Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.12 KB, 15 trang )

GIỚI THIỆU VỀ TÁI BẢO HIỂM
CHƯƠNG I
BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
I. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TÁI BẢO HIỂM
1. Bản chất của tái bảo hiểm
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế. Nó bao gồm các quá trình phân phối lại nhằm đáp ứng nhu cầu
đảm bảo của xã hội. Đặc trưng của nó là việc thành lập mang tính chất tập thể một quỹ dự trữ tài
chính thông qua sự vận dụng các quy luật thống kê và nguyên tắc cân đối cũng như việc phân
phối mang tính chất riêng rẽ quỹ đó để đáp ứng những nhu cầu có thể dự đoán được trong tương
lai phát sinh ra từ những sự cố bất ngờ gây thiệt hại hay xảy ra.
Phân tích sâu hơn ta thấy khái niệm bảo hiểm chứa đựng hai yếu tố cơ bản sau:
- Tính tập thể của việc thành lập quỹ dự trữ, có nghĩa là mỗi thành viên tham gia bảo hiểm đều
phải đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm). Phí này được tính dựa trên quy luật thống
kê (bao gồm thống kê tổn thất và mức độ trung bình của các tổn thất, thống kê các đơn vị rủi ro)
và nguyên tắc cân đối (có nghĩa là tổng số phí thu phải bằng tổng số tiền chi trả bồi thường).
- Tính riêng rẽ của việc phân phối quỹ dự trữ, có nghĩa là chỉ phân phối quỹ cho những thành viên
khi có rủi ro bất ngờ gây thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Những rủi ro bất ngờ này về
tổng thể phải dự đoán được và hay xảy ra.
Trên đây cũng là những yếu tố cơ bản cần phải chú ý khi tiến hành việc lập, quản lý và phân phối
quỹ tiền tệ thông qua hình thức bảo hiểm. Do có đặc thù trên nên bảo hiểm có sự đóng góp nhất
định vào việc đảm bảo tính liên tục, sự ổn định và hiệu quả của quá trình sản xuất, lưu thông và
tiêu dùng xã hội. Dựa theo các rủi ro được bảo hiểm, các ngành kinh tế khác nhau và các quá trình
tiến hành bảo hiểm được chia thành nhiều loại và được tổ chức thành một hệ thống độc lập của
nền kinh tế quốc dân (ở nhiều nước nó còn được gọi là ngành kinh tế bảo hiểm). Một trong những
loại hình đó là tái bảo hiểm.
Đối với các nước có nền kinh tế tập trung như Việt Nam, tái bảo hiểm là một lĩnh vực đặc biệt
của hệ thống bảo hiểm nhà nước và đồng thời cũng là một bộ phận của ngành kinh tế đối ngoại
mà chủ yếu là các quan hệ tài chính đối ngoại. Về khái niệm, tái bảo hiểm là một hình thức bảo
hiểm lại những rủi ro đã được bảo hiểm khác nhau (công ty tái bảo hiểm). Nói cách khác, tái bảo
hiểm là bảo hiểm cho người bảo hiểm. Cũng như đối với các loại hình bảo hiểm khác, việc tiến
hành nghiệp vụ tái bảo hiểm đòi hỏi phải có các điều kiện sau:


- Số lượng rủi ro phải đủ lớn để quy luật số đông phát huy được tác dụng và qua đó yếu tố ngẫu
nhiên được loại trừ;
- Mức độ tổn thất có thể xảy ra từ các rủi ro được bảo hiểm không được phép chênh lệch quá lớn,
cũng như không được phép có nhiều tổn thất quá lớn xảy ra trong số hợp đồng bảo hiểm (tình
trạng này dẫn đến sự không đồng nhất trong hợp đồng bảo hiểm);
- Khả năng thường xuyên xảy ra tổn thất (Nếu không có điều kiện này thì không phát sinh nhu
cầu bảo hiểm);
Nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo
hiểm gốc cho một tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng được một cách
tối ưu các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên, tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty
bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt
quá khả năng tài chính của mình.
Ví dụ : Một công ty bảo hiểm A chỉ có khả năng thanh toán tiền bồi thường tối đa là 1 triệu US$,
muốn bảo hiểm cho một chiếc tàu chở một khối lượng hàng hóa lớn trị giá 10 triệu US$. Nếu giả
sử không có tái bảo hiểm thì công ty bảo hiểm A không thể ký hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu đó
được, vì khi không may có tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm A sẽ bị phá sản. Nhưng do có
hình thức tái bảo hiểm nên công ty bảo hiểm A vẫn ký được hợp đồng bảo hiểm với chủ tàu bảo
hiểm cho con tàu trị giá 10 triệu US$. Sau khi ký hợp đồng, công ty bảo hiểm A dùng phương
pháp tái bảo hiểm phân tán bớt mức trách nhiệm mà mình phải gánh chịu. Trong trường hợp này,
công ty bảo hiểm A chỉ giữ lại 10%, còn 90% của 10 triệu US$ công ty bảo hiểm A chuyển cho
các công ty tái bảo hiểm khác, ví dụ như 50% cho công ty tái bảo hiểm B và 40% cho công ty tái
bảo hiểm C.
Thông qua ví dụ trên chúng ta thấy được vai trò và nhiệm vụ của tái bảo hiểm. Ơ đây cần phải
phân biệt sự khác nhau của tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Mặc dù có điểm giống nhau giữa tái
bảo hiểm và đồng bảo hiểm là cùng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia cho cùng một đơn vị rủi
ro, nhưng giữa chúng có nhiều điểm khác nhau. Đó là:
a. Ký hợp đồng:
- Trong tái bảo hiểm : công ty bảo hiểm gốc đứng ra ký hợp đồng bảo hiểm với người tham gia và
sau đó phân chia trách nhiệm cho các công ty tái bảo hiểm theo sự thỏa thuận giữa họ và các công
ty tái bảo hiểm.

- Trong đồng bảo hiểm:
Việc ký hợp đồng do nhiều công ty bảo hiểm tiến hành, mỗi một công ty tham gia đồng bảo hiểm
đều phải ký tên vào giấy chứng nhận bảo hiểm.
b. Trả tiền bồi thường :
- Trong tái bảo hiểm : khi tổn thất xảy ra, trước hết công ty bảo hiểm gốc đứng ra bồi thường cho
người được bảo hiểm, sau đó mới đòi lại công ty tái bảo hiểm. Ở đây người được bảo hiểm không
có quan hệ trực tiếp với công ty tái bảo hiểm.
- Trong đồng bảo hiểm: khi tổn thất xảy ra các công ty tham gia đồng bảo hiểm có trách nhiệm trả
tiền bồi thường trực tiếp cho người bảo hiểm theo tỷ lệ mà mình tham gia.
Tùy theo góc độ quan sát của công ty bảo hiểm gốc hay công ty tái bảo hiểm mà người ta phân
chia tái bảo hiểm ra thành 2 phần riêng biệt. Đó là chuyển tái bảo hiểm và nhận tái bảo hiểm:
- Chuyển tái bảo hiểm (tái bảo hiểm đi) : có nghĩa là một công ty bảo hiểm gốc phân tán rủi ro
cho các công ty tái bảo hiểm. Trong trường hợp này, công ty bảo hiểm gốc phải chuyển phí cho
các công ty tái bảo hiểm và nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình.
- Nhận tái bảo hiểm (tái bảo hiểm nhận) : là một công ty tái bảo hiểm nhận một phần rủi ro đã
được bảo hiểm từ một công ty bảo hiểm gốc khác. Trong trường hợp này, công ty tái bảo hiểm
được hưởng số phí từ công ty bảo hiểm gốc nhằm mục đích kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm.
Theo ví dụ đã nêu ở phần trên thì quá trình phân tán rủi ro của công ty bảo hiểm A cho các công
ty tái bảo hiểm B và C được gọi là tái bảo hiểm đi (nếu đứng ở góc độ của công ty bảo hiểm A)
nhưng được gọi là tái bảo hiểm nhận (nếu đứng ở góc độ của các công ty tái bảo hiểm B và C)
Ngoài ra tái bảo hiểm còn bao gồm cả hình thức tái bảo hiểm tiếp (chuyển nhượng tái bảo hiểm)
có nghĩa là một công ty tái bảo hiểm phân chia tiếp phần trách nhiệm mà mình đã nhận từ một
công ty bảo hiểm gốc cho các công ty tái bảo hiểm khác.
2. Chức năng của tái bảo hiểm:
Đối với các thể loại khác nhau của tái bảo hiểm chức năng của chúng cũng khác nhau.
Chức năng của tái bảo hiểm đi chủ yếu nhằm đảm bảo sự kinh doanh cho công ty bảo hiểm gốc.
Sự đảm bảo này phụ thuộc vào các dạng hợp đồng tái bảo hiểm và được thể hiện ở các mức độ
khác nhau :
- Có thể giảm một cách tuyệt đối sự chênh lệch của kết quả kinh doanh trong lúc tỷ lệ phí và chi
bồi thường vẫn giữ nguyên.

- Có thể loại trừ được những tổn thất lớn
- Cũng có thể loại trừ được những tổn thất lớn và đồng thời cân bằng được chênh lệch do có
nhiều tổn thất xảy ra.
Tái bảo hiểm đi là một nghiệp vụ tốn kém, vì trong phí tái bảo hiểm có cả phần chi quản lý và lợi
nhuận cho công ty tái bảo hiểm. Nên một điều cần phải chú ý là làm sao sử dụng được một cách
tối ưu tái bảo hiểm để vừa ổn định được kinh doanh vừa tiết kiệm được tài chính (ở các nước
đồng tiền không chuyển đổi được thì điều này càng quan trọng vì đó là ngoại tệ), có nghĩa là chỉ
phân tán bớt rủi ro khi thật sự cần thiết.
Ngược lại, tái bảo hiểm nhận có chức năng hoàn toàn khác với tái bảo hiểm đi. Ở đây công ty bảo
hiểm xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm nhằm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm khác. Vì
vậy chức năng của tái bảo hiểm nhận giống với chức năng của bảo hiểm đối ngoại là kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm nhằm tăng thu ngoại tệ.
Tổng kết lại ta có thể rút ra kết luận : đối với nhà nước thì tái bảo hiểm có 3 chức năng chủ yếu :
- Đảm bảo tính ổn định và sự chắc chắn cho quá trình KD và SX của các đơn vị kinh tế.
- Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước
- Tăng thu nhập quốc dân
Thông qua nhiệm vụ và chức năng trên ta thấy bảo hiểm có một ý nghĩa quan trọng đối với việc
phát triển kinh tế của một đất nước. Đảm bảo kinh doanh cho công ty bảo hiểm có nghĩa là đảm
bảo được sự kinh doanh và sản xuất của các đơn vị kinh tế, từ đó tạo điều kiện tốt cho họ phát
triển kinh doanh. Đảm bảo tính ổn định của ngân sách ngoại tệ nhà nước có nghĩa là đảm bảo
được kế hoạch chi tiêu ngoại tệ nhằm phát triển sản xuất một cách đồng bộ. Tăng thêm thu nhập
quốc dân tức là mở rộng được kinh doanh và sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.
II. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TÁI BẢO HIỂM
Như chúng ta đều biết, ngành bảo hiểm không phải là một khái niệm trùng lặp mà nó mang tính
chất giai cấp sâu sắc, vì một mặt bản chất và nhiệm vụ của nó được xác định qua những trật tư xã
hội khác nhau và quy luật kinh tế cơ bản của xã hội đó, đồng thời mặt khác hoạt động của nó có
tác dụng trở lại đối với sự phát triển của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của xã hội đó. Vì
vậy, sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và tái bảo hiểm nói riêng đều gắn chặt với sự
phát triển của xã hội và của nền sản xuất hàng hóa.
1. Giai đoạn đầu phát triển của tái bảo hiểm

Vào giai đoạn cuối cùng của thời đại trung cổ, khi ngành bảo hiểm bắt đầu phát triển và mở rộng
ở châu Âu thì nhu cầu tái bảo hiểm đã xuất hiện và ngày càng tăng nhanh cùng với sự phát triển
của nền kinh tế TBCN. Trước tiên, nghiệp vụ tái bảo hiểm được tiến hành cho loại hình bảo hiểm
vận chuyển hàng hải, sau này dần dần được mở rộng sang bảo hiểm cháy, BHNT.
Nước Ý là nước đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm. Bản giao ước cổ nhất
được biết đến với tính chất pháp lý như một hợp đồng tái bảo hiểm đã được ký kết tại thành phố
Genés vào năm 1370 giữa một bên là hai thương nhân hoạt động với tư cách là nhà tái bảo hiểm
với một bên là đại diện cho một nhà bảo hiểm. Hợp đồng tái bảo hiểm này được ký kết nhằm đảm
bảo dịch vụ bảo hiểm cho các hàng hóa gửi đi bằng đường biển từ Genés đến Bruges. Sau này với
sự phát triển rộng rãi về những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành phố của nước Ý và
giữa các nước Bắc Âu, đặc biệt là nước Anh dịch vụ tái bảo hiểm đã phát triển lên một bước.
Nhưng sau đó đã xuất hiện nhiều vụ lạm dụng có tính cách con buôn gây ra nhiều phản ứng chống
lại bản chất tái bảo hiểm. Trong những vụ này các nhà bảo hiểm đã lợi dụng hình thức tái bảo
hiểm để phân tán rủi ro nhưng theo tỷ lệ phí thấp hơn nhiều so với phí bảo hiểm gốc để kiếm lời.
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ra đời đạo luật cấm các hoạt động tái bảo hiểm hàng hải
ở nước Anh trong một thời gian dài từ 1746 đến 1864. Đạo luật này đã vô hình chung tạo điều
kiện thuận lợi cho tổ chức Lloyd’s phát huy ảnh hưởng của mình bằng cách đồng bảo hiểm và sau
1864 đã nghiễm nhiên trở thành thị trường tái bảo hiểm quan trọng nhất thế giới. Trong thời gian
này các hình thức tái bảo hiểm khác cũng đã xuất hiện, ví dụ như tái bảo hiểm cháy … Lúc đầu
nghiệp vụ tái bảo hiểm được các công ty bảo hiểm tiến hành, điều đó có ý nghĩa là họ vừa tiến
hành bảo hiểm gốc vừa đồng thời tiến hành cả tái bảo hiểm. Hình thức tái bảo hiểm duy nhất
được sử dụng đó là hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn cho từng rủi ro riêng lẻ.
2. Giai đoạn từ giữa thế kỷ thứ 19 đến giữa thế kỷ 20:
Giữa thế kỷ thứ 19 nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có những bước tiến nhảy vọt do
áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Quan hệ thương mại
giữa các nước được mở rộng và phát triển mạnh. Do đó hình thức hợp đồng tái bảo hiểm trao đổi
qua lại giữa các nhà bảo hiểm như trên không còn đáp ứng được nhu cầu. Điều kiện này dẫn đến
sự tất yếu khách quan cho việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm 1846 tại
Kohn (Đức) công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra đời lấy tên là công ty Tái bảo hiểm
Kohn. Tiếp theo đó là một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị trường thế giới hiện nay

cũng đã được thành lập như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (Swiss Re) năm 1863, công ty tái bảo
hiểm London (London Guarantee Reinsurance co.Ltd) năm 1869, công ty tái bảo hiểm Munich
năm 1880.
Việc thành lập các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp là một sự kiện có tính chất quan trọng
trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Qua đó các công ty bảo hiểm gốc đã có sẵn trong tay
nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt động kinh doanh của họ và nhờ đó các công ty bảo hiểm gốc
không còn phải e ngại hoặc lo sợ khi phải cung cấp thông tin và số liệu cho việc chào các hợp
đồng tái bảo hiểm. Từ đó khả năng cạnh tranh của các công ty bảo hiểm gốc được tăng lên. Như
vậy sự chuyên môn hóa dịch vụ tái bảo hiểm đã có thể đáp ứng được những yêu cầu của công ty
bảo hiểm gốc một cách thỏa đáng. Khả năng phục vụ của các công ty tái bảo hiểm cũng được cải
tiến thêm bằng việc mở rộng tái bảo hiểm ra các loại hình bảo hiểm khác và lan rộng ra các thị
trường bảo hiểm nước ngoài thúc đẩy ngành bảo hiểm ngày càng phát triển. Trong thời kỳ này kỹ
thuật của tái bảo hiểm cũng được cải tiến. Nhiều hình thức và phương pháp tái bảo hiểm đã được
xây dựng.
Trong giai đoạn này, hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm
phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển của ngành bảo hiểm nói chung và ngành tái bảo
hiểm nói riêng. Bị tổn hại nhiều nhất phải kể đến các công ty tái bảo hiểm Đức. Trong hai cuộc
chiến tranh thế giới này, các giới tư bản độc quyền đã lấy vốn và quỹ tiền tệ bảo hiểm (trong đó
có dự trữ phí của bảo hiểm nhân thọ) của các công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm để chi phí cho
chiến tranh. Trong khi đó các công ty tái bảo hiểm của những nước không bị chiến tranh đe dọa
đã vươn lên, nắm lấy thị trường tái bảo hiểm quốc tế, ví dụ như công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ đã
phát triển lên thành một công ty tái bảo hiểm đồ sộ. Ngoài ra, trong thời gian này có rất nhiều
công ty tái bảo hiểm đã ra đời nhất là ở Mỹ, Thụy Sĩ.
3. Giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ hai:
Thế chiến II đã kết thúc năm 1945 với sự thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và phe đồng minh
đánh bại chủ nghĩa phát xít đến tận gốc rễ. Nó đã mở ra một giai đoạn mới của lịch sử loài người
cũng như nền kinh tế và ngành bảo hiểm. Hệ thống XHCN ra đời, phong trào giải phóng dân tộc
của nhiều nước thuộc địa đã giành được thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc lâm vào cuộc khủng hoảng
kinh tế mới, cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước đầu sỏ ngày càng gay gắt, tất cả các sự kiện
trên đều ảnh hưởng đến sự phát triển của tái bảo hiểm. Giai đoạn này được đặc trưng qua các biến

động lớn sau :
- Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của CHLB Đức: Trong chiến tranh thế
giới lần thứ hai, các công ty tái bảo hiểm Đức đã bị cắt đứt quan hệ với quốc tế và năm 1947 lại bị
cấm không cho hoạt động ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi lệnh cấm này được bãi bỏ năm 1950
thì các công ty tái bảo hiểm ở CHLB Đức đã nhanh chóng khôi phục lại địa vị truyền thống của
mình và thiết lập các quan hệ quốc tế rộng rãi. Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập.
Hoạt động bảo hiểm và tái bảo hiểm được phát triển với tốc độ nhanh. Đến những năm 70 tổng
doanh thu phí của thị trường CHLB Đức đã chiếm vị trí thứ ba trên thế giới, sau Nhật và Mỹ.
- Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nước ở các nước XHCN : sự kiện này ảnh hưởng lớn đến
chiều hướng phát triển của tái bảo hiểm quốc tế. Các nước XHCN đã tiến hành biện pháp độc
quyền về tái bảo hiểm và hạn chế quan hệ với thị trường tái bảo hiểm tư bản chủ nghĩa. Đồng thời
ở các nước XHCN không tiến hành tái bảo hiểm cho các loại hình bảo hiểm đối nội.
- Trong những nước chậm phát triển hoặc mới giành được độc lập những tổ chức độc quyền tái
bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã được thành lập nhằm bảo vệ lợi ích riêng của họ (Achentina,
Braxin, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập). Sự kiện này có tác dộng làm thu hẹp khả năng hoạt động của
các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nước đó.
- Nhiều công ty tái bảo hiểm mới được thành lập và càng ngày có nhiều công ty bảo hiểm tiến
hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh tranh giữa họ ngày càng gay gắt và dưới
nhiều hình thức khác nhau.
- Trong thời gian này, hình thức tái bảo hiểm không theo tỷ lệ là hình thức tối ưu nhất đáp ứng
được nhu cầu đảm bảo của các công ty bảo hiểm gốc và ngày càng được phổ biến rộng rãi. Điều
này làm cho các nhà tái bảo hiểm, có khó khăn hơn trong việc tính phí phù hợp với phần rủi ro mà
họ phải gánh chịu. Thêm vào đó là khả năng xảy ra tổn thất ngày càng tăng. Vì vậy, đặc điểm của
giai đoạn này là chiều hướng ngày càng giảm của kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm
thuần túy, nhưng đồng thời chiều hướng ngày càng tăng của kết quả kinh doanh đầu tư quỹ tiền tệ
bảo hiểm thông qua lãi suất cao.
CHƯƠNG II
HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM
PHẦN A
CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM

I. KHÁI QUÁT CHUNG
Sự ra đời và quá trình lịch sử phát triển của tái bảo hiểm cho thấy vào thời gian ban đầu không có
sự phân biệt rõ ràng nào về các hình thức tái bảo hiểm, bởi vì trong nhiều thế kỷ chỉ có một hình
thức tái bảo hiểm duy nhất được biết và được ứng dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới.
Đó là “tái bảo hiểm lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt”.
Đầu thế kỷ 19, để đáp ứng nhu cầu của ngành bảo hiểm đang ngày càng phát triển mạnh mẽ,
ngành tái bảo hiểm bắt đầu phát triển nhanh chóng và lúc đó, các hình thức tái bảo hiểm mới được
tạo lập.
Dĩ nhiên trong hoạt động hàng ngày, hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (tái bảo hiểm nhiệm ý)
vẫn tồn tại, mặc dù hình thức này sau một thời gian tạm bị lu mờ, nay lại xuất hiện thậm chí còn
trở nên quan trọng hơn trước đây rất nhiều. Bên cạnh hình thức này, thị trường bảo hiểm và tái
bảo hiểm thế giới còn hình thành những hình thức tái bảo hiểm bắt buộc (tái bảo hiểm tự động) và
các hình thức này được phân thành hai phương thức chủ yếu là:
1.Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm tỷ lệ) bao gồm:
- Dạng tái bảo hiểm phân ngạch (số thành) : Quota Share
- Dạng tái bảo hiểm mức thặng dư (mức dôi) : Surplus
2. Tái bảo hiểm theo mức bồi thường bảo hiểm tái bảo hiểm không tỷ lệ) bao gồm:
- Dạng tái bảo hiểm thặng dư tổn thất (tái bảo hiểm vượt mức bồi thường) : Excess of Loss;
- Dạng tái bảo hiểm vượt mức thặng dư tổn thất ấn định năm (tái bảo hiểm vượt mức tỷ lệ bồi
thường).
Thực ra ở đây chỉ cần giới hạn sự phân biệt giữa tái bảo hiểm theo tỷ lệ và tái bảo hiểm không
theo tỷ lệ là đủ. Bởi vì trong lý thuyết cũng như thực hành, các hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa
chọn và tái bảo hiểm bắt buộc, cũng như sau này có thêm hình thức tái bảo hiểm kết hợp giữa hai
hình thức này gọi là tái bảo hiểm nhiệm ý – bắt buộc (tái bảo hiểm mở ngỏ) FACOBLI cũng đều
có thể thực hiện dưới một trong hai phương thức nói trên.
II. VAI TRÒ KINH TẾ CỦA CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reins.)
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ “Tùy ý lựa chọn” (Facultative) có
liên quan đến ý niệm là trong loại tái bảo hiểm này, công ty nhượng (ceding company) có toàn
quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại, nhà tái bảo hiểm (Reinsurer) có quyền

nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo hiểm đem nhượng theo cơ sở tùy ý lựa chọn là một
hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn
nhượng cho thị trường tái bảo hiểm.
Vào thời điểm khi kết thúc một thỏa thuận thương mại nào đó thì các bên tham gia vào thỏa thuận
đó thường quan tâm đến việc quy định thật chính xác các chi tiết cần thiết của thỏa thuận lần tới,
các mục đích, nghĩa vụ của các bên đối với nhau và đặt ra các điều kiện cần thiết để ràng buộc
những nghĩa vụ và quyền lợi ấy và như vậy, chỉ có hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn là phù
hợp nhất, vì nó có thể cho phép nhà tái bảo hiểm có được một ý niệm đúng về những rủi ro mà
mình phải gánh chịu trước khi tham gia hợp đồng.

×