Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ảnh hưởng của Nho Giáo đến văn hóa truyền thống Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.37 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA









HOÀNG ANH HUY
MHV: 13050187


VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIÁO ĐỐI VỚI VĂN HOÁ
TRUYỀN THỐNG CỦA VIỆT NAM



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC



GVHD: TS. ĐÀO DUY THANH







TP. HỒ CHÍ MINH - 2014
1


MỤC LỤC


I. Mở đầu 2
II. Nội dung. 3
II.1. Nho giáo. 3
II.2. Nội dung và quan điểm của Nho giáo. 3
II.3. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo. 3
II.4. Sự du nhập của triết lý nho giáo Trung Hoa vào Việt Nam và ảnh hưởng
của nó. 3
III. Kết luận. 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
Ghi Chú:
[1] → [14]: Trích dẫn tham khảo
[15]→[28]: Chỉ tham khảo








“Con người luôn là cốt lõi cho mọi giá trị văn hoá truyền thống của một quốc
gia”




2

I. Mở đầu
Trong một thế giới luôn vận động và biến đổi, tôi vẫn thường tự hỏi liệu có gì
tồn tại được mãi mãi hay không? Rồi trong một phút bất giác chợt nhận ra rằng tri thức
con người sẽ luôn thay đổi theo thời gian, nhưng những giá trị về vật chất và tinh thần
do nó tạo ra thì có lẽ là tương đối bền vững cho đến khi có một cuộc cách mạng đổi
thay nó. Mỗi cá nhân, gia đình và xã hội đều có những giá trị riêng đặc trưng mà ta
còn gọi là văn hoá (văn hoá cá thể, văn hoá gia đình và văn hoá xã hội), tiêu chuẩn
chính cho việc đánh giá. Vậy để thẩm định giá trị của một quốc gia rõ là phải thông
qua những tinh hoa trong văn hoá truyền thống của quốc gia đó. Với Việt Nam của
chúng ta, một quốc gia có không ít những giá trị văn hoá truyền thống: chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần đoàn kết, kiên cường, bất khuất, cần cù, chăm chỉ, hiếu học, … Quả
thực khó có thể kể ra đầy đủ các giá trị văn hoá truyền thống của ta, tuy nhiên theo cá
nhân tôi, các giá trị này đều được thể hiện thông qua các phong tục tập quán, các nhân
vật lịch sử, anh hùng dân tộc, các di chỉ đền đài lăng tẩm đã và đang có của ta. Không
thể tồn tại một quốc gia mà nền văn hoá truyền thống không chịu ảnh hưởng ít nhiều
những tác động từ bên ngoài. Một quốc gia nhỏ nhất như Công quốc Monaco vẫn phải
chịu sự ảnh hưởng từ Giáo hội Công Giáo Roma [1], hay quốc gia lớn nhất như Nga,
nền văn hoá truyền thống cũng không thoát khỏi những ảnh hưởng của các bộ lạc
trước đó trên cả phần đất thuộc Châu Á và Châu Âu (việc du nhập Ki-tô giáo từ Đế
quốc Đông La Mã năm 988, thời Trung Đại lãnh thổ của các bộ lạc người Goth, Hun,
Avar gốc Thổ, Scythia gốc Iran hay Ugric gốc Phần Lan, … đều thuộc lãnh thổ Nga
ngày nay) [2]. Vậy nên, xét các yếu tố ảnh hưởng đến văn hoá truyền thống Việt Nam
không thể không kể đến Nho giáo Trung Hoa. Cũng đã có nhiều quan điểm, ý kiến
khác nhau về vấn đề này, tuy nhiên chỉ xét trên bình diện chung mà chưa đánh giá
được cụ thể mức độ ảnh hưởng hay chưa làm rõ được vấn đề, có lẽ là do gặp phải
nhiều ý kiến trái chiều. Vẫn xét ảnh hưởng của triết học Nho giáo đến văn hoá truyền

thống của Việt Nam, nhưng tôi sẽ giới hạn để có thể cụ thể hoá ảnh hưởng của triết
học Nho giáo thông qua các nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc và các đền đài lăng tẩm
của ta, vì theo tôi con người luôn là cốt lõi cho mọi giá trị văn hoá truyền thống của
một quốc gia.


3

II. Nội dung.
II.1. Nho giáo [3].
Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho gồm từ
nhân (người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho Giáo còn gọi là nhà nho, người
đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp
với luân thường đạo lý.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, tự Trọng
Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư tưởng trước
đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
II.2. Nội dung và quan điểm của Nho giáo.
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu), Tứ thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung,
Mạnh Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam Cương đó là các mối quan hệ
vua-tôi, cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín). Nho giáo ảnh
hưởng hầu hết các nước phong kiến phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hóa.
Nội dung cụ thể có thể tham khảo [3].
II.3. Các tác phẩm kinh điển của Nho giáo.
Gồm có Tứ thư và Ngũ kinh, các sách này chủ yếu viết về các vấn đề xã hội,
chính trị, đạo đức, những kinh nghiệm, triết lý, Nội dung cụ thể về việc giải thích
các quyển sách này tham khảo [4].
II.4. Sự du nhập của triết lý nho giáo Trung Hoa vào Việt Nam và ảnh hưởng của
nó.

Là một hệ thống triết lý, đạo đức và tôn giáo do Khổng Tử sáng lập, Nho giáo
không chỉ là tài sản riêng của Trung Hoa mà gần như hầu hết các nước lân cận đều bị
ảnh hưởng bởi nó (Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, ).
Theo qui luật logic, cái gì cũng phải có nền tảng của nó, vậy nên, là một người
Việt Nam, tôi cũng rất muốn tìm hiểu về những giá trị văn hoá truyền thống của mình
có nền tảng từ đâu. Ngược dòng thời gian về với những dòng sử thời Bắc thuộc: Nhà
Hán cai trị nước ta, triết lý nho giáo và văn hoá Trung Hoa được truyền bá vào Việt
Nam với ý đồ đồng hoá lấy người Việt cai trị người Việt, sự truyền bá này chỉ trong
4

phạm vi các đô thị lớn thời bấy giờ, do đó chỉ có một bộ phận người Việt tiếp nhận
được triết lý này thông qua quá trình giúp việc cho các viên quan cai trị người Hán
như các Tộc Trưởng, Hào Trưởng, Tù Trưởng, Lạc Hầu, Lạc Tướng, … Thời này chữ
“trung” mà bọn cai trị muốn người giúp việc hiểu là trung thành tuyệt đối với Thiên
Tử nhà Hán “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, nhưng người Việt luôn có tinh
thần yêu nước truyền thống (Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi giặc Ân, An Dương
Vương 2 lần đánh đuổi quân Tần 208 TCN) nên cách hiểu và hành động không như sự
mong muốn của bọn cai trị người Hán, luôn có những cuộc khởi nghĩa nổi dậy và
kháng chiến chống quân xâm lược từ thế kỷ I-X (Hai Bà Trưng năm 40, Bà Triệu năm
248, Lã Hưng năm 262, Triệu Chỉ năm 299, Lý Bí năm 542, Triệu Quang Phục năm
557, Mai Thúc Loan năm 722, Phùng Hưng với em là Phùng Hải năm 779, Dương
Thanh năm 791-820, Khúc Thừa Dụ năm 906, Dương Đình Nghệ năm 931, Ngô
Quyền năm 939, Lê Hoàn 981 phá tan quân Tống) [5].
Năm 1070 Lý Thánh Tông cho lập văn miếu thờ Khổng Tử và Chu Công coi
như là mốc ghi nhận tiếp thu chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.












Thời kỳ này ở Trung Hoa triết học Khổng Mạnh đã được đổi thành Tống Nho.
Thời này Phật giáo rất thịnh nên Nho giáo chưa ở địa vị độc tôn nhưng cũng rất quan
trọng, Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung Hoa nhưng không
giữ nguyên bản mà có sự chọn lọc dung hoà với chủ nghĩa yêu nước của dân tộc. Cũng
trong năm 1070 Quốc Tử Giám được xây dựng ngay kinh thành Thăng Long, nền Đại
học Việt Nam được khai sinh. Trường này dành cho giới quý tộc, quan lại và con em
5

của họ. Đồng thời một số trung tâm giáo dục Nho học được mở ra khắp các đô thị
trong nước, tư tưởng Nho giáo ngày càng được truyền bá rộng rãi. Quân sự thời này
được tổ chức và luyện tập theo binh pháp Trung Hoa, Việt Quốc Công Lý Thường
Kiệt với đội Thiên Tử Quân; là đội quân được huấn luyện tinh nhuệ có tổ chức chặt
chẽ và kỷ luật nghiêm minh. Biết được nhà Tống đang âm mưu xâm lược nước ta, Lý
Thường Kiệt chủ trương phòng thủ bằng cách tấn công trước nên ông đã viết bài:
“Phạt Tống lộ bố văn”, trong này sử dụng nhiều vấn đề trong học thuyết “Âm Dương”,
hầu cho nhân dân Trung Hoa ở những nơi ông sắp chinh phạt hiểu rằng việc ông làm
là việc hiển nhiên (qui luật của trời đất), ông nhận được sự ủng hộ của nhân dân sở tại.
Kết quả cuộc chinh phạt thành công mỹ mãn, ông và Tôn Đản đã đập tan 3 căn cứ
quân sự lớn dùng làm bàn đạp để chuẩn bị tấn công Việt Nam (Liêm Châu, Ung Châu
và Khâm Châu). Để trả thù năm 1076, nhà Tống sai 2 danh tướng Quách Quỳ và Triệu
Tiết đem quân qua đánh ta, gặp phải phòng tuyến Sông Cầu chúng ngừng lại đóng
quân, ở phòng tuyến này xảy ra trận quyết chiến Như Nguyệt năm 1077, để đánh
nhanh thắng nhanh nên Lý Thường Kiệt viết bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” để khích lệ
lòng quân, tương truyền nhân đêm trời tối Lý Thường Kiệt đã cho người vào miếu thờ

Trương Hát gần chiến tuyến đọc to bài thơ ấy lên. Lời thơ hùng hồn lại được đọc dõng
dạc nơi chốn tôn nghiêm khiến quân sĩ tưởng là lời của thần linh sông núi nên tinh
thần mạnh mẽ hơn. Chớp thời cơ, Lý Thường Kiệt ra lệnh đánh mạnh, trận Như
Nguyệt toàn thắng, dẫn đến các trận sau liên tiếp thắng lợi và quét sạch ngoại xâm ra
khỏi bờ cõi. Dù thắng lợi, nhưng Lý Thường Kiệt vẫn viết thư đề nghị giảng hoà nhằm
tránh sự trả thù “dùng biện sĩ giảng hoà không nhọc tướng tá, không tốn xương máu
quân sĩ mà bảo tồn được tôn miếu xã tắc” [6]. Câu nói này cho ta thấy lòng nhân nghĩa
trí đức của Lý Thường Kiệt, rõ ràng chất Nho không chỉ ảnh hưởng đến văn thơ, hay
trong binh pháp đánh trận mà nó còn ảnh hưởng mạnh mẽ trong suy nghĩ và hành động
của ông.






6

Dưới thời Trần nền Nho học Việt Nam đã hoà quyện với chủ nghĩa dân tộc yêu
nước qua ba lần đánh đuổi ngoại xâm, Nho học là biểu hiện tập trung của sự phát triển
nho giáo. Chế độ giáo dục thi cử có từ thời nhà Lý được nâng lên một trình độ mới,
chính qui và chặt chẽ hơn (Quốc Tử Giám nay mở rộng cho các tầng lớp khác vào
học). Nhà Trần đã tổ chức nhiều khoa thi và việc thi cử ngày càng được xem trọng.
Năm 1232 nhà Trần đặt ra học vị Thái Học Sinh (đời Lê đổi thành Tiến Sĩ). Năm 1247
tiếp tục đặt thêm lệ lấy đỗ tam khôi hay còn gọi là “Tam Nguyên” (Trạng Nguyên,
Bảng Nhãn, Thám Hoa). Năm 1305 lại đặt thêm học vị Hoàng Giáp (đỗ thứ tư, sau
Thám Hoa). Thời Trần đã đào tạo ra rất nhiều nho gia nổi tiếng như: Chu Văn An,
Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Mạc Đỉnh Chi, Lê Văn Hưu,
Nguyễn Hiền, … Tạm chỉ lướt sơ qua một số lĩnh vực văn hoá mang đậm ảnh hưởng
của Nho giáo thời này như văn học, một số tác phẩm rất có giá trị (“Việt Điện U Linh

Tập” do Lý Tế Xuyên sưu tầm, chắt lọc và soạn thảo ra; tập sách này cũng là cơ sở
ban đầu để rồi thời Lê Sơ, Vũ Quỳnh và Kiều Phú soạn ra bộ “Lĩnh Nam Chích Quái”)
hay sử học đời Trần, bảng nhãn Lê Văn Hưu cho ra đời bộ “Đại Việt Sử Ký” năm
1272 gồm 30 quyển rất có giá trị, có nhiều lời bình sâu sắc của ông (chi tiết và bố cục
có nhiều điểm giống với sử ký của Tư Mã Thiên đời Hán), đặc biệt y học thời Trần
tiếp thu toàn bộ nền y học Trung Quốc thời bấy giờ cùng với những giá trị y học cổ
truyền của tổ tiên những thời trước (Phạm Bân - một thầy thuốc giỏi của Thái Y Viện),
đáng chú ý là Trần Hưng Đạo, không chỉ là tướng tài, ông còn là một thầy thuốc giỏi,
ông sưu tầm rất nhiều cây thuốc quí về trồng trong khu đất thuộc Thái Ấp của mình,
cho đến nay vẫn còn (khu Dược Sơn thuộc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương), còn về
nghệ thuật ca múa thời Trần cũng có tiếp thu từ phương Bắc chút ít, không làm thay
đổi bản sắc vốn có của ta, mà bổ sung và làm phong phú thêm (theo Đại Việt Sử Ký
toàn thư, sau cuộc chống quân Nguyên lần thứ 2, ta bắt được kép hát nổi tiếng của
Trung Quốc là Lý Nguyên Cát, người này ở lại Việt Nam múa vui cho triều Trần, sau
đó sáng tác rất nhiều tuồng tích cho ta trong đó có tuồng “Tây Vương Mẫu hiến vườn
đào” rất nổi tiếng) [7]. Trở lại vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo đến giá trị văn hoá
truyền thống của ta, ở thời này nhân vật lịch sử mang đậm ảnh hưởng Nho giáo mà tôi
muốn nhắc đến không ai khác, đó chính là vị anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn, trong bài “Dụ Chư Tỳ Tướng Hịch Văn” (Hịch Tướng Sĩ), ông nói: “Nay
ta chọn binh pháp các nhà hợp thành một quyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược” [8], “các
7

nhà” ở đây rõ ràng muốn nói tới binh pháp Tôn Tử, Nhạc Phi, … hay ở trong cuộc
chiến chống quân Nguyên–Mông lần thứ II (27/01/1285), thế giặc quá mạnh, ta phải
lui quân về Vạn Kiếp, vua Trần Nhân Tôn đã nói: “thế giặc to như vậy, mà chống với
chúng thì muôn dân bị tàn sát, nhà cửa bị phá hoại, hay là Trẫm sẽ chịu hàng để cứu
muôn dân?”, Hưng Đạo Vương tâu: “Bệ Hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn
Miếu Xã Tắc thì sao? Nếu Bệ Hạ muốn hàng thì xin hãy chém đầu thần trước” [9]. Xét
lời vua Nhân Tông thì rõ ràng đây là tư tưởng nhân đức, còn xét lời Hưng Đạo Vương
ta thấy ông rất mực yêu dân yêu nước “Tôn Miếu Xã Tắc”, ông thà chết chứ không

muốn nhìn thấy cảnh mất nước, từ việc soạn binh thư, đến tất cả các lời nói cử chỉ và
hành động của Trần Hưng Đạo đều toát lên những nét đặc trưng của Nho giáo như
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, trong con người ông thể hiện rõ nét một đấng quân tử đầu
đội trời chân đạp đất.










Tiếp tục với “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi viết thay lời Bình Định
Vương Lê Lợi, vẫn những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở
yên dân”, “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn”, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”,
“Lấy chí nhân để thay cường bạo”, hay “… thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh” [10],
(cấp thuyền, ngựa cho Mã Kỳ, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh về nước sau khi
đã thua trận), “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”, gần như
cái trí dũng, mưu lược và mọi suy nghĩ hành động của vị anh hùng dân tộc này đều
mang đậm chất Nho, tuy nhiên trong cái nền tảng Nho ấy của Nguyễn Trãi lại kết hợp
và hoà quyện được một trí tuệ Việt đầy sáng tạo: tương truyền, Nguyễn Trãi sai người
lên thượng nguồn các con sông, lấy mỡ viết vào lá khô tám chữ: “Lê Lợi vi quân,
8

Nguyễn Trãi vi thần”, rồi cho kiến ăn đục thủng lỗ trên lá, thả lá xuống sông, người
dân sống ven sông và các khu vực lân cận tin là trời đã định “mệnh trời” Lê Lợi sẽ
thắng và làm vua, nên đồn thổi khắp nước, việc này vô cùng có lợi cho sĩ khí quân lính
cũng như niềm tin và sự ủng hộ của toàn dân.










Dù là một nước nhỏ so với Trung Quốc nhưng ở thời nào Việt Nam cũng đều
có những người tài giỏi, thậm chí là phi thường, với chiến thắng thần tốc năm 1788,
dẹp tan 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, Quang Trung Hoàng Đế đã trở
thành một vị tướng được cả thế giới công nhận tài cầm quân có một không hai trong
lịch sử nhân loại, trong binh pháp của ông có câu: “Ân uy, độ lượng”, rõ ràng chữ
“nhân” trong Nho giáo vẫn luôn là nền tảng tạo nên nét đẹp riêng trong văn hoá Việt
Nam. Cùng với tài võ nghệ phi thường, Nguyễn Huệ còn có cái “trí” của một “quân
tử” theo kiểu mẫu Nho Giáo, cũng khích lệ lòng quân bằng mưu trí nhưng không
giống Nguyễn Trãi (khắc chữ trên lá khô), ông cho đúc 200 đồng tiền có hai mặt giống
nhau, trước khi tấn công quân Thanh, ông đem mâm tiền có phủ vải đỏ ra cúng bái và
bảo với quân lính: “Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều
sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là
đại sự của chúng ta có điều trắc trở” [11], Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng
mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân, quân sĩ thấy các đồng tiền
nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh. Không chỉ
vậy, phương pháp hành quân thần tốc của ông (một nhóm 3 người, luân phiên nghỉ
trên võng, theo tương truyền) đã cho thấy tài biến hoá vô cùng sáng tạo trong binh
pháp của ông. Thông qua hình ảnh Quang Trung Hoàng Đế, một lần nữa cái giá trị của
Nho giáo trong công cuộc giữ nước của cha ông ta được thể hiện rõ nét.
9














Không chỉ có những vị anh hùng tài trí siêu quần, Việt Nam còn được biết đến
với những tác phẩm thi ca mang tầm quốc tế như “Đoạn Trường Tân Thanh” (Truyện
Kiều) [12] của danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Du, thông qua tuyệt tác này ta lại
càng thấy rõ triết học Nho giáo luôn giữ vai trò nền tảng cho những tác phẩm nghệ
thuật của Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn phong kiến. Những tư tưởng về “thiên
mệnh” hay “đạo trời” của Khổng Tử đã được Nguyễn Du vận dụng một cách triệt để
đầy tinh tế:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Và trời cũng hết sức công bằng:
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai”.
Chỉ xét riêng hai đoạn thơ mở đầu và kết thúc câu truyện, Nguyễn Du đều đã nhắc đến

chữ “mệnh” do “trời” định, hay:
“Chém cha cái số hoa đào
10

Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi
Nghĩ đời mà ngán sự đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
Hầu như toàn bộ câu truyện của ông kể về số phận nàng Kiều đều liên quan đến
“thiên mệnh”, cũng không phải bàn sâu hơn về những tác phẩm nổi tiếng khác của ông
vì lẽ hiển nhiên nó đều có hơi thở của Nho giáo hoà quyện với một tư duy tinh tế tạo
nên một đại thi hào Nguyễn Du cho dân tộc ta. Tại sao vậy? Đơn giản là vì nền tảng
kiến thức mà Nguyễn Du sở hữu vốn là Nho học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm
của Nho giáo Trung Hoa.










Dù không được xếp trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc, nhưng không thể
bỏ qua một nhân vật lịch sử, một nhà thơ lớn, cũng xuất thân từ gia đình có truyền
thống Nho học, Nguyễn Đình Chiểu với tác phẩm “Lục Vân Tiên” ca ngợi chính nghĩa,
đạo đức đáng quý trọng ở đời đã tạo nên tên tuổi của ông, đáng chú ý là bài “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhân dân được ca ngợi như
những anh hùng, một vài câu trích từ bài văn tế: “Lòng dân trời tỏ”, “Một trận nghĩa
đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”, “Chín chục trận binh thư, không chờ bày

bố”, “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ”, “Thác mà trả nước
non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ,
tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã
rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,
thương vì hai chữ thiên dân” [13]. Rõ ràng những nghĩa cử cao đẹp của các anh hùng
vì chữ “trung” chữ “hiếu” mà hi sinh không tiếc thân mình, những người còn sống họ
11

cũng như Nguyễn Đình Chiểu luôn ghi nhớ công ơn, ở đây chữ “nghĩa” được thể hiện
ra thành những hành động vô cùng thương tiếc lập đền thờ để đời.










Qua khỏi thời phong kiến ta lại có một vị anh hùng dân tộc được cả thế giới biết
đến, Chủ Tịch Hồ Chí Minh, xuất thân từ một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu
nước, nền tảng tri thức của ông cũng bị ảnh hưởng bởi Nho giáo không ít, tuy nhiên
nhờ một số điều kiện đương thời cùng lòng yêu nước, tinh thần ham học hỏi nên
Người đã du nhập được những thành tựu về tư tưởng ở nhiều châu lục, nhiều quốc gia
khác nhau trên thế giới dẫn đến sự thành công to lớn trong sự nghiệp Cách Mạng. Một
trong số những câu nói nổi tiếng của Người: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với
dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng” [14]. Ở đây Bác Hồ đã đề cập đến chữ “trung”, “hiếu”, và cái việc “nghĩa” mà

con người Việt Nam trong lúc này phải làm đó là chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ
quốc dù có phải hy sinh.







12

Quá rõ ràng, không xét những ảnh hưởng mang tính tiêu cực thì dù ở thời kỳ
nào đi nữa ảnh hưởng của Nho giáo cũng luôn tác động rất tích cực đến các giá trị văn
hoá truyền thống của Việt Nam ta trong công cuộc giữ nước và duy trì cân bằng xã hội.
Đã từng có những ý kiến bác bỏ tầm ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam của khá
nhiều các nhân vật có tầm cỡ, tuy nhiên với những bằng chứng còn đây và có lẽ cũng
sẽ tồn tại mãi về sau như: các tập tục “Tết Nguyên Đán”, “Tết trung thu”, những ngày
lễ để nhớ về cội nguồn như: “giỗ tổ Hùng Vương”, các đền đài, tượng đúc để tôn thờ
ghi nhớ công ơn tổ tiên mà qua đó không ai có thể phủ nhận cái “lễ”, “nghĩa” của con
cháu các thế hệ hiện nay và sau này đối với cha ông. Ai có thể bỏ được tấm bia khắc
dòng chữ “Đời đời ghi nhớ” tại đền bến dược Củ Chi:










Ai có thể cản được bước chân của thế hệ hiện tại và những thế hệ sau đến thăm viếng
và thực hiện chữ “nghĩa” cao đẹp này đây?











13

Ai có thể quên được ngày giỗ Tổ hay ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh?







Lăng Bác Đền Hùng

Thực tế cho thấy nền tảng tư tưởng của triết học Nho giáo đã và vẫn còn đang
tồn tại một cách đầy tích cực trong xã hội Việt Nam, trong những truyền thống tốt đẹp
mà có lẽ các thế hệ sau này không dám tính đến chuyện bỏ đi vì nhỡ ai đó hỏi: Truyền
thống nước bạn có những gì? Sao trả lời đây. Nói vậy để ta có thể đánh giá được ảnh
hưởng của triết học Nho giáo đến văn hoá truyền thống của Việt Nam là bao, để ta có

thể hình dung được các giá trị tích cực trong nền tảng của triết học Nho giáo đã hoà
quyện vào các giá trị văn hoá truyền thống của ta tạo nên một thể thống nhất được toàn
xã hội chấp nhận hưởng ứng và vẫn luôn tự hào với bạn bè năm châu.










14

III. Kết luận.
Theo thói quen trong tư tưởng, nhận thức của con người, ít ai dám thừa nhận
những vinh quang đang hưởng thụ chỉ có 5-20% công sức của bản thân, khi đạt được
một thành quả nhất định trong cuộc sống người ta thường cho rằng bản thân đã cố
gắng rất nhiều để có được ngày hôm nay, thực chất xung quanh sự thành đạt đó có biết
bao yếu tố hỗ trợ mà đã có ai từng thực sự suy ngẫm cặn kẽ. Chỉ một lần quan sát thế
giới xunh quanh thật khách quan bạn lại thấy mình thật chủ quan. Với tôi tầm ảnh
hưởng mà triết học Nho giáo đặt vào những giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam
quả thực không nhỏ, nó không chỉ là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của dân tộc ta
thời phong kiến mà còn luôn là nền tảng trong công cuộc dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta. “Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”, cây không
gốc thì sống sao được mà cho hoa thơm quả ngọt. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò
nền tảng của triết học Nho giáo đối với văn hoá truyền thống của mình cũng như phải
thừa nhận rằng các thế hệ cha ông ta đã luôn vận dụng Nho giáo một cách hết sức linh
hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định

để rồi thành quả mà chúng ta nhận được ngày nay là niềm tự hào dân tộc, tự hào về
một quốc gia có truyền thống văn hoá không thua kém gì bạn bè năm châu.













15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3] NHO-GIaO-La-Gi htm
[4]
[5] o/index.php?option=com_content&view=article&id=2&
Itemid=25
[6]
3%BD
[7]
%BB%AD_k%C3%BD_to%C3%A0n_th%C6%B0
[8]
%C4%A9_(Tr%E1%BA%A7n_Tr%E1%BB%8Dng_Kim_d%E1%BB%8Bch)

[9]
%C4%A9
[10] /> %A1i_c%C3%A1o_(Ng%C3%B4_T%E1%BA%A5t_T%E1%BB%91_d%E1%
BB%8Bch)
[11]
B%93i_-_%C4%90%E1%BB%91ng_%C4%90a
[12]
[13]
4%A9_C%E1%BA%A7n_Giu%E1%BB%99c
[14]
A2n_d%C3%A2n_Vi%E1%BB%87t_Nam
[15]
[16] />hoa-truyen-thong-cua-Viet-Nam.htm
[17]
w=article&id=556:con-ngi-vit-nam-vi-truyn-thng-vn-hoa-nho-giao-hoa&catid=
100:vn-hoa-lch-s-trit-hc&Itemid=161
16

[18] />vn-hoa-vit-nam.html
[19]
nho_giao_va_nhung_anh_huong_cua_no_den_doi_song_tinh_than_cua_nguoi_
Viet_Nam
[20]
_viet.html
[21]
[22]
[23]
B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/tu-tuong-phat-giao-va-anh-huong-
cua-no-doi-voi-xa-hoi-viet-nam
[24]

[25]
[26]
[27] />en.html
[28]
47802174&type=1



×