi
của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus), cá lăng (Mystus wyckii).
Như vậy, ngoài cơ quan hô hấp chính là mang, có thể cá ngát còn có
khả năng trao đổi khí qua da (giống cá trê trắng) và ở bóng hơi
(giống cá tra, cá lăng).
4.1.2.3 Hệ tuần hoàn
a) Tim
Tim của cá ngát có 3 phần sắp theo thứ tự từ trước đến sau là:
tâm thất, tâm nhỉ và xoang tĩnh mạch.
Tâm thất
Tâm thất cá ngát có màu nâu – đỏ, hình bầu dục hoặc hình nón. Cấu
tạo gồm 3 phần: ngoài cùng là lớp biểu mô mỏng, giữa là lớp cơ tim
rất dày và lớp màng trong rất mỏng.



Hình 4.18: Tiêu bản cắt ngang
tâm thất cá ngát (H&E, 5X)
A: Màng ngoài; B: Lớp cơ tim
Hình 4.19: Tiêu bản cắt ngang
của tâm nhĩ cá ngát (H&E, 4X)
A: Màng ngoài; B: Lớp cơ tim;
C: Màng trong
A B
24


f) Ruột
Ruột cá ngát thẳng, ngắn (tỉ lệ chiều dài ruột/chiều dài chuẩn trung
bình: 1,08 0,37), vách ruột dày, mặt trong của ruột có nhiều nếp gấp

nên có thể co dãn lớn để nuốt những thức ăn có kích thước to (Hình
4.10).

Hình 4.10: Lắt cắt ngang ruột giữa cá ngát (H&E, 10X)
A: Màng ngoài; B: Lớp cơ trơn; C: Lớp dưới nêm mạc; D: Lớp biểu mô;
F: Nhánh của nếp gấp; E: Xoang mao mạch chứa hồng cầu.
Về cấu tạo, vách ruột cá ngát cũng gồm 3 lớp (giống vách dạ dày):
Ngoài là màng bao, giữa là lớp cơ trơn, trong cùng là lớp niêm mạc.
Cơ vách ruột dầy, mặt trong ruột có nhiều nếp gấp nên có thể dãn nở
nhằm tăng kích cỡ để có thể nuốt được những loại thức ăn có kích cỡ
lớn như cua, nhuyễn thể (Nguyễn Bạch Loan và ctv, 2006).
g) Gan - tụy
Gan cá ngát có màu vàng nâu; nằm ở phần đầu của xoang nội quan;
gồm có 3 thùy (một thùy lớn hình vuông ở giữa và hai thùy nhỏ hơn
có hình chiếc lá ở hai bên). Tiêu bản mô học cho thấy các tế bào gan
của cá ngát có hình đa giác, xếp theo hướng lan tỏa từ tĩnh mạch
trung tâm với một nhân tế bào nhỏ nằm ở giữa hoặc góc của tế bào.
Theo Chinabut et al., (1991), sự khác biệt về vị trí nhân của tế bào
gan là do ảnh hưởng của glycogen và lipid trong tế bào chất.

×