Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 104 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG LAN





CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG





Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG LAN




CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƢỚC VIỆT NAM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT

Chuyên ngành: Tài chính và Ngân hàng
Mã số: 60 34 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DƢƠNG THU HƢƠNG


Hà Nội – 2014

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
DANH MỤC HÌNH iii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 3

6. Những đóng góp của luận văn 3
7. Bố cục luận văn 3
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG 4
1.1. Quan điểm về lạm phát 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.3. Biểu hiện của lạm phát 6
1.1.4. Phân loại lạm phát 6
1.1.5. Nguyên nhân gây lạm phát 8
1.1.6. Hậu quả của lạm phát tới nền kinh tế 11
1.1.7. Các giải pháp kiểm soát lạm phát về mặt lý thuyết
2
14
1.2. Khái niệm chính sách tiền tệ 14
1.2.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ 14
1.2.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 15
1.2.3. Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ 17
1.2.4. Các công cụ của chính sách tiền tệ 19
1.2.5. Kinh nghiệm của Ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế giới trong việc
điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát
17
26
1.2.6. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 31
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY 34
2.1. Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam từ 2007 đến nay 34
2.1.1. Lạm phát ngày càng được kiềm chế trong những năm gần đây 34
2.1.2. Tốc độ tăng trưởng GDP 36
2.1.3. Giải quyết việc làm 37
2.1.4. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài FDI 38

2.1.5. Kinh tế vĩ mô đang chịu ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu 38
2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 39
2.2.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ từ 2007 đến nay 39
2.2.2. Thực trạng chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 41
2.3. Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục tiêu kiểm soát
lạm phát 71
2.3.1. Kết quả đạt được 71
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 73
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
NHẰM MỤC TIÊU KIÊM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 82
3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 82
3.2. Định hƣớng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trong thời gian tới
82
3.3. Giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát ở
Việt Nam 84
3.3.1 Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ 84
3.3.2. Đổi mới căn bản công tác phân tích, dự báo 88
3.3.3. Áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam 89
3.3.4. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngân hàng nhà nước 90
3.4. Một số kiến nghị 90
3.4.1. Đối với Chính phủ 90
3.4.2. Đối với Quốc hội 91
3.4.3. Đối với các Bộ, Ngành liên quan 91
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

















i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
DTBB Dự trữ bắt buộc
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
GDP Tổng sản phẩm quốc dân
GNP Tổng sản phẩm quốc nội
IMF Tổ chức tiền tệ quốc tế
NHNN Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
NHTM Ngân hàng thƣơng mại
NHTƢ Ngân hàng Trung ƣơng
NVTTM Nghiệp vụ thị trƣờng mở
TCTD Tổ chức tín dụng
USD Đồng đô la Mỹ
VND Việt Nam đồng












ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2012 11
Bảng 2.1: Tốc độ lạm phát từ năm 2007 đến 2012 34
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP từ 2007 đến 2012 36
Bảng 2.3: Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 2007 đến năm 2010 36
Bảng 2.4: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài FDI 38
Bảng 2.5: Thực tế lựa chọn mục tiêu của CSTT ở Việt Nam 41
Bảng 2.6: Biến động lãi suất năm 2008
5
45




















iii
DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao 13
Hình 2.1: Diễn biến CPI, lƣơng thực thực phẩm và CPI các loại từ 2009 - tháng 2 năm
2013 35
Hình 2.2: Lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nƣớc trong năm 2008 -2009 48
Hình 2.3: Điều hành lãi suất năm 2012 60
Hình 2.4: Mặt bằng lãi suất giảm năm 2013 64
Hình 2.5: Diễn biến thanh khoản hệ thống ngân hàng năm 2013 65
Hình 2.6: Tỷ giá ổn định và dự trữ ngoại hối năm 2013 65
Hình 2.7: Diễn biến thị trƣờng vàng năm 2013 66
Hình 2.8: Quy mô phát hành tín phiếu NHNN năm 2012 - 2013 67
Hình 2.9: Quy mô phát hành trái phiếu, cổ phiếu qua các năm 68















1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ điều tiết và quản lí kinh tế vĩ
mô quan trọng của Nhà nƣớc. Ngân hàng Trung ƣơng sử dụng chính sách tiền tệ
theo hƣớng thắt chặt hay mở rộng tùy vào điều kiện cụ thể nhằm ổn định giá trị
đồng bản tệ, đƣa sản lƣợng và việc làm của quốc gia lên mức mong muốn. Tuy
nhiên, trong thời gian ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột, triệt tiêu lẫn nhau giữa
các mục tiêu đó. Khi đó, tùy vào tình hình cụ thể, Ngân hàng trung ƣơng cần xác
định mục tiêu chính cần theo đuổi, hi sinh tạm thời các mục tiêu khác. Do đó điều
hành chính sách tiền tệ đòi hỏi cần có sự nhạy bén và linh hoạt để đạt đƣợc những
hiệu quả tốt nhất đối với nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển của một nền kinh tế thị trƣờng, sự mất cân đối vĩ mô
luôn luôn xuất hiện, ví dụ nhƣ mất cân đối giữa cung – cầu, đầu tƣ – tích lũy, tiêu
dùng và tiết kiệm… đều là những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Trong giai đoạn
từ 2007 đến nay, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng kinh tế tài chính, xuất
hiện các mất cân đối vĩ mô dẫn đến một số nƣớc có lạm phát cao. Việt Nam là một
nƣớc hội nhập, do đó những biến động của kinh tế thế giới tác động ngay tới nền
kinh tế của Việt Nam. Cùng với những thiếu sót trong điều hành kinh tế của Việt
Nam nhƣ: đầu tƣ vƣợt quá tích lũy, mất cân đối về cán cân thanh toán, mất cân đối
thu chi ngân sách dẫn đến bội chi lớn… Tất cả các yếu tố bên ngoài và bên trong

dẫn đến từ năm 2007 đến nay Việt Nam có lạm phát lớn.
Nghiên cứu việc sử dụng chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam
trong việc kiểm soát lạm phát là một vấn đề cần đƣợc đặt ra để làm sao điều hành
chính sách tiền tệ có hiệu quả, kiểm soát đƣợc lạm phát.
Với những nhận định trên, em quyết định lựa chọn đề tài: "Chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát". Đề tài
nghiên cứu về thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam từ năm 2007 đến nay, từ đó đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng các công cụ, góp phần hoàn thiện chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát một
cách tốt hơn.

2
2. Tình hình nghiên cứu
Một số công trình nghiên cứu trƣớc đây của các tác giả đã từng nghiên cứu
có đề cập đến Chính sách tiền tệ và lạm phát :
Hoàn thiện chính sách tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Luận
án tiến sĩ kinh tế của tác giả Phan Nữ Thanh Thủy (2007), Trƣờng Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa tại Việt Nam giai đoạn
2008 – 2012, Đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Trần Thị Vân Anh (2013),
Trƣờng Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
để kiềm chế lạm phát ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng của tác giả
Phạm Thị Phƣợng (2012) , Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nhìn lại chính sách tiền tệ 2011 – 2012 và gợi ý chính sách tiền tệ những năm
tiếp theo, Đề tài nghiên cứu khoa học của Nhóm nghiên cứu Học viện chính sách
phát triển (2012), Học viện chính sách phát triển.
Điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế ở Việt Nam, của tác giả Khuất Duy Tuấn (2012), Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.

Tuy nhiên từ 2007 đến nay có nhiều yếu tố mới, nhiều vấn đề mới, nên tác giả
nghiên cứu đề tài “Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trong việc
kiểm soát lạm phát” sẽ không trùng với các đề tài đã nghiên cứu trƣớc đó, vì nó phù
hợp với giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống lý thuyết về lạm phát và chính sách tiền tệ, sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Trung ƣơng.
- Phân tích thực trạng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong việc kiểm
soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 2007 đến nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nƣớc Việt Nam nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng: Chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát
từ năm 2007 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu đề tài bao gồm: phƣơng
pháp thống kê và mô tả trên cơ sở tập trung số liệu về chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam từ 2007 đến nay; phƣơng pháp tổng hợp sử dụng trong
việc tổng hợp các vấn đề lý thuyết về chính sách tiền tệ; phƣơng pháp so sánh để so
sánh thực trạng và đánh giá kết quả điều hành chính sách tiền tệ trong các năm của
giai đoạn nghiên cứu.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa đƣợc về mặt lý thuyết chính sách tiền tệ, cùng với thực trạng
chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát từ năm 2007 đến nay, qua đó có thể rút
ra vấn đề nảy sinh khi nghiên cứu về chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nƣớc
Việt Nam trong việc kiềm chế lạm phát.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của



3
Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu đƣợc kết cấu gồm 3
chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về lạm phát và chính sách tiền tệ kiểm
soát lạm phát của Ngân hàng Trung ƣơng.
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở Việt Nam từ
năm 2007 đến nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ đảm bảo kiểm soát lạm
phát của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam.

4
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƢƠNG
1.1. Quan điểm về lạm phát
1.1.1. Khái niệm
Theo các định nghĩa chính thống trong sách giáo khoa kinh tế thì lạm phát
(inflation) đƣợc coi là hiện tƣợng lƣợng tiền lƣu thông tăng vƣợt quá sự tăng trƣởng
hàng hóa sản xuất ra. Hiện tƣợng này dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hoá trong
nền kinh tế không ngừng tăng lên. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát.
Khái niệm về lạm phát đƣợc trình bày ở trên đƣợc mô tả theo quan điểm của
trƣờng phái tiền tệ. Đại diện cho trƣờng phái này là hai nhà kinh tế học Milton
Friedman và John Maynard Keynes.
Trƣờng phái tiền tệ cho rằng lạm phát chỉ xuất hiện do nguyên nhân tiền tệ
còn các nguyên nhân khác nhƣ “cầu kéo” hoặc “chi phí đẩy” đối với hàng hoá
không thể xảy ra lâu dài và thƣờng xuyên, mà chỉ có tính chất tạm thời.
Tuy nhiên, quan điểm về lạm phát tiền tệ gặp phải một trở ngại là việc xác định

khối lƣợng tiền tệ cần thiết cho lƣu thông là không khả thi, vì thực tế tổng lƣợng hàng
hoá, dịch vụ luân chuyển trong nền kinh tế luôn biến động. Ngoài ra, vòng quay tiền
cũng không ổn định và mục đích sử dụng tiền cũng luôn thay đổi. Do vậy, chúng ta
chỉ có thể nhận diện ra lạm phát qua dấu hiệu hàng hoá, dịch vụ tăng giá. Vì những
nguyên nhân này mà đa số các nhà kinh tế học đã đồng nhất tỷ lệ lạm phát với tỷ lệ
tăng giá.
Điển hình là nhà kinh tế học Paul Samuelson cho rằng lạm phát có thể xuất
phát từ các nguyên nhân sau: (1) Nguyên nhân cầu kéo (do các cơn sốc về nhu cầu
hàng hoá tiêu dùng); (2) Nguyên nhân phí phí đẩy (do các cơn sốc về phía cung);
hoặc (3) Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý (kỳ vọng) về lạm phát tăng mạnh trong
tƣơng lai; (4) Cung tiền tăng nhanh hơn lƣợng hàng hóa sản xuất (giống trƣờng phái
tiền tệ).
Sự khác biệt cơ bản trong quan điểm về các nguyên nhân gây ra lạm phát của

5
hai quan điểm về lạm phát ở trên là quan điểm tổng hợp của Paul Samuelson cho
rằng giá cả hàng hoá gia tăng dù là tạm thời cũng có thể coi là có lạm phát. Trong
khi đó, trƣờng phái tiền tệ mà đại diện là Milton Friedman và John Maynard Keynes
thì cho rằng chỉ khi mức giá chung tăng lên liên tục trong một quá trình kéo dài có
tính quy luật thì mới gọi là lạm phát.
K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lƣu thông
những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản
phẩm giữa các giai cấp trong dân cƣ có lợi cho giai cấp tƣ sản. Ở đây, Marx đã
đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới ngƣời ta có thể hiểu lạm
phát là do nhà nƣớc, do giai cấp tƣ sản để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan
điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát "lƣu thông tiền tệ" song định nghĩa
này hoàn hảo hơn vì nó đề cập tới bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên
nó có nhƣợc điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù riêng có của nền kinh tế tƣ
bản chủ nghĩa mà lạm phát là phạm trù của kinh tế hàng hóa và chƣa nêu đƣợc ảnh
hƣởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.

Trên đây là các quan điểm của các trƣờng phái kinh tế học về lạm phát, nói
chung các quan điểm đều chƣa hoàn chỉnh, nhƣng đã nêu đƣợc một số mặt của hai
thuộc tính cơ bản của lạm phát. Theo R.Jackman.C.Muley và J.Trevithich : "Lạm
phát có thể định nghĩa đúng nhất là xu hƣớng duy trì mức giá chung cao", hoặc
"Lạm phát là một quá trình tăng giá liên tục, tức là mức giá chung tăng lên hoặc quá
trình đồng tiền liên tục giảm giá"
4
. Tuy nhiên, việc nhìn nhận lạm phát bằng định
nghĩa này hay định nghĩa khác khó có thể đi đến thống nhất theo từng quan điểm
riêng biệt. Nhƣng lạm phát có thể nhận diện thông qua những đặc trƣng cơ bản.
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của lạm phát
- Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức.
- Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục trong thời gian dài theo sự mất giá
của tiền giấy.
- Sự phân phối lại qua giá cả.
- Sự bất ổn về kinh tế - xã hội.

6
1.1.3. Biểu hiện của lạm phát
- Là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất
định. Điều này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hoá dịch vụ đồng thời
phải tăng lên cùng 1 tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế
vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của 1 số hàng hoá giảm, nếu nhƣ giá cả của các
hàng hoá và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
- Lạm phát cũng có thể là sự suy giảm sức mua trong nƣớc của đồng nội tệ.
Trong bối cảnh lạm phát, thì 1 đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua đƣợc ngày càng ít hàng
hoá và dich vụ hơn. Hay nói cách khác, khi có lạm phát, chúng ta sẽ phải chi càng
nhiều đồng nội tệ hơn để mua 1 giỏ hàng hoá và dịch vụ cố định. Nếu thu nhập
bằng tiền không theo kịp tốc độ trƣợt giá, thì thu nhập thực tế tức là sức mua của
thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống trong

bối cảnh có lạm phát phụ thuộc vào thu nhập bằng tiền, tức là, các cá nhân có nhận
thêm số đồng nội tệ đã giảm giá trị có đủ để bù đắp cho sự gia tăng của mức giá hay
không. Nhƣ vậy, mọi ngƣời không nhất thiết trở nên nghèo hơn trong bối cảnh có
lạm phát.
- Lạm phát không chỉ đơn thuần là sự tăng của mức giá mà đó phải là sự gia
tăng liên tục trong mức giá. Nếu nhƣ chỉ có 1 cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá thì
giá cả chỉ bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban dầu ngay sau đó. Hiện tƣợng tăng
giá tạm thời nhƣ vậy không đƣợc gọi là lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi cú
sốc thƣờng có ảnh hƣởng dài đối với nền kinh tế và do đó có thể gây ra lạm phát.
Nhƣ vây, về bản chất lạm phát là một hiện tƣợng tiền tệ khi những biến động
tăng lên của giá cả diễn ra trong một thời gian dài.
1.1.4. Phân loại lạm phát
Ta có thể phân loại lạm phát theo mặt định tính hoặc định lƣợng. Về mặt định
tính chúng ta sẽ chia lạm phát thành: lạm phát thuần túy, lạm phát cân bằng và lạm
phát không cân bằng… nhƣng trong thực tế chúng ta thƣờng hay sử dụng đó là cách
phân loại lạm phát trên mặt định lƣợng là chủ yếu. Chúng ta sẽ tiếp cận lạm phát
trên mặt định lƣợng: Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính trên năm, ngƣời

7
ta chia lạm phát thành 3 loại
1
:
- Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dƣới
10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tƣơng đối. Trong thời
kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thƣờng, đời sống của ngƣời lao động ổn định. Sự
ổn định đó đƣợc biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không
xẩy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lƣợng lớn Có thể nói, lạm
phát vừa phải tạo tâm lý an tâm đối với những ngƣời lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro
nên sẵn sàng đầu tƣ cho sản xuất, kinh doanh.

- Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tƣơng đối nhanh với tỷ lệ 2
hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên
nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng đƣợc chỉ số hoá. Lúc này
ngƣời dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền
ở mức lãi suất bình thƣờng. Loại lạm phát này khi đã kéo dài và trở nên trầm trọng
sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
- Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vƣợt xa
lạm phát phi mã, tốc độ lƣu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không
ổn định, tiền lƣơng thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin
không còn chính xác, các yếu tố thị trƣờng biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm
vào tình trạng rối loạn. Trong lịch sử đã chứng kiến nhiều "cơn" lạm phát ở rất
nhiều nƣớc lên tới trên ba chữ số nhƣ lạm phát ở Bolivia năm 1985 đến
11000%/năm, đó là tình trạng vào 1/1/1985 nếu một chiếc bánh ngọt có giá bằng 1
đồng Bolivia, thì đến 1/1/1986 (sau một năm) nó có giá là 111 đồng (hay tăng lên
gấp 111 lần) và điển hình nhất là siêu lạm phát ở Đức (1922-1923) kể từ tháng
11/1922 đến tháng 11/1923 giá cả hàng hóa bình quân ở Đức tăng 1500 tỷ lần so
với mức trƣớc năm 1914, điều đó tƣơng đƣơng với việc mua một con tem vào năm
1914 có giá là 29 xen Mỹ thì đến năm 1923 con tem ấy có giá là 435 USD. Rồi siêu
lạm phát ở Việt Nam vào những năm 80 của thế kỉ trƣớc lên tới hơn 700% và hậu
quả nó gây ra cho các nền kinh tế là rất to lớn.

8
Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nƣớc đang phát triển
thƣờng diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng
hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại: Lạm phát kinh niên kéo
dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dƣới 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thƣờng
kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm
với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
1.1.5. Nguyên nhân gây lạm phát
Trên thực tế thì lạm phát ở các nƣớc xảy ra ở những thời điểm khác nhau là do

những nguyên nhân khác nhau Tuy nhiên không vì thế mà lạm phát không có
những nguyên nhân chung. Bằng việc tổng hợp ở nhiều nƣớc trên thế giới và qua
nhiều thời kì, giai đoạn phát triển khác nhau của các nền kinh tế thì theo các nhà
kinh tế học hiện đại, nguyên nhân của lạm phát đƣợc xuất hiện từ ba nhóm nguyên
nhân chủ yếu sau
15
: Đó là nhóm nguyên nhân do cơ cấu, do tăng trƣởng tiền tệ và
do thâm hụt ngân sách nhà nƣớc
Nguyên nhân thứ nhất: Nguyên nhân do cơ cấu. Trong nhóm nguyên nhân
gây ra lạm phát này chúng ta sẽ đi vào hai nguyên nhân đó là hiện tƣợng Cầu kéo và
hiện tƣợng chi phí đẩy.
Hiện tƣợng Cầu kéo: lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối giữa
tổng cung và tổng cầu hàng hóa dịch vụ trong nền kinh tế, do những cú sốc về cầu diễn
ra đột ngột. Lạm phát do cầu kéo sẽ làm mức sản lƣợng của nền kinh tế tăng lên và
mức giá chung của nền kinh tế cũng tăng lên theo đó Đây là theo lý thuyết kinh tế
học của Keynes về phân tích tổng cung, tổng cầu (AD-AS).
Hiện tƣợng chi phí đẩy: Chi phí của sản xuất là yếu tố cấu thành nên giá cả
hàng hóa cho nên sự biến động của chi phí sản xuất là nguyên nhân có thể gây ra
lạm phát. Các nhân tố có thể ảnh hƣởng trực tiếp đến chi phí sản xuất là : giá
nguyên vật liệu tăng (do tính chất khan hiếm của nguyên vật liệu đƣợc khai thác
trong tự nhiên nên khi trữ lƣợng giảm xuống sẽ làm giá cả của nó tăng lên). Thứ hai
là chi phí để mua sức lao động. Thứ ba là chi phí vốn (chi phí huy động vốn ngày
một cao hơn). Ngoài ra thì doanh nghiệp còn bị rất nhiều áp lực từ phía nhà nƣớc có

9
thể làm giá sản phẩm tăng cao (nhƣ phí và thuế thu nhập ).
Các chi phí sản xuất này khi tăng trong cả nền kinh tế sẽ làm cho mặt bằng giá
cả của hàng hóa sẽ tăng cao gây nên lạm phát.
Ví dụ : Năm 1973 - 1978 OPEC nâng giá dầu mỏ, năm 1990 - 1991 khủng
hoảng vịnh persian, cả hai lần giá cả hàng hóa bình quân ở hầu hết các nƣớc trên thế

giới đều tăng.
Nguyên nhân thứ hai : Nguyên nhân tăng trƣởng tiền tệ. Khi nền kinh tế có
sự tăng trƣởng tiền tệ một cách quá mức và kéo dài thì cũng gây nên hiện tƣợng lạm
phát: khi sản lƣợng của nền kinh tế Y tăng 1% thì lƣợng tiền cung ứng cần thiết cho
lƣu thông hàng hóa chỉ cần tăng nhỏ hơn 1%, nhƣng trong thực tế khi sản lƣợng của
nền kinh tế Y tăng lên 1% thì lƣợng cung tiền thực tế thƣờng tăng với một mức độ
lớn hơn 1% đây chính là tăng quá mức và quá trình này kéo dài thì sẽ gây nên lạm
phát do tăng trƣởng tiền tệ.
Rõ ràng dù nhu cầu tiền danh nghĩa có tăng hay không thì mọi sự tăng lên của
cung ứng tiền tệ danh nghĩa - về mặt ngắn hạn - đều nhanh chóng gây nên lạm
phát… Đây là một nguyên nhân khá phổ biến gây nên hiện tƣợng lạm phát ở các
quốc gia trên thế giới.
Nguyên nhân thứ ba: Bội chi ngân sách nhà nƣớc (Nguyên nhân từ phía chính
phủ).
Bội chi NSNN ở mức cao đều có nguy cơ gây ra lạm phát. Bởi vì, khi ngân
sách bị bội chi có thể đƣợc bù đắp bằng phát hành tiền hoặc vay nợ, đều gây nên
nguy cơ lạm phát tăng.
Thứ nhất, việc phát hành tiền trực tiếp làm tăng cung tiền tệ trên thị trƣờng sẽ
gây lạm phát cao, đặc biệt khi việc tài trợ thâm hụt lớn và diễn ra liên tục thì nền
kinh tế phải trải qua lạm phát cao và kéo dài nhƣ giai đoạn 1986 – 1990 ở Việt
Nam. Sự gia tăng cung tiền có thể không làm tăng lạm phát nếu nền kinh tế đang đà
tăng trƣởng, mức cầu tiền giao dịch tăng lên phù hợp với mức tăng của cung tiền.
Tuy nhiên, trong trƣờng hợp khu vực tƣ nhân đã thỏa mãn với lƣợng tiền họ đang
nắm giữ (mức cầu tiền tƣơng đối ổn định) thì sự gia tăng của cung tiền làm cho lãi

10
suất thị trƣờng giảm, nhu cầu tiêu dùng về hàng hóa dịch vụ, nhu cầu đầu tƣ sẽ tăng
lên kéo theo sự tăng của tổng cầu nền kinh tế, mặt bằng giá cả sẽ tăng lên gây áp lực
lạm phát. Ngƣời ta gọi trƣờng hợp khi chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng
cách tăng cung tiền là hiện tƣợng chính phủ đang thu "thuế lạm phát" từ những

ngƣời đang nắm giữ tiền.
Ví dụ: Ở Việt Nam năm 1984, chính phủ phát hành tiền để bù đắp thâm hụt
ngân sách là 0,4 tỷ đồng; năm 1985: 9,3 tỷ đồng; năm 1986: 22,9 tỷ đồng; năm
1987: 89,1 tỷ đồng; năm 1988: 450 tỷ đồng; năm 1989: 1.655 tỷ đồng và năm 1990
là 1.200 tỷ đồng. Vì vậy, trong những năm 80 nền kinh tế của nƣớc ta rơi vào tình
trạng siêu lạm phátcụ thể: năm 1984 tỷ lệ lạm phát là 64,897%; năm 1985 là
91,6025; 1986 là 453,538%; năm 1987 là 360,357%; năm 1988 là 374,354%; năm
1989 là 95,77% và năm 1990 là 36,031%.
Thứ hai, bù đắp thâm hụt bằng nguồn vay nợ trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài,
việc vay nợ trong nƣớc bằng cách phát hành trái phiếu ra thị trƣờng vốn, nếu việc
phát hành diễn ra liên tục thì sẽ làm tăng lƣợng cầu quỹ cho vay, do dó, làm lãi suất
thị trƣờng tăng. Để giảm lãi suất, Ngân hàng Trung ƣơng phải can thiệp bằng cách
mua các trái phiếu đó, điều này làm tăng lƣợng tiền tệ gây lạm phát. Hay vay nợ
nƣớc ngoài để bù đắp bội chi ngân sách bằng ngoại tệ, lƣợng ngoại tệ phải đổi ra
nội tệ để chi tiêu bằng cách bán cho Ngân hàng Trung ƣơng, điều này làm tăng
lƣợng tiền nội tệ trên thị trƣờng tạo áp lực lên lạm phát.
Thực tế những năm qua, thâm hụt ngân sách Việt Nam đƣợc tài trợ phần lớn
bằng cách vay nợ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Lƣợng trái phiếu này
có thể đƣợc mua bởi Ngân hàng Nhà nƣớc (hình thức cấp tín dụng trực tiếp cho
Chính phủ) sẽ làm tăng lƣợng tiền cơ sở. Hoặc lƣợng trái phiếu đƣợc mua bởi các
ngân hàng thƣơng mại, sau đó các ngân hàng thƣơng mại đem cầm cố chúng tại
Ngân hàng Nhà nƣớc thông qua nghiệp vụ thị trƣờng mở hoặc nghiệp vụ tái cấp vốn
(cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ). Điều này cũng làm tăng lƣợng tiền cơ sở và
tăng cung tiền gây lạm phát. Theo thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
(HNX), khối lƣợng trái phiếu Chính phủ và Trái phiếu Chính phủ bảo lãnh đang lƣu

11
hành có giá trị lên tới 336.000 tỷ đồng, tƣơng đƣơng hơn 13% GDP danh nghĩa và
gần 12% cung tiền M2 năm 2011. Ngoài ra, bên cạnh việc vay nợ trong nƣớc, Việt
Nam còn vay nợ nƣớc ngoài để tài trợ thâm hụt, số tiền vay nợ nƣớc ngoài chiếm

1/3 thâm hụt NSNN, tƣơng đƣơng 1,5 – 1,7% GDP. Đây chính là một trong những
nguyên nhân gây ra lạm phát cao ở Việt Nam trong những năm 2007 - 2008 và
2010 - 2011.
Trƣờng hợp chính phủ không dùng tiền phát hành để bù đắp thâm hụt ngân
sách nhƣng nếu bội chi ngân sách có tỷ lệ quá lớn so với GDP (trên 3% so với
GDP) thì cũng gây lạm phát
13
.
Bảng 1.1: Tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2012
Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Theo cổng thông tin điện tử - Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
Ngoài ra trong thực tế, có rất nhiều nhà kinh tế đứng trên những góc độ
khác nhau họ quan niệm có những nguyên nhân khác nhau gây nên lạm phát, nhƣng
một cách cơ bản mà nói thì những nguyên nhân nêu trên là những nguyên nhân chủ
yếu và phổ biến trong thực tế.
1.1.6. Hậu quả của lạm phát tới nền kinh tế
Nhƣ chúng ta đã biết lạm phát có ba mức độ
10
: lạm phát vừa phải, lạm phát
phi mã và siêu lạm phát. Trong ba mức độ của lạm phát này khi bàn đến hậu quả
của lạm phát chúng ta sẽ tiếp cận từ hai mức độ lạm phát cuối cùng vì mức độ lạm
phát vừa phải không ảnh một cách tiêu cực nhiều nhƣ hai mức độ còn lại, trái lại nó
còn có mặt tích cực của mình đối với nền kinh tế. Lạm phát tác động một cách trực
tiếp và chủ yếu đến các đối tƣợng sau:
Năm
2009
2010
2011
2012
Tổng thu

404.000
462.500
605.000
762.900
Tổng chi
491.300
582.200
725.600
903.100
Thâm hụt
87.300
119.700
120.600
140.200
Bội chi /GDP
6,9
5,8
4,9
4,8
Lạm phát (%)
6,52
11,75
18,58
6,81

12
Tác động của lạm phát đối với sản lƣợng của nền kinh tế: Khi mới bắt đầu
bƣớc vào lạm phát thì một điều đặc biệt là lạm phát có thể làm cho sản lƣợng của
nền kinh tế tăng lên, điều đó là do khi mới bắt đầu lạm phát giá cả có tăng nhƣng
không nhiều khi đó các doanh nghiệp bán đƣợc hàng hóa với giá cao làm cho doanh

thu của họ tăng lên làm họ đầu tƣ thêm để mở rộng sản xuất. Lúc đó đôi khi tỷ lệ
thất nghiệp trong nền kinh tế còn giảm xuống do có nhiều doanh nghiệp thuê thêm
công nhân để tăng cƣờng sản xuất… Nhƣng sau đó một thời gian không dài do giá
tiếp tục tăng rất nhanh không ngừng, các doanh nghiệp đều thấy rằng, nếu mà họ để
hàng hóa lại, để nguyên vật liệu lại và đợi cho tăng giá thì họ sẽ bán, lúc đó chắc
chắn rằng họ sẽ có đƣợc nhiều tiền hơn là sản xuất, chính vì vậy sản lƣợng của nền
kinh tế giảm xuống một cách nhanh chóng, các doanh nghiệp cất giữ nguyên vật liệu
để chờ giá tăng nên thất nghiệp trong nền kinh tế tăng lên một cách nhanh chóng. Mặt
khác, nếu họ tiếp tục sản xuất, do giá nguyên vật liệu tăng, chi phí tăng làm cho giá
thành hàng hóa tăng, giá bán tăng dẫn đến hàng hóa không bán đƣợc, tỷ lệ tồn kho cao,
doanh nghiệp không thể tiếp tục sản xuất, sản xuất bị đình trệ. Ví dụ nhƣ ở Việt Nam
năm 2010 đến 2013.
Tác động của lạm phát đối với hàng hóa và lƣu thông tiền tệ: Lạm phát
làm cho lƣu thông hàng hóa và tiền tệ trong nền kinh tế trở nên ách tắc đình đốn: -
Về phía hàng hóa: do sự tích trữ hàng hóa để chờ tăng giá, và tình trạng tìm kiếm
hàng để mua tích trữ gây nên sự khan hiếm hàng hóa, cầu giả tạo chính điều này
sẽ làm cho tình trạng lạm phát sẽ trở nên nóng bỏng hơn, gây nên sự leo thang của
giá cả ở chu kì sau Đối với trƣờng hợp không tích trữ hàng để chờ tăng giá, vì lạm
phát làm cho giá cả hàng hóa tăng, gặp phải sức mua yếu dẫn đến tồn kho lớn, hàng
hóa không lƣu thông đƣợc. Ví dụ, năm 2011 ở Việt Nam, tỷ lệ lạm phát là 18.13%,
nhƣng tốc độ tăng GDP chỉ 5,89% do đó bắt đầu từ năm 2012 chỉ số tồn kho hàng
hóa của doanh nghiệp bắt đầu tăng. Cụ thể nhƣ biểu đồ sau:

13

Hình 1.1: Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
- Về lƣu thông tiền tệ: Bị rút ra khỏi hệ thống ngân hàng để mua hàng hóa dự trữ
hoặc chuyển đổi sang dạng phi tài chính, tiền tệ không quay trở lại đƣợc với ngân hàng,
trong nền kinh tế lúc này có một hiên tƣợng đó là hiện tƣợng "thiếu tiền": Hệ thống ngân

hàng thiếu tiền để cho vay, thiếu tiền để thanh toán vì tiền bị rút ra nhiều, các doanh
nghiệp không vay đƣợc tiền để duy trì sản xuất kinh doanh
Lạm phát với kinh tế đối ngoại: Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, lạm phát sẽ
làm cho những khoản nợ quốc gia của chính phủ với các nƣớc sẽ trở nên trầm trọng
hơn trƣớc vì: nếu lạm phát ở trong nƣớc cao hơn nƣớc ngoài làm cho tỷ giá không
ổn định, đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ, do vậy số nợ tính trên đồng nội tệ tăng
lên làm tăng gánh nặng nợ quốc gia. Mặt khác, lạm phát tăng, làm cho giá cả hàng
hóa trong nƣớc tăng lên từ đó giảm tính cạnh tranh của hàng hóa trong nƣớc đồng
thời kìm hãm xuất khẩu, xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng làm sản lƣợng trong nƣớc
giảm sút; 1 mặt làm giảm tổng cầu, mặt khác làm cán cân thƣơng mại thâm hụt.
Lạm phát với các vấn đề xã hội:
- Lạm phát làm tình hình xã hội rối loạn làm cho đời sống ngƣời dân đặc biệt
là những ngƣời làm công ăn lƣơng giảm sút nghiêm trọng điều này là do tốc độ của

14
tăng giá tăng lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng lƣơng, tiền lƣơng danh nghĩa
không thể điều chỉnh cho kịp với tốc độ tăng của lạm phát. Chính vì vậy tiền lƣơng
thực tế của những ngƣời công nhân luôn ở mức rất thấp và không ngừng giảm
xuống một cách nhanh chóng
- Lạm phát làm phân phối lại một cách bất hợp lý: Lạm phát đã “móc”túi của
những ngƣời cho vay chuyển sang túi của những ngƣời đi vay (với mức lạm phát
lớn hơn dự kiến) và ngƣợc lại điều này làm phân phối bất công bằng trong nền kinh
tế, và những ngƣời có tiền họ mua hàng hóa và bán với giá cao họ sẽ giầu lên nhanh
chóng, còn đối với những ngƣời nghèo thì ngƣợc lại. Do vậy lạm phát có thể làm
tình trạng phân hóa giầu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc
1.1.7. Các giải pháp kiểm soát lạm phát về mặt lý thuyết
2
- Kiểm soát khối lƣợng tiền cung ứng thông qua việc thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt, thực hiện các giải pháp hút tiền tệ về một cách phù hợp và linh hoạt;
- Kiểm soát khối lƣợng tín dụng và tốc độ gia tăng khối lƣợng tín dụng;

- Nâng các lãi suất cơ bản của Ngân hàng Trung ƣơng để hạn chế cung tiền tệ;
- Kiểm soát và điều hành tỷ giá sao cho tỷ giá diễn biến trong trạng thái ổn định;
- Kiểm soát tỷ lệ Đầu tƣ xã hội/GDP sao cho không vƣợt quá khả năng tích
lũy, tiết kiệm của nền kinh tế;
- Kiểm soát bội chi ngân sách ở mức hợp lý;
- Có chính sách để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tăng
lƣợng cung hàng hóa cho thị trƣờng, không để thị trƣờng khan hiếm;
- Kiểm soát nhập khẩu ở mức hợp lý phục vụ cho việc nhập khẩu đáp ứng cho
nhu cầu sản xuất, không để hiện tƣợng nhập khẩu lạm phát vào trong nƣớc.
1.2. Khái niệm chính sách tiền tệ
1.2.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ
Khái niệm: Theo Luật Ngân hàng Nhà nƣớc năm 2010: Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền,
bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát,
quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra
18
.

15
Tùy điều kiện các nƣớc, chính sách tiền tệ có thể đƣợc xác lập theo hai hƣớng:
Chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, giảm thất nghiệp nhƣng lạm phát tăng - chính sách tiền tệ chống thất
nghiệp); hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm
đầu tƣ vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhƣng thất nghiệp tăng -
chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
Có thể nói sử dụng CSTT sao cho hiệu quả là một vấn đề hiện đang đƣợc
tranh cãi rất nhiều vì nó ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. Tuy
điều hành CSTT giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi nƣớc rất
khác nhau song việc xây dựng và thực thi CSTT của các NHTƢ đều hƣớng đến
mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền.

Vị trí chính sách tiền tệ: Trong các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc thì
chính sách tiền tệ giữ vai trò đặc biệt quan trọng và trung tâm, thể hiện:
- Chính sách tiền tệ đƣợc sử dụng một cách thƣờng xuyên trƣớc bất kỳ một biến
đổi nào của tín hiệu thị trƣờng. Chính sách tiền tệ có tác động nhanh chóng đến các biến
số tiền tệ, có ánh hƣởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế.
- Chỉ khi có một chính sách tiền tệ đúng đắn thì các chính sách kinh tế vĩ mô khác
mới đƣợc sử dụng hiệu quả, nó chi phối việc thực hiện các chính sách khác.
- Khi có sự bất ổn bên trong nền kinh tế hay cú sốc từ bên ngoài thì chính sách
tiền tệ bao giờ cũng đƣợc Ngân hàng trung ƣơng sử dụng đầu tiên.
1.2.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô là một hệ thống rất đa dạng gồm nhiều
chính sách kinh tế tạo thành. Mỗi chính sách có đặc điểm, nội dung và công cụ điều
tiết khác nhau nhƣng đều có chung một mục đích là tạo ra môi trƣờng kinh tế vĩ mô
lành mạnh, có lợi cho sự tăng trƣởng và phát triển nền kinh tế. Trong hệ thống các
chính sách đó, chính sách tiền tệ giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhờ có các ƣu điểm
mà các chính sách kinh tế vĩ mô khác không có đƣợc nên chính sách tiền tệ đƣợc
coi là công cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế vĩ mô của đất nƣớc. Tuy nhiên, là một
bộ phận nằm trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách tiền tệ chỉ có thể

16
phát huy tác dụng một cách đầy đủ khi chúng đƣợc kết hợp chặt chẽ với nhau, đƣợc
thống nhất với nhau cả về mục tiêu cũng nhƣ phƣơng pháp tiến hành. Là công cụ vĩ
mô của nhà nƣớc, chính sách tiền tệ phải phục vụ cho việc thực hiện những mục
tiêu kinh tế vĩ mô sau
14
:
* Kiểm soát lạm phát: Là một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ trong
điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện đại thƣờng xuyên lạm phát. Tuy nhiên, trong một
chừng mực nhất định, lạm phát lại là yếu tố kích thích tăng trƣởng kinh tế, bởi vì
lạm phát gắn liền với việc đƣa thêm khối lƣợng tiền ra nền kinh tế, từ đó tạo điều

kiện để các doanh nghiệp mở rộng đầu tƣ, thu hút ngƣời lao động, thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế. Vì vậy, ngân hàng trung ƣơng phải góp phần duy trì sự tăng trƣởng
liên tục nhƣng ổn định, đồng thời triệt tiêu những yếu tố gây nên sự gia tăng nhu
cầu giả tạo hoặc đẩy chi phí lên cao làm tăng lạm phát.
Kiểm soát lạm phát gắn liền với việc ổn định giá trị đối nội của đồng tiền. Giá
trị đối nội của đồng tiền phản ánh sức mua của đồng tiền, khi lạm phát cao thì sức
mua của đồng tiền giảm và ngƣợc lại. Ngoài ra, ngân hàng trung ƣơng còn phải chú
trọng đến việc ổn định giá trị đối ngoại của nó. Giá trị đối ngoại của đồng tiền gắn
liền với tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái lại chịu sự chi phối của cung cầu ngoại tệ, dự
trữ ngoại hối, tình hình lạm phát trong nƣớc và chính sách hối đoái. Đến phiên
mình, khi tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ tác động ngay đến xuất nhập khẩu, đến sức
mua đồng tiền và tất cả các hoạt động trong nền kinh tế. Do đó, việc kiểm soát lạm
phát luôn gắn liền với việc ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền.
* Tăng trƣởng kinh tế: Góp phần tăng trƣởng kinh tế là một trong ba mục tiêu
của chính sách tiền tệ. Vì ngân hàng trung ƣơng là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh
toán trong nền kinh tế nên nó đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
này.
Tăng trƣởng kinh tế thể hiện ở sự gia tăng của GDP (hay GNP) hàng năm hoặc
GDP (hay GNP)/ngƣời trong năm. Thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế còn thể hiện ở việc
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của quốc gia. Thông thƣờng, muốn
thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, Ngân hàng trung ƣơng thực hiện chính sách tiền tệ mở

×