Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

các nguyên tắc trong quản lí dịch vụ y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 18 trang )

Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thị trường hiện nay, xuất hiện rất nhiều hình thức kinh doanh và cung cấp
dịch vụ. tuy nhiên dịch vụ y tế lại là một loại hình kinh doanh được chú trọng nhiều
nhất, bởi lẽ dịch vụ y tế là một loại hàng hóa không những liên quan đến sức khỏe và
đời sống của con người, liên quan đến nguồn lực của cả một quốc gia mà còn liên quan
đến sự bền vững và lâu dài của quốc gia đó.
Dịch vụ y tế tốt, cần phải đảm bảo tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
1. Toàn diện/đầy đủ
2. Độ bao phủ
3. Sự chấp nhận được
4. Tính liên tục
5. Chất lượng
6. Công bằng
7. Hiệu lực
8. Hiệu quả
9. An toàn
1
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Bên cạnh những thành công trong việc cung cấp dịch vụ y tế như giảm thiểu, thậm
chí là xóa bỏ những bệnh có tính chất nguy hiểm và lây lan, đáp ứng nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân. Việc cung cấp các dịch vụ y tế còn nhiều thiếu sót, một bộ
phận người dân vẫn chưa thực sự được hưởng một cách trọn vẹn những dịch vụ y tế
công cũng như dịch vụ y tế tư nhân. Điều đó là do các dịch vụ y tế cung cấp ra vẫn chưa
tuân thủ được những yêu cầu của 9 nguyên tắc nêu trên.
A. TÍNH LIÊN TỤC
I. Khái niệm
Tính liên tục là việc cung cấp dịch vụ cần được tổ chức để cung cấp cho từng
người dân với sự liên tục qua mạng lưới dịch vụ y tế, các tuyến chăm sóc sức khỏe.
II. Phân tích ưu, nhược điểm


1. Hệ khám chữa bệnh:
a. Ưu điểm:
Hiện nay, hệ thống bệnh viện Việt Nam được sắp xếp trên cơ sở phân bố rộng
khắp, thuận tiện cho khả năng tiếp cận rộng rãi của các bộ phận dân số khác nhau
trong toàn xã hội.
Các bệnh viện được hoạt động liên tục 24/7 và những ngày lễ tết để đảm bảo
người dân có thể khám chữa bệnh vào tất cả các ngày, sẵn sàng ứng phó với việc bệnh
nhân có thể nhập viện bất cứ lúc nào.
Điển hình như bệnh viện Bạch Mai Chuẩn bị cho dịp tết nguyên đán: [7]
Về công tác trực đường dây nóng:
- Tổ chức trực đầy đủ 4 cấp: lãnh đạo, chuyên môn, hậu cần (Dược, điện, nước,
oxy, trực đội xe…) và bảo vệ.
2
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
- Danh sách nhân viên trực và số điện thọai được niêm yết tại các đơn vị và
phòng trực lãnh đạo.
- Nhân viên trực phải đảm bảo thời gian và có mặt tại nơi quy định.
- Trường Trung cấp Y Bạch Mai hỗ trợ học sinh trực (447 lượt) cho 13 khoa có
nhu cầu.
Về Công tác Dược:
- Chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc trong kho, đặc biệt là các thuốc cấp cứu phục vụ
bệnh nhân trong thời gian nghỉ Tết.
- Chuẩn bị đầy đủ cơ số dịch truyền, phối hợp với đơn vị dịch vụ đưa dịch truyền
đến các khoa dự trữ phục vụ BN trong thời gian Tết.
- Nhà thuốc bệnh viện đảm bảo trực 24/24h trong các ngày nghỉ Tết.
- Phối hợp với các Công ty cung cấp thuốc, dịch truyền, có số ĐT liên hệ khi cần
thiết.
- Sắp xếp kho tàng gọn gàng, vệ sinh sạch sẽ, chuẩn bị đầy đủ các bình xịt cứu
hỏa, đèn pin…
- Niêm yết danh sách và số điện thoại nhân viên trực và cán bộ lãnh đạo khoa

Dược để liên hệ khi cần thiết.
Công tác Kiểm soát nhiễm khuẩn, Dự trữ máu, Đội Cấp cứu Ngoại viện, Hành
chính quản trị… đều được chuẩn bị sẵn sàng nhằm ứng phó tốt mọi tình huống xảy
ra.
Ở BV Bạch Mai Bên cạnh các hoạt động chuyên môn, bệnh viện còn lo cho bệnh
nhân và nhân viên y tế trong 4 ngày Tết. Cụ thể, BV sẽ Cung cấp suất ăn miễn
phí cho nhân viên y tế (bao gồm cả học sinh, sinh viên tham gia trực) trong 4
ngày trực: 29 và 1,2,3 Tết; Dự kiến phát 800 suất quà (90.000 đ/suất) cho bệnh
nhân ở lại ăn Tết tại bệnh viện; Cung cấp ăn miễn phí cho bệnh nhân
(100.000đ /ngày/3 bữa) cho các bệnh nhân trong 4 ngày Tết; Dịch vụ ăn uống:
Phục vụ trong tất cả các ngày Tết. Duy trì các họat động bảo đảm vệ sinh ăn
uống và an toàn thực phẩm. [7]
b. Nhược điểm:
Việc cung cấp, phát thuốc cho người bệnh ở nhiều nơi còn nhiều thiếu xót, khiến
người dân không thể điều trị bệnh liên tục được
Tại Cà Mau, nhiều người dân ở 2 xã Khánh Tiến và Nguyễn Phích (H.U Minh) cũng bức
xúc khi đưa con em đến trạm y tế xã khám bệnh nhưng bị từ chối khám vì thiếu thuốc.
Ông Trương Việt Kiên, Phó trưởng trạm y tế xã Nguyễn Phích, giải thích: “Do thiếu
thuốc nên vừa qua chúng tôi không khám bệnh được. Nhưng nếu bệnh nhân đồng ý
khám, tự mua thuốc thì chúng tôi vẫn khám và cho toa. Hiện chúng tôi đã khám lại
bình thường, nhưng thuốc chỉ đáp ứng một phần nào đó thôi, chứ không đủ như
trước” [8]
c. Giải pháp:
3
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Cải tiến quy trình khám bệnh, xét nghiệm, thăm dò chức năng, thủ tục vào viện,
chuyển viện, ra viện, thanh toán viện phí cũng như chế độ bảo hiểm y tế để đảm bảo
tính liên tục trong khám chữa bệnh [9].
2. Hệ y tế dự phòng.
a. Ưu điểm

Chương trình tiêm chủng mở rộng là một ví dụ điển hình nhất. Chương trình bắt
đầu được triển khai ở Việt Nam từ năm 1981, đến năm 1985 chương trình được đẩy
mạnh và triển khai trên phạm vi cả nước, với những nỗ lực rất lớn của chương trình
tiêm chủng mở rộng đã từng bước được mở rộng về địa bàn và đối tượng tiêm chủng.
Năm 1995 toàn bộ trẻ em đối tượng trên toàn quốc đã có cơ hội được tiếp cận với tiêm
chủng mở rộng. Từ năm 1985 triển khai 6 loại vắc xin phòng bệnh lao, bạch hầu, ho
gà, uốn ván, sởi, bại liệt. Năm 1997, 4 vắc xin mới được triển khai miễn phí trong
chương trình tiêm chủng mở rộng của nước ta là: viêm gan A, viêm não Nhật Bản,
thương hàn, tả. Một số thành tựu đạt được như:
Không còn bệnh bại liệt, năm 1984 cả nước có 1223 ca mắc bại liệt, nhưng nhờ
việc tiêm chủng được triển khai liên tục thì năm 1998, cả nước không ghi nhận ca
bại liệt nào nữa.
Uốn ván sơ sinh giảm 70 lần số ca mắc bệnh so với năm bắt đầu triển khai tiêm
chủng mở rộng. Cả nước giảm từ 334 ca mắc (năm 1991) xuống 32 ca mắc uốn ván
sơ sinh (năm 2011).
Khống chế và loại trừ bệnh sởi: giảm 23 lần số ca mắc bệnh trên cả nước từ 65148
ca mắc (năm 1984) xuống còn 750 ca (năm 2011).
Giảm tỷ lệ mắc bệnh bạch hầu: giảm 167 lần số ca mắc bệnh. Năm 1984 cả nước có
2177 ca mắc. Năm 2011, cả nước ghi nhận 13 ca mắc.
Vắc xin viêm gan B được triển khai từ năm 1997. Những năm đầu chỉ triển khai ở
những vùng nguy cơ cao của bệnh. Từ năm 2003, được sự hỗ trợ của Liên minh
toàn cầu và tiêm chủng (GAVI) vắc xin viêm gan B được triển khai trên toàn quốc
cho trẻ <1 tuổi. Từ năm 2006 thì tỷ lệ tiêm chủng vắc xin viêm gan B đủ 3 mũi ở trẻ
dưới 1 tuổi lôn đạt trên 90%.[1]
Một số chương trình phòng chống các dịch bệnh được triển khai hằng năm, với
mục tiêu giảm số trường hợp cũng như giảm tỉ lệ mắc bệnh qua các năm.
Điển hình là chương trình phòng chống sốt rét, sau khi tổ chức WHO khuyến cáo
các nước có bệnh sốt rét lưu hành thực hiện chiến lược phòng chống sốt rét vào
năm 1979 thì Việt Nam là một trong những quốc gia có chương trình phòng chống
sốt rét thành công, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công tác phòng chống

sốt rét từ năm 1991 khi chuyển từ chương trình tiêu diệt sốt rét sang phòng chống
sốt rét: sốt rét đã giảm mạnh, thậm chí nhiều tỉnh, thành phố trong một vài năm
gần đây đã không ghi nhận trường hợp mắc sốt rét tại địa phương. Số vụ dịch sốt
rét giảm dần, năm 2010 không có dịch sốt rét xảy ra trong cả nước. Năm 2010,
4
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
toàn quốc ghi nhận 20 người chết do sốt rét, 53.876 trường hợp mắc sốt rét. Tỷ lệ
chết do sốt rét /100.000 dân là 0,02, giảm 89,5% và giảm 99,7%; tỷ lệ mắc sốt rét /
1.000 dân là 0,61, giảm 84,1% và giảm 96,4% so với năm 2000 và năm 1991. Đã có
28 tỉnh miền Bắc và Nam bộ trong 10 năm (2001-2009) giảm số mắc và không có
tử vong do sốt rét và 6 tỉnh không có tử vong do sốt rét 4 năm (2006 - 2010). [2]
Và cho tới những năm gần đây, công tác phòng chống sốt rét vẫn được triển khai
đều đặn. Theo thông tin của Bộ y tế, tình hình sốt rét 11 tháng đầu năm 2013 cả
nước ghi nhận 32.498 bệnh nhân mắc sốt rét; 80 trường hợp bệnh nhân sốt rét ác
tính và 5 trường hợp tử vong do sốt rét. So với cùng kỳ năm 2012 số bệnh nhân sốt
rét giảm 18,5%, số bệnh nhân sốt rét ác tính giảm 41,6% và số tử vong do sốt rét
giảm 16,7%.[3]
Công tác truyền thông cho các dịch bệnh diễn ra hằng năm, tập trung phòng và
tránh lây lan ở vùng có dịch bệnh:
Trước tình hình Dịch sốt xuất huyết Dengue (SXH) năm 2011 đang có chiều hướng
gia tăng tại Việt Nam, ngày 2/8/2011, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương - Ban điều
hành dự án “Phòng chống Sốt xuất huyết Dengue khu vực Miền Bắc” đã tổ chức hội
nghị sơ kết hoạt động 6 tháng đầu năm và chuẩn bị kế hoạch hoạt động 6 tháng
cuối năm 2011 của dự án. Nhiều vấn đề đã được đưa ra: Viện đề nghị Bộ Y tế hỗ trợ
kinh phí để mở các lớp tập huấn về sửa chữa, bảo hành và bảo trì máy phun hóa
chất, tăng cường các hoạt động giám sát ca bệnh SXHD, phát hiện kịp thời các ổ
dịch và chỉ đạo tiến hành phòng chống quyết liệt; tăng cường các biện pháp khống
chế muỗi véc tơ truyền bệnh, đặc biệt tại các tỉnh trọng điểm; kiên quyết không để
dịch SXHD bùng phát hay lan rộng trên bất cứ địa bàn nào của khu vực miền Bắc,
nhất là vào các tháng 8 đến tháng 10 là thời gian trọng điểm của mùa bệnh SXHD.

[4]
b. Nhược điểm:
Với sự cố gắng, nỗ lực trong dự phòng bệnh, công tác tiêm chủng vẫn được duy
trì và tổ chức thường xuyên, làm giảm đáng kể số ca mắc bệnh. Tuy nhiên, vẫn tồn tại
một số hạn chế và rủi ro.
Tỷ lệ bao phủ, chất lượng dịch vụ tiêm chủng vẫn chưa cao và đầy đủ đối với trẻ
em nghèo hoặc trẻ em vùng sâu vùng xa, hoặc những trẻ em phải đối mặt với những
vấn đề liên quan đến di cư tự do vì gặp khó khăn về điạ lý, kinh tế, xã hội.
Thiếu cán bộ y tế dự phòng tuyến huyện, xã; ngân sách nhà nước đầu tư cho
TCMR mới chỉ đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu; nhiều bệnh dịch nguy hiểm chưa có
vắc xin hoặc chưa được đưa vào chương trình TCMR. [5]
Xuất hiện một số ca tử vong sau khi được tiêm vắc xin. Ví dụ như bé gái 5 tháng
tuổi tử vong sau khi tiêm vác xin Quinvaxem vào 24/11/2013 tại Hưng Phú, Phước
Long, Bạc Liêu hay 3 trẻ sơ sinh bị tử vong sau khi tiêm vác xin viêm gan B vào
20/7/2013 tại Hướng Hóa,…
5
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Công tác truyền thông chỉ tập trung vào những giai đoạn bệnh đã được phát
hiện mang mục đích chống lây lan sang những nơi lân cận, để người dân biết cách
phòng và xử trí.
c. Giải pháp
Tuyên truyền, vận động người dân về các phản ứng có thể xảy ra với trẻ sau khi
tiêm vắc xin để có những xử trí phù hợp, đúng đắn.
Thiết lập, tăng cường giám sát các quy trình trong tiêm chủng như: bảo quản
Vắc xin, các bước thực hiện trong tiêm chủng, khám và theo dõi phản ứng lạ sau khi
tiêm chủng để đảm bảo chất lượng tốt nhất.
Bộ trưởng bộ Y tế cũng ra kế hoạch tăng cường công tác an toàn tiêm chủng
(Ban hành kèm theo quyết định số 3029/QD-BYT ngày 21/8/2013). Mục tiêu: Tăng
cường công tác an toàn tiêm chủng, đảm bảo chất lượng tiêm chủng và đảm bảo tỷ lệ
tiêm chủng cho trẻ em. [6]

Dự đoán trước những dịch bệnh có thể xảy ra và tiến hành phòng dịch trong
thời gian phù hợp
B. TÍNH CÔNG BẰNG
I. Khái niệm.
Công bằng trong chăm sóc sức khỏe có nghĩa là mọi người đều có cơ hội như nhau
có khả năng có được sức khỏe đầy đủ và không ai bị thua thiệt hay thiệt thòi trong việc
đạt được khả năng đó (Mooney 1983).
Công bằng là một trong 5 quan điểm chỉ đạo của Đảng và là một trong 3 mục tiêu
phát triển hệ thống chăm sóc sức khỏe của Việt Nam. Khi nói đến công bằng nghĩa là
đề cập tới những dịch vụ nào được cung cấp và ai là người trả tiền cho dịch vụ đó đối
với những cộng đồng dân cư có điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau, theo các
vùng địa lý khác nhau.
Trên thế giới, có nhiều quan niệm về công bằng trong CSSK nhưng chủ yếu có 2
trường phái châu Âu và Mỹ với 2 cách tiếp cận khác nhau. [10]
• Trường phái châu Âu: Trường phái này căn cứ vào việc phân tích và đánh giá
những hệ thống CSSK được nhà nước trợ cấp. Hệ thống này đã đảm bảo được
sự tiếp cận y tế cho tất cả mọi người, có thể chăm sóc tốt hơn cho toàn dân.Công
bằng trong CSSK được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ CSSK phải dựa theo nhu
cầu về CSSK của người dân và thanh toán chi phí CSSK dựa theo khả năng chi
6
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
trả, không dựa vào số dịch vụ y tế mà họ sử dụng. Việc tiếp cận với các dịch vụ y
tế phải là quyền của tất cả mọi người và không chịu ảnh hưởng của thu nhập
cũng như sự giàu có. Đại diện của trường phái này là các nước Đan Mạch, Ý, Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, v,v Quan điểm về công bằng của chúng ta cũng giống
trường phái này
• Trường phái của Mỹ: Hệ thống chăm sóc sức khỏe hướng về thị trường. Y tế tư
nhân giữ vai trò chủ đạo và việc CSSK chủ yếu dựa vào khả năng chi trả của
người dân. Công bằng trong CSSK được hiểu là mọi người được tự do sử dụng
và chi trả những dịch vụ mà họ muốn. Trường phái này đánh giá công bằng

trên cơ sở việc nhà nước quan tâm cung cấp những dịch vụ CSSK tối thiểu cho
người nghèo chứ không khuyến khích sự tiếp cận công bằng với mọi người.
Phân loại: c% 2 loại
• Công bằng ngang( horizontal equity): những ai có hoàn cảnh giống nhau sẽ
đóng góp như nhau và sẽ nhận được các lợi ích như nhau.
• Công bằng dọc( vertical equity): những ai có hoàn cảnh khác nhau sẽ được đối
xử khác nhau.
II. Phân tích ưu, nhược điểm
1. Hệ khám chữa bệnh
a. Ưu điểm:
Với sự phát triển của dich vụ khám chữa bệnh như hiện nay tính công bằng trong
cung cấp dịch vụ KCB vẫn được bảo đảm. Dịch vụ khám, chữa bệnh tại các bệnh viện
hiện nay là công bằng cho tất cả người bệnh từ thầy thuốc, trang thiết bị, thuốc vật tư,
tiêu hao. Người nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách đã được Nhà nước mua bảo
hiểm y tế đảm bảo việc tiếp cận công bằng các dịch vụ khám, chữa bệnh.
Mọi công dân, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, lứa tuổi và vùng miền
trên đất nước đều được hưởng dịch vụ CSSK như nhau( trong công bằng ngang). Bảo
hiểm y tế là một bằng chứng chứng minh cho tính công bằng ngang trong nguyên lý
quản lý tốt dịch vụ y tế. Mọi công dân, giàu nghèo, bệnh tật hay khỏe mạnh đều có
quyền tham gia bảo hiểm y tế. Theo nguyên tắc số đông bù số ít để đảm bảo sức khỏe
cho mỗi người tham gia bảo hiểm y tế.
Mỗi người đều có những nhu cầu riêng cho bản thân, vì thế họ có quyền được tự do
sử dụng những dịch vụ tốt nhất và tri trả cho những gì họ muốn nếu có điều kiện
(trong công bằng dọc). Trong bảo hiểm y tế có rất nhiều loại bảo hiểm khác nhau, bảo
7
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
hiểm dành cho người giàu, người nghèo, bảo hiểm dành cho những người có hoàn
cảnh khác nhau, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh của những người tham gia bảo
hiểm y tế khác nhau. Muốn được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe loại tốt thì người
tham gia sẽ mua bảo hiểm y tế loại tốt. Trong bảo hiểm y tế đã đáp ứng đủ tính công

bằng dọc.
Thực hiện đúng tinh thần xã hội hóa, huy động xã hội hỗ trợ người gặp khó khăn
trong việc tiếp cận dịch vụ KCB.Một số tổ chức phi chính phủ và cơ sở y tế tư nhân đã
tổ chức những hoạt động cung cấp dịch vụ KCB từ thiện, miễn phí hoặc phí thấp, mổ
miễn phí cho trẻ em bị hở hàm ếch, người bị đục thủy tinh thể, tổ chức và hoạt động
bếp từ thiện trong bệnh viện phục vụ bệnh nhân nội trú.
Tháng 12/2013, tổ chức Phẫu thuật Nụ cười Việt Nam (Operation Smile Vietnam)
sẽ tổ chức chương trình phẫu thuật miễn phí cho trẻ em và thanh thiếu niên Việt
Nam bị dị tật môi, hở hàm ếch.[11]
Ngày 20/02/2013, Bộ trưởng Bộ Y tế đã có quyết định số 585/QĐ-BYT về việc phê
duyệt Dự án “Thí điểm đưa Bác sỹ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tếxã hội đặc biệt khó khăn
(ưu tiên 62 huyện nghèo)”nhằm thu hút Bác sỹ trẻ mới ra trường tình nguyện về
công tác tại tuyến huyện,khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo nơi
mà ngưòi dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch
vụ y tế. [12]
Để nâng cao tính công bằng trong công tác chăm sóc sức khỏe, trong những năm
gần đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách trong khám chữa bệnh và dịch vụ y tế dự
phòng mục tiêu là quan tâm đến CSSK người nghèo, nhân dân miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Điển hình như chính sách hỗ trợ chăm sóc
sức khỏe, ưu tiên giải quyết các vấn đề sức khỏe nổi cộm của người nghèo, vùng
nghèo.Những chính sách, giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của người
nghèo đến dịch vụ y tế.Những chính sách, giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp
cận của người nghèo đến dịch vụ y tế.Chính sách cơ bản hỗ trợ tài chính y tế cho người
nghèo tại Việt Nam
Vào năm 2002, Chính phủ bàn thảo dự luật nhằm hỗ trợ tài chính chăm sóc y tế cho
người nghèo. Trong năm 2005, Chính phủ thể hiện ủng hộ công bằng về sức khỏe
bằng cam kết rằng Nhà nước và Chính phủ Việt Nam hướng tới việc xây dựng “một
hệ thống y tế công bằng, hiệu quả và phát triển”. Trong một nỗ lực có thể nói là
tham vọng nhất nhằm đạt tới công bằng về sức khỏe, Chính phủ cũng đã thông qua

Luật Bảo hiểm Y tế năm 2008 nhằm mục tiêu tất cả các công dân Việt Nam đến
năm 2014 sẽ có bảo hiểm y tế.
b. Nhược điểm:
Việt Nam vẫn là một nước nghèo, mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp,
mặt tồn tại đáng nói nhất đó là sự chênh lệch giữa các vùng miền tại Việt Nam nên
dẫn đến người dân ở mỗi vùng miền được quan tâm khác nhau.
8
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, miền làm tăng sự bất bình đẳng
trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội, trong đó có dịch vụ chăm sóc sức
khỏe mà đồng bào dân tộc thiểu số có nhu cầu rất lớn. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị
y tế khu vực này thiếu và chưa đồng bộ; số cán bộ có trình độ chuyên sâu, nhất là
cán bộ người địa phương thiếu trầm trọng; việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
y tế gặp nhiều bất cập. Ðáng chú ý, do thiếu thông tin về chính sách bảo hiểm y tế
cho nên tần suất khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế của người dân vùng khó khăn
thấp. Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản vẫn còn những khoảng cách, đòi hỏi
phải có giải pháp can thiệp cụ thể để nâng cao chất lượng dân số Cụ thể, là tỷ lệ
bỏ học, tỷ lệ suy dinh dưỡng…. cao hơn rất nhiều so với khu vực đồng bằng; tỷ lệ
suy dinh dưỡng của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tốt, song hiện nay những
TE ở vùng sâu, vùng xa chưa được đáp ứng về khám chữa bệnh, học tập đầy đủ…
ví dụ hiện trong nước chỉ còn có 23,4% TE suy dinh dưỡng nhưng tại Đắc- Nông có
tới 36% TE suy dinh dưỡng, Lai Châu 34%, trong khi Hà Nội chỉ có 12%, Tp HCM có
10%, ngoài ra với các vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên thì tỷ lệ này cũng còn rất
cao.[13]
Sự chênh lệch giữa nhóm người giàu và người nghèo trong chăm sóc sức khỏe tại
Việt Nam vẫn chưa có sự cải thiện.
Một vài số liệu thực tế như: Tỷ lệ người có khám chữa bệnh trong 12 tháng trước
thời điểm phỏng vấn là 40,9%, trong đó 37,1% có khám/chữa bệnh ngoại trú và
8,1% có khám chữa bệnh nội trú. Tỷ lệ này ở thành thị cao hơn một chút so với
nông thôn; nhóm hộ giàu nhất cao hơn nhóm hộ nghèo nhất.Khi phải nhập viện,

người dân chủ yếu đã đến các bệnh viện nhà nước. Tỷ lệ lượt người khám chữa
bệnh nội trú tại các bệnh viện nhà nước năm 2010 là 83,2%.Tuy nhiên, người dân
nông thôn có ít hơn cơ hội được khám chữa bệnh tại các bệnh viện nhà nước. Năm
2010 có 81% lượt người ở khu vực nông thôn khám, chữa bệnh nội trú tại các bệnh
viện nhà nước, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 90%.Có 66,7% số người
khám chữa bệnh nội, ngoại trú có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa bệnh
miễn phí, trong đó thành thị là 72,6%, nông thôn là 64,1%. Đặc biệt có 74,4% số
người thuộc nhóm hộ nghèo nhất có thẻ bảo hiểm y tế hoặc sổ/thẻ khám chữa
bệnh miễn phí, trong khi nhóm hộ giàu nhất chỉ có 71%. Những vùng nghèo nhất
như Trung du và Miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, những nhóm dân tộc thiểu số
có tỷ lệ này cao hơn mức trung bình của cả nước.Chi tiêu cho y tế, chăm sóc sức
khoẻ bình quân 1 người 1 tháng đạt khoảng 62 ngàn đồng, chiếm tỷ trọng 5,4%
trong chi tiêu cho đời sống. Chi tiêu cho y tế, chăm sóc sức khoẻ bình quân 1 người
1 tháng của nhóm hộ giàu nhất cao hơn gấp 3,8 lần so với nhóm hộ nghèo nhất,
của hộ thành thị cao hơn 1,43 lần so với hộ nông thôn.[14]
Chi phí không chính thức trong dịch vụ y tế hay gọi nôm na là "phong bì" phổ biến ở
hầu hết các bệnh viện, nhất là các bệnh viện tuyến trên và đặc biệt là khi ranh giới
giữa sự sống và cái chết của người bệnh mong manh đang là một vấn nạn lớn cần
được quan tâm.
9
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Theo kết quả nghiên cứu được tiến hành tại một số bệnh viện ở Hà Nội, Sơn La,
Đắc Lắc và Cần Thơ từ tháng 8.2010 đến tháng 2.1011, đưa tiền trực tiếp và để
tiền trong phong bì là hai cách phổ biến nhất của tình trạng chi trả các khoản
không chính thức trong dịch vụ y tế. Đây là những kết luận của nghiên cứu định
tính mới nhất mà Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) - cơ quan đầu mối quốc gia
của Tổ chức Minh bạch Quốc tế tại Việt Nam (TI) cùng Trung tâm Nghiên cứu và
Đào tạo Phát triển Cộng đồng (RTCCD) công bố ngày 6.6.[15]Như vậy là không
đảm bảo tính công bằng cho những người nghèo. Người nghèo sẽ không có được
những dịch cụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất như những người dân có kinh tế cao.

Vậy nếu không có quà và khoản chi phí không chính thức cho các bộ y tế thì cán bộ
y tế sẽ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo khác so với người có điều kiện tài chính
hơn? Điều này không đảm bảo cho tính công bằng, đặc biệt là tính công bằng
ngang trong nguyên tắc cung cấp tốt dịch vụ y tế. Nguyên nhân một phần là do y
đức của cán bộ y tế và các ban ngành chưa thật sự giải quyết triệt để vấn nạn này
để đem lại tính công bằng trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân. Nhưng
theo báo cáo trong buổi tọa đàm về “Thầy thuốc trẻ với qui tắc ứng xử của cán bộ
ngành y tế” ngày 19/02/2014 tại Nhà Văn Hóa học sinh sinh viên cho thấy: 57%
người dân được phỏng vấn trả lời rằng đưa quà và phong bì cho cán bộ y tế là
muốn cảm ơn họ đã chăm sóc sức khỏe cho người dân; 41,4% người muốn được
nhận chăm sóc sức khỏe tốt hơn người khác và 1,6% người dân phản ánh lại là do
cán bộ y tế gợi ý. Và chính người cán bộ y tế sau khi nhận quà và phong bì từ người
bệnh thì cũng thừa nhận là có thái độ chăm sóc sức khỏe cho người bệnh chu đáo
hơn. Như vậy, chính người dân chưa nhận thức được rằng nguyên nhân chính là do
văn hóa đi biếu quà của họ.
c. Giải pháp:
Để đạt được mục tiêu sức khỏe và công bằng, Việt Nam cần xây dựng được và thực
hiện hệ thống chính sách xã hội và y tế theo định hướng công bằng, đảm bảo mọi
người dân trong xã hội đều có tình trạng sức khỏe tốt nhất và có khả năng tiếp cận với
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi cần thiết, không phân biệt giới tính, độ tuổi, trình độ
học vấn, dân tộc, điều kiện kinh tế hay nơi cư trú.
Đổi mới hệ thống y tế, sử dụng các phương pháp hệ thống có khả năng hỗ trợ giải
quyết các vấn đề liên quan tới năng lực và hoạt động của tất cả sáu thành phần của
một hệ thống y tế (bao gồm quản trị, cung cấp dịch vụ, tài chính, nguồn nhân lực,
thông tin và các sản phẩm y tế).
Cải thiện chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi
người, trong đó cần tập trung đặc biệt tới các nhóm dân số khó khăn như phụ nữ,
nhóm đối tượng có trình độ học vấn thấp, nhóm dân tộc thiểu số, nhóm người nghèo
và những người sống ở khu vực nông thôn.
Áp dụng các biện pháp chăm sóc sức khỏe “chi phí hiệu quả”, đặc biệt là các biện

pháp phòng tránh nhằm bảo vệ và cải thiện điều kiện sức khỏe của người dân.
10
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Áp dụng các biện pháp can thiệp lồng ghép với sự tham gia của các khu vực và tổ
chức khác nhau (không chỉ đơn thuần chỉ là ngành y tế) ví dụ như nâng cao năng lực
phụ nữ, giáo dục, phát triển nông thôn, các hoạt động tạo thu nhập, các tổ chức phi
chính phủ, v.v.
Tiếp tục triển khai nghiên cứu nhằm xác định các vấn đề về công bằng sức khỏe,
cũng như đẩy mạnh công tác lập kế hoạch y tế dựa trên bằng chứng và quy trình xây
dựng chính sách.
2. Hệ y tế dự phòng
a. Ưu điểm:
Trong dịch vụ YTDP tính công bằng được thể hiện rất rõ rệt. Ví dụ như chương
trình TCMR: tất cả trẻ em dưới 5 tuổi đều được tiếp cận được đến chương trình tiêm
chủng và được hưởng lợi như nhau. Chương trình này hoàn toàn miễn phí cho các trẻ
nên tỷ lệ tiêm chủng cho trẻ em luôn đạt trên 90%. Vì vậy, Việt Nam đã thanh toán
được nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở trẻ em và giảm tỷ suất chết trẻ em dưới 1
tuổi ở nước ta đã giảm hơn một nửa từ 36.7 trên 1000 trẻ sinh ra sống năm 1999,
xuống còn 16 trẻ chết trên 1000 trẻ sinh ra sống năm 2009.[15]
b. Nhược điểm:
Vẫn có sự bất công bằng giữa các nhóm kinh tế-xã hội về nhiều khía cạnh y tế, sức
khỏe với các mức độ khác nhau như bất cân bằng về giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, nhóm dân tộc, tình trạng kinh tế, nơi cư trú.
Công tác phòng, chống dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu bởi nhận thức của đồng
bào còn hạn chế, phong tục, tập quán lạc hậu.
Nguồn nhân lực y tế tại hầu hết các trung tâm YTDP ở những vùng sâu, vùng xa,
biên giới, hải đảo còn ít và kém, các trang thiết bị còn cũ và thiếu các thiết bị hiện đại.
Do đó, người dân tại các khu vực đó thường khó tiếp cận với các DVYT dự phòng chất
lượng tốt hơn khu vực khác.
Y tế dự phòng đang được rất chú trọng với phương châm “phòng bệnh hơn chữa

bệnh” nhưng hiện nay y tế dự phòng chưa có đủ nhân lực để có thể bao phủ khắp hệ
thống y tế tuyến xã, nhất là vùng núi, vùng giao thông chưa phát triển, hạn chế đi lại
và vùng có điều kiện thời tiết khắc nhiệt, ảnh hưởng bởi thiên tai.
c. Giải pháp:
Tiếp cục củng cố và tăng cường hệ thống nhân lực, cơ sở vật chất và phương tiện
truyền thông hiện đại, đặc biệt là các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. đầu
tư các chương trình y tế dự phòng cho người nghèo, người dễ bị tổn thương (trẻ em,
người già, ).
11
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
C. NGUYÊN TẮC TÍNH AN TOÀN
I. Khái niệm.
An toàn là những dịch vụ không gây chấn thương cho người nhận dịch vụ y tế.
Không chỉ có người nhận dịch vụ cần được đảm bảo an toàn mà người cung cấp dịch
vụ cũng cần được bảo đảm an toàn.
Người bệnh có quyền được điều trị bằng phương pháp an toàn, hợp lý và có hiệu
quả theo các quy định chuyên môn kỹ thuật. Người hành nghề có quyền được bảo vệ
khi xảy ra tai biến đối với người bệnh như: được pháp luật bảo vệ và không phải chịu
trách nhiệm khi thực hiện đúng quy định về chuyên môn kỹ thuật mà vẫn xảy ra tai
biến; được đề nghị cơ quan, tổ chức, hội nghề nghiệp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình khi xảy ra tai biến đối với người bệnh.Và cũng có quyền được bảo đảm an
toàn khi hành nghề: được trang bị phương tiện bảo hộ lao động, vệ sinh lao động để
phòng ngừa, giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm, tai nạn liên quan đến nghề nghiệp; được
bảo vệ sức khỏe, tính mạng, danh dự, thân thể; trường hợp bị người khác đe dọa đến
tính mạng, người hành nghề được phép tạm lánh khỏi nơi làm việc, sau đó phải báo
cáo với người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc chính quyền nơi gần nhất.
[17]
II. Phân tích ưu nhược điểm
12
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế

Nguyên tắc an toàn trong quản lý dịch vụ y tế giúp người sử dụng các dịch vụ y tế
nhằm chăm sóc sức khỏe mà không gặp phải bất cứ một rủi ro nào gây nguy hiểm đến
sức khỏe cũng như tính mạng. Nguyên tắc an toàn không chỉ đảm bảo cho người nhận
dịch vụ mà còn phải đảm bảo cho cả người cung cấp dich vụ, nghĩa là cả khách hàng
bên trong và khách hàng bên ngoài.
Nguyên tắc an toàn trong ngành y luôn được coi trong hàng đầu, Bộ y tế Việt Nam đã
ban hành những điều lệ, tổ chức nhiều chương trình nhằm nâng cao và đảm bảo sự an
toàn của các dịch vụ y tế:
1. Đối với khám chữa bệnh
a. Ưu điểm
Ngày 27 tháng 9 năm 2012, Bộ Y tế ban hành kèm theo Quyết định số: 3671/QĐ-
BYT của Bộ Y tế bản "Hướng dẫn tiêm an toàn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh",
ban hành các quy định chuyên môn kĩ thuật trong khám chữa bệnh trong đó nhấn
mạnh về các quy định trong cấp cứu, chẩn đoán bệnh, chỉ định phương pháp điều trị
và kê đơn thuốc và cách giải quyết với 1 số trường hợp hay gặp phải [22].
Bộ Y tế ban hành Bộ công cụ đánh giá Bệnh viện an toàn trong tình huống khẩn cấp
và thảm họa (theo Quyết định số 4695/QĐ-BYT ngày 21 tháng 11 năm 2013) áp dụng
cho các bệnh viện công lập và ngoài công lập tự đánh giá khả năng đáp ứng, đảm bảo
an toàn và hoạt động liên tục của bệnh viện trong tình huống khẩn cấp và thảm họa
với mục đích nâng cao nhận thức và hành động nhằm: bảo vệ tính mạng của người
bệnh và nhân viên y tế, thông qua việc bảo đảm bền vững về kết cấu và phi kết cấu của
bệnh viện; bảo đảm duy trì cung cấp các dịch vụ y tế trong và ngay sau khi thảm họa
xảy ra; tăng cường năng lực quản lý tình huống khẩn cấp của nhân viên y tế Bộ Y tế
ban hành bộ công cụ này để các bệnh viện sử dụng tự đánh giá nhằm phát hiện những
khu vực, dịch vụ dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa, làm cơ sở cho việc áp dụng
các biện pháp nhằm giảm tính dễ bị ảnh hưởng của bệnh viện, qua đó tăng cường an
toàn bệnh viện trong tình huống khẩn cấp và thảm họa [23].
Bộ cũng ban hành thông tư “Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vnụ
khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện”, trong đó có Điều 7: Triển khai các biện pháp bảo
đảm an toàn người bệnh và nhân viên y tế gồm: thiết lập chương trình và xây dựng

các quy định cụ thể bảo đảm an toàn người bệnh và nhân viên y tế; bảo đảm môi
trường làm việc an toàn cho người bệnh, khách thăm và nhân viên y tế; tránh tai nạn,
rủi ro, phơi nhiễm nghề nghiệp; thiết lập hệ thống thu thập, báo cáo sai sót chuyên
môn, sự cố y khoa tại các khoa lâm sàng và toàn bệnh viện, bao gồm báo cáo bắt buộc
và tự nguyện; xây dựng quy trình đánh giá sai sót chuyên môn, sự cố y khoa để xác
định nguyên nhân gốc, nguyên nhân có tính hệ thống và nguyên nhân chủ quan của
nhân viên y tế; đánh giá các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra và xử lý sai sót chuyên môn, sự
cố y khoa và có các hành động khắc phục đối với nguyên nhân gốc, nguyên nhân có
tính hệ thống và nguyên nhân chủ quan để giảm thiểu sai sót, sự cố và phòng ngừa rủi
ro.[24]
13
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
Ngoài ra ngành y tế còn ban hành quy trình về xử lý rác thải y tế, xử lý tai nạn
nghề nghiệp; thực hiện các chương trình về an toàn bệnh viện; tăng cường việc thanh
tra, kiểm tra để theo dõi, đánh giá hoạt động dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhằm bảo
đảm dịch vụ được cung cấp đến người bệnh một cách tốt nhất.
b. Nhược điểm
Đầu tháng 8, Bệnh viện đa khoa Hoài Đức (Hà Nội) bị phát hiện “nhân bản” hơn
1.000 xét nghiệm cho bệnh nhân. Bệnh viện Hoài Đức đã dùng một phiếu xét nghiệm
huyết học để sao chép trả cho 2-5 bệnh nhân. Thậm chí nhiều bệnh nhân khác xa nhau
về bệnh án, về lứa tuổi cũng được dùng chung một kết quả xét nghiệm. Hoặc trường
hợp ở bệnh viên mắt Hà Nội, sau khi nhận được đơn tố cáo, thanh tra Sở Y tế Hà Nội
đã kiểm tra, phát hiện hơn 700 bệnh nhân mổ mắt thủy tinh thể tại bệnh viện này đã bị
tráo thủy tinh thể và dịch nhầy từ loại đắt tiền sang loại rẻ tiền. Cụ thể, bệnh viện đã
dùng thủy tinh thể của Trung Quốc, Hàn Quốc trong phẫu thuật cho bệnh nhân trong
khi đó phiếu thu tiền lại thể hiện là sử dụng thủy tinh thể của Mỹ. Chênh lệch tiền giữa
hai loại thủy tinh thể này khoảng từ 20.000 - 30.000 đ/thủy tinh thể [25]
Vụ án thẩm mỹ viện Cát Tường, bác sĩ chưa áp dụng đúng quy trình kĩ thuật
gây tử vong cho khách hàng sử dụng dịch vụ, sau đó còn tiến hành phi tang xác nạn
nhân nhằm trốn tội.

Để xảy ra những vụ việc đáng tiếc như vậy một phần không nhỏ là do quá trình
quản lý chưa được chặt chẽ, sát sao; một bộ phận nhỏ nhân viên y tế thiếu trình độ
chuyên môn, y đức dẫn đến tình trạng “con sâu làm giàu nồi canh”.
c. Giải pháp.
Những sự việc đáng tiếc này đã làm mất đi niềm tin của người dân đối với
ngành y tế. Cán bộ nhân viên y tế là người chăm sóc sức khỏe cho người dân, đem lại
một cuộc sống khỏe manh cho họ. Sự an toàn của người bệnh phụ thuộc rất nhiều vào
trách nhiệm và thái độ của nhân viên y tế; nhưng thời gian qua đã xảy ra nhiều trường
hợp tử vong do sự tắc trách hoặc sự thiếu trình độ chuyên môn của người thầy thuốc.
Trước thực trạng trên, ngành y tế cần phải có những biện pháp cụ thể, thiết
thực để đảm bảo sự an toàn của các dịch vụ y tế, cho cả người nhận dịch vụ và người
cung cấp dịch vụ. Một số biện pháp cần phải thực hiện:
Nâng cao năng lực chuyên môn của nhân viên y tế và tinh thần trách nhiệm,
thái độ, lương tâm của người thầy thuốc qua các buổi tập huấn, nói chuyện. Các
nhân viên y tế: cần hết sức thận trọng khi tiêm chủng, tuân thủ đúng quy trình
kiểm tra chất lượng vacxin, quy trình tiêm chủng an toàn, thực hiện khám sàng
lọc, theo dõi trẻ sau khi tiêm chủng và tư vấn cho người dân về cách xử trí khi
thấy xuất hiện các phản ứng bất thường sau tiêm. Với công tác phòng dịch,
nhân viên y tế cần thực hiện đúng quy trình bảo hộ và sử dụng đúng thuốc đủ
14
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
liều đảm bảo hiệu quả và an toàn, đồng thời hướng dẫn người dân dọn dẹp vệ
sinh môi trường và các công việc phòng dịch một cách cụ thể.
Tăng cường tổ chức thanh tra, kiểm tra để đảm bảo vệ sinh bệnh viện, đề phòng
nhiễm khuẩn bệnh viện, cụ thể hóa các nguyên tắc, quy trình xử lý rác thải bệnh viện.
Đảm bảo thực hiện đúng và đủ quy trình khám chữa bệnh.Xác định chính xác
tên người bệnh,đảm bảo an toàn trong dùng thuốc,xóa bỏ nhầm lẫn trong phẫu thuật.
Nâng cao năng lực quản lý của các nhà quản lý y tế, quản lý bệnh viện.
2. Đối với y tế dự phòng.
a. Ưu điểm

Các dịch vụ YTDP, đã có nhiều thành tựu, phải kể đến là các chương trình phòng
bệnh chủ động như TCMR. Chương trình TCMR càng ngày càng chứng minh được lựa
chọn phòng bệnh bằng tiêm chủng là biện pháp hiệu quả nhất. Bắt đầu cho việc thực
hiện cam kết đó phải tính từ năm 1985, khi đó Việt nam đã triển khai chương trình
TCMR. Đến năm 1990 Việt Nam đã đạt mức tiêm chủng thường xuyên, đầy đủ phòng 6
bệnh cho trẻ dưới 1 tuổi hàng năm đã đạt trên 80% làm nền tảng để tiến vào giai đoạn
thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh.[18]
Bộ y tế cũng đã ban hành cũng như xiết chặt qúa trình tiêm chủng an toàn cho trẻ.
Bộ cũng đã quyết định về việc phê duyệt “Kế hoạch tăng cường công tác an toàn tiêm
chủng” ( ngày 21/8/2013 ) nhằm tăng cường công tác an toàn tiêm chủng, đảm bảo
chất lượng tiêm chủng và đảm bảo tỷ lệ tiêm chủng cho trẻ em[19]. Qua đó gần như
100% trẻ em được tiêm chủng đầy đủ và chất lượng tiêm chủng ngày càng được nâng
cao.
Một hoạt động khác cũng đạt được thành công lớn đó là công tác phòng chống dịch
bệnh được tập trung triển khai kịp thời, đặc biệt đối với dịch cúm A/H1N1 nên Việt
Nam đã được xếp vào nhóm nước có mức lây lan dịch trong cộng đồng chậm (tỷ lệ
mắc/dân số là gần 0,013%) và tỷ lệ tử vong thấp (0,45%)… [20]
b. Nhược điểm
Tuy đã đạt được nhiều thành công nhưng thực tế vẫn còn xảy ra những đáng tiếc
trong việc bảo đảm an toàn trong cung cấp dich vụ y tế. Trong thời gian qua, ngành y
tế phải nhận được không ít những lời phê bình từ phía người dân và truyền thông.
Một số trường hợp có thể điểm qua như sau:
Trong chương trình TCMR, tính từ tháng 4/2007 đến nay đã có 10 cháu bé bị tử
vong sau tiêm chủng, trong đó 7 trường hợp tử vong sau tiêm vacxin viêm gan B. Bộ Y
tế cũng đã có những văn bản tạm thời ngừng sử dụng những lô vacxin viêm gan [18].
Gần đây nhất là trường hợp 3 bé tử vong sau khi tiêm vacxin viêm gan B tại bệnh viện
đa khoa Hướng Hóa_Quảng Trị.
Thuốc cận hoặc hết hạn sử dụng vẫn được các cán bộ của TTYTDP huyện Hòa
Thành- Tây Ninh nhập với số lượng lớn và đem phân phát cho người dân làm ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe của người dân và tổn thấp hàng tỷ đồng của đơn vị .[21]

15
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
c. Giải pháp
Tiếp tục duy trì và nâng cao các công tác phòng chống dịch bệnh. Ngăn chặn kịp
thời khi dịch bệnh có thể bùng nổ.Tổ chức nâng cao hiểu biết cho người dân về kiến
thức phòng chống dịch bệnh.
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng, độ an toàn và quy trình bảo quản của các loại vacxin
và sinh phẩm y tế.
Xử lí nghiêm các trường hợp vi phạm nguyên tắc an toàn trong công tác dự phòng
như: không thực hiện đúng quy trình an toàn tiêm chủng cho trẻ, tiêm chủng không đủ
liều…Việc này cần phải có sự phối hợp của các ban quản lý.
E. DANH MỤC VIẾT TẮT
TCMR: tiêm chủng mở rộng
YTDP: y tế dự phòng
TTYTDP: trung tâm y tế dự phòng
CSSK: chăm sóc sức khỏe
F. TRÍCH NGUỒN
[1] />gia.vhtm)
[2] />_piref135_27935_135_27927_27927.mode=detail&_piref135_27935_135_27927_27927
.id=538
[3] />[4] />huyet/828/So-ket-cong-tac-6-thang-dau-nam-2011-cua-Ban-Dieu-hanh-du-an-Phong-
chong-Sot-xuat-huyet-Dengue-SXHD-khu-vuc-Mien-Bac.vhtm
[5] />nam-can-tiep-tuc-duy-tri-va-nhan-rong.html
16
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
[6] />cuong-cong-tac-an-toan-tiem-chung-vb205490.aspx
[7] />[8] />[9] />92102.html
[10] />/10/Luan%20an%20toan%20van.pdf
[11] />ech-659584.tpo
[12] />[13]

[14] />126;jsessionid=6232EEBF46C46D8E6F80E2C990AAB618?
p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_
col_id=column-3&p_p_col_count=1&_62_INSTANCE_Z5vv_struts_action=
%2Fjournal_articles
%2Fview&_62_INSTANCE_Z5vv_groupId=18&_62_INSTANCE_Z5vv_articleId=74690&_6
2_INSTANCE_Z5vv_version=1.0
[15] />luong-dieu-tri/p124i6962.html
[16] />gia/51/Thanh-qua-dat-duoc-cua-Chuong-trinh-Tiem-chung-mo-rong.vhtm
[17] />ItemID=25269
[18] />vaccine/82/1433857.epi
[19] />cuong-cong-tac-an-toan-tiem-chung-vb205490.aspx.
[20] />dong/462-cong-b-10-thanh-tu-ni-bt-ca-nganh-y-t-vit-nam-nm-2009
[21] />[22] />chuyen-mon-ky-thuat-trong-kham-benh-chua-benh.nd5-dt.207.052.html
[23] />ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3j3oBBLczdTEwMLdwsDA09_LxcjF38fA
wNfU_2CbEdFAMTd4DQ!/?
17
Nhóm 4B- Quản lý dịch vụ y tế
WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/soyte/soyte/thongtinchuyennganh/kh
amchuabenh/bocongcu_danhgiabvantoan
[24] />[25] />nam-2013-73-2060439.html
18

×