Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Bàn về hạch toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.78 KB, 37 trang )

Đề án môn học 1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với vai trò cung cấp thông tin tài chính làm nền tảng cho việc ra quyết
định kinh doanh, kế toán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế tài
chính, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống công cụ
quản lí, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Trong những năm gần
đây, cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, hệ thống kế toán Việt Nam đã
không ngừng được hoàn thiện và phát triển.
Đối với các nhà quản trị, để doanh nghiệp có thể phát triển ổn định và
chủ động về tài chính thì vai trò của công tác kế toán là điều vô cùng quan
trọng. Tuy nhiên, trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, xuất hiện
ngày càng nhiều các công ty và tập đoàn kinh tế mới trong nước và nước
ngoài, sự biến động ngày càng phức tạp của thị trường đòi hỏi các doanh
nghiệp luôn phải đề phòng những rủi ro có thể xảy ra. Do vậy, việc thực hiện
chính sách hạch toán các khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng trong
doanh nghiệp là điều rất quan trọng. Việc lập dự phòng có thể giúp doanh
nghiệp nắm thế chủ động trong việc xử lí rủi ro xảy ra đồng thời có kế hoạch
sản xuất kinh doanh hợp lí để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh
gay gắt hiện nay.
Chính vì lí do trên nên trong khuôn khổ đề án môn học, em đã chọn đề
tài:
“Bàn về hạch toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng trong các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dự phòng phải trả
và nợ tiềm tàng. Trên cơ sở đó nghiên cứu chế độ kế toán dự phòng phải trả
trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 2
giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện phương pháp hạch toán các


khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu là chế độ hạch toán dự phòng phải trả và nợ tiềm
tàng theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS số 18.
Phạm vi nghiên cứu: đi sâu vào nghiên cứu chế độ hạch toán dự phòng
phải trả và nợ tiềm tàng trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt
Nam.
4.Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, tư duy logic, kết
hợp với việc đọc nhiều sách báo tạp chí kế toán trong và ngoài nước... để có
một cái nhìn tổng quát, tạo tiền đề đưa ra các giải pháp và kiến nghị góp phần
hoàn thiện chế độ kế toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng.
5. Kết cấu của đề án
Đề án gồm ba phần chính sau:
Phần I: Tổng quan về kế toán các khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm
tàng
Phần II: Phương pháp kế toán các khoản dự phòng phải trả trong các
doanh nghiệp.
Phần III: Thực trạng công tác kế toán và một số ý kiến nhằm hoàn thiện
hạch toán các khoản dự phòng phải trả trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay.
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 3
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN DỰ PHÒNG PHẢI TRẢ
VÀ NỢ TIỀM TÀNG
1.1. Các vấn đề lí luận trong kế toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng ở
Việt Nam
Việt nam đã tham gia vào tổ chức thương mại thế giới - WTO, hội nhập
với nền kinh tế quốc tế, giao lưu buôn bán với nhiều quốc gia trên thế giới.
Do vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính của doanh

nghiệp ngày càng trở nên phức tạp. Công tác kế toán nói chung và kế toán dự
phòng nói riêng cũng gặp không ít khó khăn. Để có thể nắm bắt được nội
dung kế toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng trong các doanh nghiệp ta cần
phải tìm hiểu các khái niệm cơ bản sau:
1.1.1. Vấn đề dự phòng trong kế toán
1.1.1.1. Khái niệm về dự phòng
Dự phòng là việc xác nhận về phương diện kế toán, sự giảm giá trị của
một tài sản hay sự gia tăng công nợ, xác thực về bản chất nhưng mang tính
ước tính về mặt giá trị. Việc thiết lập dự phòng thường dựa trên bằng chứng
xác thực xảy ra xung quanh thời điểm khóa sổ kế toán.
Như vậy có thể nói, đặc điểm chủ yếu của dự phòng là một ước tính của
kế toán, nó vừa mang tính chất dự đoán, vừa mang tính chất tạm thời. Việc lập
dự phòng là do nguyên tắc thận trọng trong kế toán, khi có những vấn đề chưa
rõ ràng, cần phải xét đoán thận trọng để không làm tài sản và thu nhập bị thổi
phồng, cũng như nợ phải trả và chi phí bị giấu bớt.
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 4
1.1.1.2. Vai trò của dự phòng
Việc lập các khoản dự phòng có thể làm tăng chi phí của doanh nghiệp
do vậy dẫn tới làm giảm thu nhập ròng của niên độ báo cáo. Tuy nhiên vai trò
của các khoản dự phòng là rất đáng kể
Thứ nhất là các khoản dự phòng cho phép doanh nghiệp luôn thực hiện
được nguyên tắc hạch toán tài sản theo giá phí, lại có thể ghi nhận trên các
báo cáo tài chính của mình giá trị thực tế của tài sản. Nhờ vậy bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp phản ánh chính xác hơn giá trị thực tế của tài sản.
Thực chất, các khoản dự phòng là một nguồn tài chính của doanh nghiệp khắc
phục trước mắt những thiệt hại có thể xảy ra trong kinh doanh.
Thứ hai là dự phòng và những lợi ích kinh tế của nó được nhìn nhận như
một đối sách tài chính cần thiết để duy trì và phát triển ổn định doanh nghiệp,
vừa tạo thu lâu dài vào ngân sách nhà nước vừa tạo cơ sở tín nhiệm cho doanh

nghiệp trong quan hệ kinh doanh với các đối tác bên ngoài.
1.1.2. Dự phòng phải trả
Nhằm cung cấp hình ảnh trung thực về tình hình tài chính cũng như kết
quả hoạt động kinh doanh, tuân thủ nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc phù
hợp, vào cuối niên độ kế toán trước khi lập báo cáo tài chính, kế toán thường
lập các loại dự phòng : Dự phòng giảm giá tài sản và dự phòng phải trả.
Trong đó dự phòng phải trả là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta.
1.1.2.1. Khái niệm dự phòng phải trả
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam , chuẩn mực kế toán số 18 (VAS18)
đã định nghĩa: “Một khoản dự phòng: Là khoản nợ phải trả không chắc chắn
về giá trị hoặc thời gian”.
Như vậy, dự phòng phải trả về thực chất là một khoản nợ mà doanh
nghiệp phải trả trong tương lai do một sự kiện nào đó phát sinh dẫn tới nghĩa
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 5
vụ nợ này. Về mặt giá trị thì không được xác định một cách chắc chắn, mà đó
chỉ là các ước tính kế toán mang tính chất dự đoán, tạm thời.
1.1.2.2. Điều kiện ghi nhận khoản dự phòng phải trả
Một khoản dự phòng phải trả chỉ được phép ghi nhận khi nó thoả mãn đủ
ba điều kiện sau đây:
Thứ nhất là doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại. Đó có thể là nghĩa vụ
pháp lý hoặc nghĩa vụ liên đới mà phát sinh do kết quả từ một sự kiện đã xảy
ra.Thứ hai là có thể xảy ra sự giảm sút về những lợi ích kinh tế dẫn đến việc
yêu cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ này.Thứ ba là phải đưa ra được một ước
tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.
Khoản dự phòng phải trả được lập mỗi năm một lần vào cuối niên độ kế
toán. Trường hợp đơn vị có lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì được lập dự
phòng phải trả vào cuối kỳ kế toán giữa niên độ.
1.1.2.3. Phân loại dự phòng phải trả
Theo chuẩn mực kế toán số 18, khoản mục dự phòng phải trả được phân

loại thành các nội dung dự phòng căn bản sau:
a. Dự phòng phải trả bảo hành sản phẩm, công trình xây lắp
b. Dự phòng phải trả tái cơ cấu doanh nghiệp.
Là dự phòng khi có những thay đổi quan trọng về phạm vi hoạt động
kinh doanh hoặc phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
c. Dự phòng phải trả đối với hợp đồng có rủi ro lớn mà trong đó những
chi phí bắt buộc phải trả cho các nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng vượt quá
những lợi ích kinh tế dự tính thu được từ hợp đồng đó.
d. Dự phòng phải trả khác
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 6
1.1.3. Nợ tiềm tàng
1.1.3.1. Khái niệm nợ tiềm tàng
Nợ tiềm tàng như trong chuẩn mực kế toán 18 đã định nghĩa là:
Nghĩa vụ nợ có khả năng phát sinh từ các sự kiện đã qua và sự tồn tại
của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được xác nhận bởi khả năng hay xảy ra hoặc
không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai
hoàn toàn không nằm trong phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp; hoặc
Nghĩa vụ nợ hiện tại phát sinh từ các sự kiện đã qua nhưng chưa được
ghi nhận vì: không thể chắc chắn có sự giảm sút về lợi ích kinh tế do việc
phải thanh toán nghĩa vụ nợ; hoặc giá trị của nghĩa vụ nợ đó không được xác
định một cách đáng tin cậy.
1.1.3.2. Điều kiện ghi nhận nợ tiềm tàng
Doanh nghiệp không được ghi nhận một khoản nợ tiềm tàng.
Các khoản nợ tiềm tàng có thể xảy ra không theo dự tính ban đầu, do đó
chúng phải được ước tính thường xuyên để xác định xem liệu sự giảm sút về
lợi ích kinh tế có xảy ra hay không. Nếu sự giảm sút về các lợi ích kinh tế
trong tương lai có thể xảy ra mà liên quan đến một khoản mục trước đây là
một khoản mục nợ tiềm tàng, thì phải ghi nhận một khoản dự phòng vào các
báo cáo tài chính của niên độ mà khả năng thay đổi đó có thể xảy ra (Ngoại

trừ một số trường hợp không đưa ra được cách ước tính đáng tin cậy)
Doanh nghiệp không được ghi nhận các khoản nợ tiềm tàng mà chỉ cần
phải trình bày các khoản nợ tiềm tàng trên báo cáo tài chính. Nếu khả năng
giảm sút lợi ích kinh tế là khó xảy ra thì không phải trình bày.
Nợ tiềm tàng chưa được ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán cho đến khi
có chứng cứ chắc chắn về các sự kiện sẽ xảy ra .
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 7
1.1.4. Phân biệt các khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng
Một khoản nợ phải trả là nghĩa vụ nợ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh
từ các sự kiện đã qua và việc thanh toán khoản phải trả này dẫn đến sự giảm
sút về lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Do vậy Nợ phải trả bao gồm Nợ tiềm
tàng và Nợ thông thường. Các khoản nợ phải trả thông thường thì thường xảy
ra, còn khoản nợ tiềm tàng thì chưa chắc chắn xảy ra. Trong đó nợ tiềm tàng
lại được chia ra thành dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng
Do vậy tất cả các khoản dự phòng phải trả đều là nợ tiềm tàng vì chúng
không được xác định một cách chắc chắn về giá trị hoặc thời gian. Tuy nhiên,
thuật ngữ “tiềm tàng” được áp dụng cho các khoản nợ không được ghi nhận
vì chúng chỉ được xác định cụ thể khi khả năng xảy ra hoặc không xảy ra của
một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai mà doanh nghiệp
không kiểm soát được. Hơn nữa, thuật ngữ “nợ tiềm tàng” được áp dụng cho
các khoản nợ không thoả mãn điều kiện để ghi nhận là một khoản nợ phải trả
thông thường. Theo đó ta cần phân biệt khoản dự phòng phải trả và khoản nợ
tiềm tàng
Bảng 1.1 So sánh dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng
DỰ PHÒNG PHẢI TRẢ NỢ TIỀM TÀNG
Giống
nhau
- Chúng không được xác định một cách chắc chắn về giá trị hoặc
thời gian.

- Chúng đều là một khoản Nợ phải trả
- Chúng đều là khoản nợ tiềm tàng
Khác
nhau
- Một khoản dự phòng là khoản nợ
phải trả không chắc chắn về giá trị
hoặc thời gian.
- Một khoản dự phòng chỉ được ghi
nhận khi thoả mãn các điều kiện
- Nợ tiềm tàng có thể là:
+ Nghĩa vụ nợ có khả năng phát
sinh từ các sự kiện đã xảy ra và
sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ
chỉ được xác nhận bởi khả năng
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 8
sau:
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ
hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc
nghĩa vụ liên đới) do kết quả từ
một sự kiện đã xảy ra;
- Sự giảm sút về những lợi ích kinh
tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu
cầu phải thanh toán nghĩa vụ nợ;
- Đưa ra được một ước tính đáng
tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ
đó.
hay xảy ra hoặc không hay xảy
ra của một hoặc nhiều sự kiện
không chắc chắn trong tương lai

mà doanh nghiệp không kiểm
soát được;
+ Nghĩa vụ nợ hiện tại phát sinh
từ các sự kiện đã xảy ra nhưng
chưa được ghi nhận vì:
=> Không chắc chắn có sự giảm
sút về lợi ích kinh tế do việc
phải thanh toán nghĩa vụ nợ;
hoặc
=> Giá trị của nghĩa vụ nợ đó
không được xác định một cách
đáng tin cậy.
- Tất cả các khoản dự phòng đều là
nợ tiềm tàng vì chúng không được
xác định một cách chắc chắn về giá
trị hoặc thời gian.
- Trong phạm vi chuẩn mực này
thuật ngữ “Nợ tiềm tàng” được
áp dụng cho các khoản nợ không
được ghi nhận vì chúng chỉ được
xác định cụ thể khi khả năng xảy
ra hoặc không xảy ra của một
hoặc nhiều sự kiện không chắc
chắn trong tương lai mà doanh
nghiệp không kiểm soát được.
- Các khoản dự phòng là các khoản
đã được ghi nhận là các khoản nợ
phải trả (giả định đưa ra một ước
tính đáng tin cậy) vì nó là các nghĩa
- “Nợ tiềm tàng” được áp dụng

cho các khoản nợ không thoả
mãn điều kiện để ghi nhận là
một khoản nợ phải trả thông
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 9
vụ về nợ phải trả hiện tại và chắc
chắn sẽ làm giảm sút các lợi ích
kinh tế để thanh toán các nghĩa vụ
về khoản nợ phải trả đó.
- Các khoản dự phòng cần phải
được xem xét lại vào mỗi ngày lập
bảng tổng kết tài sản và được điều
chỉnh để phản ánh cách đánh giá
tốt nhất theo giá trị hiện tại
thường vì các khoản nợ phải trả
thường xảy ra, còn khoản nợ
tiềm tàng thì chưa chắc chắn xảy
ra.
- Các khoản nợ tiềm tàng
thường xảy ra không theo dự
kiến ban đầu . Do đó chúng phải
được ước tính thường xuyên để
xác định xem liệu sự giảm sút
kinh tế có xảy ra hay không
- Có thể ước tính nghĩa vụ nợ một
cách đáng tin cậy thì lập dự phòng
- Không thể ước tính nghĩa vụ
nợ một cách đáng tin cậy, thì
khoản nợ hiện tại không được
ghi nhận và trình bày như một

khoản nợ tiềm tàng.
1.2. Một số quan điểm về dự phòng phải trảvà nợ tiềm tàng trên thế giới
1.2.1. Chuẩn mực kế toán quốc tế về hạch toán dự phòng phải trả IAS 37
Chuẩn mực kế toán quốc tế số 37 “ Các khoản dự phòng, tài sản và nợ
tiềm tàng” (IAS37: provisions contingent liabilities and contingent assets )
quy định về hạch toán dự phòng phải trả, nợ tiềm tàng như sau:
a. Các khoản dự phòng
Một khoản dự phòng chỉ được ghi nhận khi thoả mãn các điều kiện sau:
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ (trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm
liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra, dẫn tới sự giảm sút về những lợi
ích kinh tế có thể xảy ra; và giá trị của nghĩa vụ nợ đó có thể được ước tính
một cách đáng tin cậy.
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 10
- Giá trị ghi nhận một khoản dự phòng phải là giá trị được ước tính hợp
lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện tại tại ngày
kết thúc kỳ kế toán năm.
- Các khoản dự phòng phải được xem xét và điều chỉnh tại mỗi thời
điểm kết thúc kỳ kế toán năm để phản ánh ước tính chính xác nhất tại thời
điểm hiện tại.
b. Nợ tiềm tàng
Nợ tiềm tàng phát sinh khi:
-Sự tồn tại của nghĩa vụ nợ này sẽ chỉ được xác nhận bởi khả năng hay
xảy ra hoặc không hay xảy ra của một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn
trong tương lai mà doanh nghiệp không kiểm soát được.
-Không chắc chắn có sự giảm sút về lợi ích kinh tế do việc phải thanh
toán nghĩa vụ nợ; hoặc
-Giá trị nghĩa vụ nợ đó không xác định một cách đáng tin cậy.
Doanh nghiệp không được ghi nhận các khoản nợ tiềm tàng mà chỉ cần
phải trình bày các khoản nợ tiềm tàng trên báo cáo tài chính. Nếu khả năng

giảm sút lợi ích kinh tế là khó xảy ra thì không phải trình bày.
1.2.2. So sánh với VAS 18
IAS 37 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/7/1999, trong đó đề
cập các quy tắc chung nhất khi hạch toán các khoản dự phòng phải trả, tài sản
tiềm tàng, nợ tiềm tàng. Cũng dựa trên những quy định chung đó trong IAS
37, Bộ tài chính đã nghiên cứu, xây dựng, và ban hành chuẩn mực kế toán
Việt Nam số 18 quy định hạch toán “các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm
tàng”
a. Giống nhau:
Do được xây dựng dựa trên IAS 37 nên VAS 18 về căn bản thì đều thống
nhất với IAS 37 những nội dung sau
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 11
Cả hai chuẩn mực đều quy định Nguyên tắc ghi nhận giá trị và Xác định
giá trị các khoản dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng giống nhau và như đã
trình bày ở phần trên.
b. Khác nhau
Bảng 1.2 So sánh IAS 37 và VAS 18
Các vấn
đề kế
toán
VAS 18 các khoản dự phòng,
tài sản và nợ tiềm tàng
IAS 37 các khoản dự phòng, tài
sản và nợ tiềm tàng
Xác
định giá
trị
khoản
dự

phòng
Giá trị được ghi nhận của một
khoản dự phòng phải là giá trị
được ước tính hợp lí nhất về
khoản tiền sẽ phải chi để thanh
toán nghĩa vụ nợ hiện tại tại
ngày kết thúc kỳ kế toán
Khoản dự phòng phải được tính
toán dựa trên cơ sở ước tính một
cách chính xác nhất các chi phí
phát sinh, dự phòng này chỉ được
lập cho những chi phí phátsinh và
phải hoàn nhập nếu doanh nghiệp
chính thức không bị đòi cho
khoản nghĩa vụ đó
Tính
pháp lý
Ở Việt Nam, các nhà quản lí
doanh nghiệp không lường
trước được những tổn thất tiềm
ẩn và cá cam kết trong năm báo
cáo để lập các khoản dự phòng
và trợ cấp tương ứng
IAS 37 tuân thủ theo tính “bản
chất quyết định hình thức” của
IAS 01, các khoản dự phòng trên
BCTC được trình bày và tính
toán dựa trên bản chất và thực
trạng kinh tế của thông tin chứ
không chỉ đơn thuần là tình trạng

pháp lí của những thông tin
Qua việc so sánh hai chuẩn mực kế toán trên giúp ta thấy rằng giữa
những quy định về hạch toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng của Việt Nam
và Quốc tế không có sự khác biệt quá lớn. Song do chuẩn mực này mới được
ban hành và những thông tư hướng dẫn chưa có sự thống nhất nên đã gây
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 12
không ít khó khăn trong công tác hạch toán dự phòng phải trả và nợ tiềm tàng
tại các doanh nghiệp hiện nay.
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 13
PHẦN II: PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN CÁC KHOẢN DỰ
PHÒNG PHẢI TRẢ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
2.1. Các văn bản hướng dẫn về hạch toán các khoản dự phòng phải trả
hiện nay
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế,
hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển.
Cùng với sự phát triển của hệ thống kế toán Việt Nam, vấn đề trích lập và
hạch toán dự phòng ngày càng hoàn thiện. Sau quyết định 1141TC/QĐ/CĐKT
ngày 1/11/1995 của Bộ Tài chính ban hành hệ thống chế độ kế toán danh
nghiệp, lần lượt các thông tư 64TC/TCDN 15/9/1997, 107/2001/TT- BTC
cũng được ban hành nhằm hướng dẫn việc trích lập dự phòng giảm giá hàng
tồn kho, dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn, dự phòng nợ phải thu
khó đòi. Những văn bản này chỉ quy định về loại dự phòng giảm giá tài sản
chứ chưa đề cập tới dự phòng phải trả, một loại dự không còn là mới ở các
nước trên thế giới. Do vậy, ngày 28/12/2005 Bộ Tài chính đã ban hành quyết
định số 100/2005/QĐ-BTC công bố 4 chuẩn mực kế toán đợt 5, trong đó có
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 18 – “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ
tiềm tàng”. Để hướng dẫn chuẩn mực này, Bộ Tài chính đã ban hành thông tư
số 21/2006/TT-BTC ngày 20/03/2006 hướng dẫn chi tiết kế toán các khoản dự

phòng phải trả. Ngoài ra còn có thông tư 13/2006/TT-BTC 27/02/2006 hướng
dẫn trích lập và sử dụng các khoản dự phòng và QĐ 15/2006/QĐ-BTC quy
định về chế độ kế toán hiện hành. Đó là những văn bản hiện đang có hiệu lực
quy định các vấn đề liên quan đến dự phòng phải trả trong doanh nghiệp.
SV: Vũ Thị Phượng
Đề án môn học 14
2.2. Kế toán các khoản dự phòng phải trả
2.2.1. Một số quy định khi hạch toán các khoản dự phòng phải trả
HẠCH TOÁN TÀI KHOẢN NÀY CẦN TÔN TRỌNG
MỘT SỐ QUY ĐỊNH SAU
1. Một khoản dự phòng phải trả chỉ được ghi nhận khi thoả mãn các điều
kiện sau:
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ nợ hiện tại (nghĩa vụ pháp lý hoặc nghĩa vụ
liên đới) do kết quả từ một sự kiện đã xảy ra;
- Sự giảm sút về những lợi ích kinh tế có thể xảy ra dẫn đến việc yêu cầu
phải thanh toán nghĩa vụ nợ; và
- Đưa ra được một ước tính đáng tin cậy về giá trị của nghĩa vụ nợ đó.
2. Giá trị được ghi nhận của một khoản dự phòng phải trả là giá trị được
ước tính hợp lý nhất về khoản tiền sẽ phải chi để thanh toán nghĩa vụ nợ hiện
tại tại ngày kết thúc kỳ kế toán năm hoặc tại ngày kết thúc kỳ kế toán giữa
niên độ.
3. Khoản dự phòng phải trả được lập mỗi năm một lần vào cuối niên độ
kế toán. Trường hợp đơn vị có lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì được lập
dự phòng phải trả vào cuối kỳ kế toán giữa niên độ. Trường hợp số dự phòng
phải trả cần lập ở kỳ kế toán này lớn hơn số dự phòng phải trả đã lập ở kỳ kế
toán trước chưa sử dụng hết thì số chênh lệch được ghi nhận vào chi phí sản
xuất, kinh doanh của kỳ kế toán đó. Trường hợp số dự phòng phải trả lập ở kỳ
kế toán này nhỏ hơn số dự phòng phải trả đã lập ở kỳ kế toán trước chưa sử
dụng hết thì số chênh lệch phải được hoàn nhập ghi giảm chi phí sản xuất,
kinh doanh của kỳ kế toán đó.

Đối với dự phòng phải trả về bảo hành công trình xây lắp được lập cho
từng công trình xây lắp và được lập vào cuối kỳ kế toán năm hoặc cuối kỳ kế
SV: Vũ Thị Phượng

×