Tải bản đầy đủ (.pdf) (393 trang)

Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp TP HCM thực trạng và các giải pháp kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.72 MB, 393 trang )

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài
Với vai trò khởi động quá trình phát triển công nghiệp tại một số địa điểm chọn lọc,
tạo điều kiện phát triển công nghiệp rộng rãi trên phạm vi cả nước, góp phần quan trọng thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, càng ngày các khu công
nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) càng khẳng định vai trò to lớn ấy của mình trong quá trình
hội nhập. Song bên cạnh những đóng góp to lớn cho nền kinh tế thì các KCN, KCX đang là
mối lo lắng của cộng đồng khi càng ngày mức độ ô nhiễm môi trường do các KCN, KCX gây
ra càng gia tăng. Nhất là tại TP HCM, việc các KCN, KCX gây ô nhiễm môi trường đã trở
thành mối đe dọa cho công cuộc “phát triển bền vững” của chính quyền và nhân dân thành
phố. Bởi vậy, đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp một cái nhìn tổng thể và chi tiết thực trạng ô
nhiễm tại các KCN, KCX trên địa bàn TPHCM, làm rõ nguyên nhân phát sinh đồng thời đưa
ra một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục tình trạng này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu lý luận:
 Làm rõ vấn đề môi trường trong quá trình toàn cầu hóa (các vấn đề môi trường
và gìn giữ môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế)
 Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong vấn đề kiểm soát và ngăn chặn
hiện tượng ô nhiễm môi trường có liên quan đến phát triển kinh tế và rút ra bài học cho
việc ngăn chặn ô nhiễm tại các KCN TP.HCM
2.2. Mục tiêu thực tiễn:
 Đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường nước, khí và chất thải rắn liên quan
đến sự phát triển công nghiệp hóa và phát triển công nghiệp ở các KCN tại TPHCM
 Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tình hình ô nhiễm tại các KCN TPHCM
 Đề xuất hệ thống các giải pháp kinh tế – xã hội – pháp luật để giải quyết tình
trạng ô nhiễm ở các KCN TPHCM
3. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp khảo sát thực tế thông qua phát phiếu điều tra
 Phương pháp nghiên cứu tại bàn.
 Phương pháp nghiên cứu điển hình (Case study)


3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường có liên quan đến
phát triển kinh tế ở các khu công nghiệp tại TP HCM
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu: Tại các khu công nghiệp điển hình TP HCM
4. Nội dung nghiên cứu: bao gồm có 3 chương và các phụ lục kèm theo
 Chương 1: Vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến phát triển kinh tế trong giai đoạn
hội nhập kinh tế quốc tế
 Chương 2: Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất
TP.HCM
 Chương 3: Những giải pháp ngăn ngừa và khắc phụcc hiện tượng ô nhiễm môi trường
tại các khu công nghiệp tại TP.HCM
5. Đóng góp của đề tài:
Đề tài đưa ra nghiên cứu vấn đề khá “nóng bỏng” hiện nay, đó là vấn nạn ô nhiễm môi
trường tại các KCN, KCX TP.HCM mà trong các đề tài báo cáo nghiên cứu trước đây (chẳng
hạn: “Báo cáo vấn đề BVMT trong phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam”, GS.TSKH Ngô
Thế Thi, trường ĐH Xây dựng; Tiểu luận về “Thực trạng các KCN ở Việt Nam và những giải
pháp”, Văn Thị Thanh Tuyền, Trương Thị Như Hiếu, Trường ĐH Kinh Tế TP.HCM;…) thì
những vấn đề môi trường trong các KCN được đề cập rất ít và dàn trải, hoặc vấn đề được báo
cáo trên góc độ quá vĩ mô. Chưa có một đề tài nào nghiên cứu chi tiết về thực trạng ô nhiễm
KCN trên địa bàn TPHCM và các giải pháp kinh tế khắc phục. Vì vậy tính cấp thiết và thực
tiễn của đề tài là ở chỗ phản ánh kịp thời, cung cấp được cách nhìn khá chi tiết về tình hình ô
nhiễm tại các KCN TPHCM và đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp.
6. Hướng phát triển của đề tài:
Đề tài mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn nguồn gốc phát sinh ô nhiễm tại các doanh
nghiệp trong các KCN, KCX trên toàn bộ lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai nhằm đưa ra các
giải pháp kinh tế tích hợp, mang tính ứng dụng chung cho toàn khu vực.
1
CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu, song nó mang lại cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Thế giới ngày càng có tính liên kết và tác động tương hỗ lẫn nhau. Thế giới được liên kết bởi
các tổ chức kinh tế, thương mại, các tổ chức xã hội, và ngày càng hướng tới một cộng đồng
kinh tế chung cho cả một khu vực, nhưng đồng thời thế giới cũng được liên kết bởi các loại
bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, di cư và cả nạn ô nhiễm - trong đó có vấn đề “hiệu ứng nhà
kính” và sự biến đổi môi trường toàn cầu, v.v
Qua một số nghiên cứu cho thấy, một trong các vấn đề nổi cộm của nạn ô nhiễm toàn
cầu hiện nay chính là tình trạng ô nhiễm môi trường từ các KCN, KCX do công tác thu gom,
xử lý và đổ thải các loại rác công nghiệp yếu kém, các khí đốt từ các nhà máy thải ra vượt quá
mức cho phép, gây ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, chất lượng không khí bị suy giảm… Tại
các nước đang phát triển, chỉ 30-50% lượng rác thải được giải quyết. Thậm chí ở một số nước
có nền kinh tế đang phát triển, tốc độ tăng lượng rác thải còn lớn hơn tốc độ tăng dân số. Tại
Ấn Độ, chỉ 217/3119 thành phố có hệ thống cống thải; và sông Hằng là một trong những con
sông ô nhiễm nhất thế giới do hứng chịu chất thải từ 115 thành phố công nghiệp. Theo Tổ
chức Y tế thế giới (WHO), hiện đang có 1,2 tỷ người sống trong môi trường ô nhiễm quá tiêu
chuẩn vệ sinh hiện hành; 2 tỷ người đang khát; hơn 2 tỷ người vẫn thiếu nước sạch và điều
kiện sử dụng nước vệ sinh. Nghiên cứu cũng cho thấy biến đổi khí hậu chịu 20% trách nhiệm
đối với việc thiếu nước sạch, trong khi sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế chịu trách
nhiệm đến 80%.
Xu hướng phát triển công nghiệp đa ngành, đặc biệt là công nghiệp nặng, công nghiệp
hóa chất là nguyên nhân phát sinh phần lớn chất thải độc hại. Theo Ngân hàng Phát triển Châu
Á (ADB), ô nhiễm không khí và nước tại các quốc gia đang phát triển ở châu Á sẽ tiếp tục
tăng gấp 5 - 10 lần ở giai đoạn 2005-2010. Ô nhiễm đô thị và công nghiệp hiện này đang là
tác nhân gây ô nhiễm nặng nề đến các vùng nông nghiệp lân cận. Vấn nạn ô nhiễm môi trường
không của riêng một quốc gia nào mà đang là mối quan tâm chung của toàn thế giới. Trước
2
sức ép của phát triển kinh tế, nhiều quốc gia đã xem nhẹ việc QLMT, làm cho môi trường sinh
thái bị tàn phá nặng nề, điều này không những ảnh hưởng ngược lại tới đời sống xã hội mà còn
đến cả chính trị, kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế mang màu sắc tích cực, sẽ đưa quốc gia phát

triển bền vững đi đôi với việc có được một môi trường sống lành mạnh và ngược lại sẽ là
“ con dao hai lưỡi” nếu một quốc gia quá chú trọng vào nó mà không để ý đến những mặt trái
mà việc hủy hoại, tàn phá môi trường là một ví dụ điển hình.
1.2. Xu hướng chuyển dịch tư bản dẫn tới ô nhiễm ở các nước nghèo
Chuyển dịch tư bản (CDTB) từ ngành này sang ngành khác trong phạm vị lãnh thổ một
nước, cũng như từ nước này sang nước khác chủ yếu nhằm để tìm kiếm lĩnh vực đầu tư có
nhiều lợi nhuận hơn. Tỉ suất lợi nhuận cao trước mắt hoặc dự đoán có thể có trong tương lai
bao giờ cũng là động lực thúc đẩy CDTB.
Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hoá được di chuyển từ sản xuất, lưu thông, phân
phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của vốn, nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, phế
thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của
hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Hiện nay xu hướng CDTB dẫn tới ô nhiễm
môi trường nặng nề từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển thể hiện rõ thông qua
FDI. Có thể thấy cùng với những lợi ích do FDI mang lại, các nước đang phát triển phải đối
mặt với những thách thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn "xuất khẩu" ô nhiễm môi
trường từ các nước phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng.
Trong quá trình thị trường của thời buổi hội nhập ngày càng yêu cầu phải thay đổi tư
duy quan niệm về sản xuất sạch và BVMT, thì vai trò của các DN đầu tư nước ngoài, nhất là
các MNCs có tầm quan trọng rất lớn trong quá trình tạo lập tính bền vững môi trường của các
dự án FDI. Thông thường MNCs có công nghệ sạch, áp dụng những chuẩn môi trường cao
hơn so với yêu cầu của nước chủ nhà, do vậy có khả năng góp phần vào quá trình phát triển
bền vững môi trường của nước chủ nhà. Tuy nhiên, có trường hợp MNCs đưa các dây chuyền
sản xuất ô nhiễm, hoặc chuyển giao các công nghệ lạc hậu tới nước chủ nhà, mà những công
nghệ này không được chấp nhận tại nước đầu tư. Việc “xuất khẩu” ô nhiễm đã mang lại cho
các MNCs một lợi thế cạnh tranh mới nhờ giảm chi phí sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng
này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm môi trường tại các nước phát triển rất cao. Các DN của
3
các nước này buộc phải tìm đến giải pháp chuyển lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm của họ ra
nước ngoài. Các nước phát triển như: Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch đang đánh thuế mạnh vào các
ngành gây ô nhiễm, trong khi đó các nước đang phát triển lại có mức thuế thấp hơn nhiều do

khát vốn. Vô hình chung, các nước nghèo này trở thành những nước “nhập khẩu” ô nhiễm.
Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật các nước nghèo đang phải hứng
chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ nghệ của các nước phát
triển. Nếu chính phủ các nước đang phát triển không tỉnh táo trước mặt trái của chu trình
CDTB này thì vấn nạn “nhập khẩu” ô nhiễm là càng trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết và
vô hình chung một lần nữa lại đẩy nhanh, đẩy mạnh cho việc chuyển dịch ô nhiễm mà hệ lụy
chính là môi trường của chính quốc gia mình.
1.3. Các vòng đàm phán của WTO và các Hiệp định đa phương (MEAs) có liên quan
đến bảo vệ môi trường và sự hưởng ứng của các nước
1.3.1. Vấn đề môi trường ra đời trước khi hình thành WTO:
Bước vào những năm đầu của thập kỷ 70, các nước ký kết Hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT) bắt đầu nhận thấy rằng các vấn đề môi trường cần được giải
quyết trong khuôn khổ GATT vì chúng liên quan đến thương mại. Sự khởi đầu này gắn liền
với Hội nghị về Môi trường Con người (Conference on Human Environment) được tổ chức tại
Stockhom năm 1972. Mối quan tâm ban đầu trong GATT là cần hạn chế ảnh hưởng của chính
sách môi trường đối với tự do hoá thương mại trong khuôn khổ của GATT. Tuy nhiên vấn đề
này vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa và vẫn còn được tranh luận trong các cuộc đàm phán
của GATT, nhất là ở vòng đàm phán Uruguay.
1.3.2. Diễn biến vấn đề môi trường qua các Hội nghị của WTO
Sau khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, WTO được thành lập, hội nghị Bộ trưởng
WTO lần thứ nhất tại Singapore từ ngày 9-13/12/1996 đã ra tuyên bố ủng hộ những diễn biến
thảo luận về thương mại và môi trường (TM&MT) trong WTO vào thời điểm này, đồng thời
yêu cầu Uỷ Ban Thương mại Môi trường tiếp tục phát huy chức năng của mình trong việc xúc
tiến thảo luận các chủ đề liên quan tới lĩnh vực môi trường.
Tới Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 3 từ ngày 30/11- 3/12/1999 tại Seatle, Hoa Kỳ,
các Bộ trưởng tiếp tục thảo luận về vấn đề TM&MT trong khuôn khổ phiên thảo luận về các
4
vấn đề nông nghiệp và các vấn đề liên quan tới quy định của WTO. EU lên tiếng ủng hộ các
cuộc đàm phán đối với vấn đề thương mại có liên quan tới môi trường. Tuy nhiên, các thành
viên đã không đi tới kết luận hay tuyên bố nào về vấn đề này .

Tại Hội nghị Bộ trưởng WTO lần thứ 4 từ ngày 9-14/11/2001 tại Doha, Quatar, Bộ
trưởng các nước Thành viên đã ra tuyên bố chung về các vấn đề TM&MT, trong đó chủ yếu là
phát động cuộc đàm phán về những vấn đề có liên quan và xác định những vấn đề cần tiếp tục
thảo luận để đưa vào chương trình đàm phán. Song song với những nội dung được nhất trí đưa
vào chương trình nghị sự, Hội nghị Doha cũng nhất trí rằng các nước sẽ quan tâm đặc biệt tới
những vấn đề TM&MT khác không thuộc nội dung của chương trình đàm phán.
Các Bộ trưởng đã thừa nhận tầm quan trọng của công tác hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng
năng lực trong lĩnh vực TM&MT đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với các
nước kém phát triển. Các Bộ trưởng cũng khuyến khích việc trao đổi kiến thức và kinh
nghiệm giữa các Thành viên WTO để có thể tiến hành các cuộc rà soát về môi trường ở cấp độ
quốc gia.
“Chúng tôi chỉ thị cho Uỷ ban TM&MT dành sự quan tâm đặc biệt tới những
vấn đề sau trong quá trình theo đuổi các nội dung của Chương trình hành động trong
khuôn khổ các điều khoản nghĩa vụ của Uỷ ban này:
 Tác động của các biện pháp môi trường đối với tiếp cận thị trường, đặc
biệt là việc tiếp cận thị trường của các nước đang phát triển và kém phát
triển, và xem xét những trường hợp mà việc tự do hoá thương mại có lợi
cho thương mại, môi trường và sự phát triển.
 Các quy định liên quan trong Hiệp định WTO về Các vấn đề Sở hữu trí
tuệ có liên quan tới Thương mại (TRIPs).
 Các yêu cầu về dán nhãn vì mục đích BVMT.
 Xây dựng năng lực và rà soát môi trường. ”
( Đoạn 32, Tuyên bố Hội nghị Bộ trưởng Doha, tài liệu WTO số WT/MIN(01)/DEC/)
5
Cho đến nay, do có nhiều quan điểm khác nhau nên chương trình đàm phán về môi
trường chỉ giới hạn với những quy định hiện hành của WTO (Phụ lục 1) và những nghĩa vụ
mang tính chất thương mại trong MEAs. Ngoài ra, nội dung đàm phán được quy định là không
ảnh hưởng tới quyền lợi của các Thành viên WTO không tham gia MEAs, đồng thời cũng làm
thay đổi quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các Hiệp định hiện hành của WTO.
1.3.3. Các hiệp định đa phương về môi trường (MEAs) liên quan tới thương mại

Trong hơn 20 năm qua có hơn 200 MEAs được biết đến. Một số ít là các hiệp ước toàn
cầu, mở ra cho tất cả các quốc gia. Rất nhiều các hiệp ước song phương không được biết đến,
ước lượng khoảng hơn 1000 hiệp ước. Điều này cho thấy một cấu trúc quốc tế về QLMT là
gồm nhiều loại khác nhau và nó phản ánh phạm vi khác nhau của các hiệp ước và tiêu chí của
các hiệp ước. Nhìn tổng thể chúng ta có thể nhận thấy rằng sự liên quan giữa thương mại và
các MEAs là không phổ biến, chỉ khoảng 1/10 các hiệp định có đề cập đến TM&MT đáng chú
ý. Nguyên nhân là do các đo lường của MEAs không ảnh hưởng quan trọng đến lưu chuyển
thương mại hay giá trị của các lưu chuyển thương mại mà chúng có ảnh hưởng thì không quan
trọng trên phương diện toàn cầu. Tuy vậy, những hiệp định này đã tồn tại có ảnh hưởng quan
trọng đến các dòng lưu chuyển thương mại quốc tế. Theo Uỷ ban TM&MT của WTO, chỉ có
khoảng 14 MEAs (Phụ lục 2) trong đó sử dụng các quy định và biện pháp thương mại. Bên
cạnh hệ thống phân loại này của WTO, chương trình môi trường của liên hiệp quốc (UNEP)
cũng đưa ra một danh mục khoảng gần 30 Hiệp định đa phương về môi trường trong đó có thể
có các quy định liên quan đến thương mại.
Nhìn chung trong giai đoạn hội nhập kinh tế toàn cầu, ô nhiễm môi trường luôn là chủ
đề tranh luận nóng bỏng trên các diễn đàn quốc tế. Các nước có nhiều quan điểm khác nhau,
hầu hết đều phản ánh quyền lợi của họ trong thương mại quốc tế. Mặc dù chưa có nhiều tiến
triển nhưng một khi đã được đưa vào chương trình nghị sự đàm phán thì vấn đề môi trường
trong thương mại quốc tế đã được chính thức thừa nhận và tất yếu sẽ diễn biến và ảnh hưởng
đáng kể đối với các bên liên quan.
6
1.4. Nghiên cứu vấn đề chống ô nhiễm ở các nước và các bài học kinh nghiệm rút ra
cho phát triển các KCN Việt Nam ( những bài học thành công và thất bại )
1.4.1. Trung Quốc (TQ) với ô nhiễm môi trường và bài học “cái bắt tay hiệu quả
với cộng đồng”
Trung Quốc trong những năm gần đây được biết đến như một cường quốc với tốc độ
tăng trưởng kinh tế chóng mặt. Nhưng cùng với tăng trưởng kinh tế cao, tình trạng ô nhiễm
nói chung và ô nhiễm tại các đô thị, KCN, KCX ở TQ cũng tăng đến mức báo động. Trong
danh sách 20 đô thị ô nhiễm nhất thế giới (điều tra năm 2006), TQ đã chiếm đến 16. Mặc dù
Chính phủ TQ đã tiến hành nhiều biện pháp nhưng môi trường tại một số khu vực vẫn tiếp tục

xấu đi, đặc biệt là tại tỉnh Quảng Đông, tình trạng ô nhiễm môi trường từ các KCN, KCX ngày
càng tồi tệ. Năm 2003, lượng CTCN tại đây đã lên đến 68 tấn/người, so với 56 tấn/người ở
Giang Tô và Chiết Giang, 27 tấn/người ở Sơn Đông. Mưa axit - hậu quả của lượng khí sulfuric
thải ra từ than đốt của các nhà máy điện công nghiệp – ngày càng nhiều và đậm đặc hơn. Đến
năm 2005, ước tính thiệt hại do ô nhiễm nguồn nước và không khí – 2 nguồn ô nhiễm chính ở
TQ mất từ 8-15% GDP của nước này (GDP-2005 là 1.800 tỷ USD), chưa kể đến thiệt hại đối
với sức khỏe. Nhìn chung, ngân sách cho công tác làm sạch môi trường ở TQ ngày càng tăng
lên. Chi phí cho môi trường năm 2003 tăng gần 20% so với năm 2002, đạt 20,1 tỷ USD, chiếm
1,4% GDP của nước này. Năm 2006, Chính phủ đã thông qua một kế hoạch tốn kém chi tới
175 tỷ USD, tương đương khoảng 1,5% GDP để khắc phục ô nhiễm nguồn nước, không khí
tại các thành phố và ngăn chặn nạn xói mòn tài nguyên đất. Cũng trong năm này, TQ phải bỏ
ra khoảng 135 tỉ đô la Mỹ (tương đương với 7% GDP, 2006) để đầu tư vào các công nghệ
kiểm soát ô nhiễm tiên tiến nhất. (Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 2/12/2004, tr.53)
Trước sự cảnh báo của các tổ chức thế giới về nạn ô nhiễm, chính phủ TQ đã phải xem
xét lại toàn bộ hệ thống QLMT nói chung và vấn nạn ô nhiễm từ các KCN; từ chỗ thay vì chờ
xử lý hậu quả của ô nhiễm, Chính phủ chỉ đạo nắm rõ nguồn gốc gây ô nhiễm và điều khiển
toàn bộ quy trình xử lý ô nhiễm; từ chỗ chỉ tập trung quản lý những thành phần DN gây ô
nhiễm trong các KCN, KCX sang tập trung quản lý một cách đồng bộ và điều chỉnh quy hoạch
lại KCN, KCX, khuyến khích “Sản xuất sạch” và hướng tới một “nền kinh tế tuần hoàn”.
Ngoài ra, Chính phủ còn kêu gọi các tỉnh, thành phố cùng với nhân dân vùng bị ô nhiễm bắt
7
tay nhau cùng giải quyết vấn nạn. Và điều này đã phát huy tác dụng. Chính quyền các tỉnh
cam kết sẽ đầu tư đến năm 2010 khoảng 5,5 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm để làm sạch các con sông và
2,2 tỷ đô-la nữa để XLCT sinh hoạt và CTCN. Chính quyền các địa phương còn củng cố và
cải thiện hệ thống pháp lý, thắt chặt hơn công tác kiểm soát khí thải. Bên cạnh đó, Chính phủ
còn thông qua dự Luật đánh giá tác động môi trường đòi hỏi có sự tham gia góp ý kiến của
cộng đồng dân cư, những tổ chức phi chính phủ và các tình nguyện viên trong dân chúng.
Hiện nay, Trung Quốc có hơn 1000 tổ chức hoạt động vì môi trường như vậy. Công chúng ở
đây có quyền kiểm soát, giám sát ô nhiễm và báo cáo xử lý cho lực lượng quản lý. Điều này
đã làm phát huy sức mạnh BV&QLMT từ phía người dân, khiến họ tích cực hơn trong công

tác chống ô nhiễm. Nhờ đó lượng nước thải, Oxigen từ hóa chất, Sunfur dioxit, khói và bụi
công nghiệp thải ra tính trên GDP đầu người vào năm 2004 giảm đáng kể lần lượt 58%, 72%,
42%, 55% and 39% kể từ năm 1995 ( theo: SCIO). Các thành phố ở TQ cũng kêu gọi đầu tư
từ khu vực tư nhân cho các hoạt động môi trường. Kể từ năm 2001, chính quyền các tỉnh đã
đưa ra kế hoạch tư nhân hoá các hoạt động cải tạo môi trường. Và đến nay, công tác xử lý
nước thải, chất thải rắn, chất thải công nghiệp và giao thông công cộng đang là các dịch vụ tư
nhân được phép đầu tư. Mục tiêu cuối cùng của việc làm này là để hướng tới việc “chính
quyền sẽ không cần phải đầu tư vào các lĩnh vực này nữa”.
1.4.2. Các “biện pháp cứng rắn” trong việc chống ô nhiễm môi trường tại
Singapore
Hiện Singapore được đánh giá là quốc đảo sạch vào bậc nhất thế giới, và điều này
không đến một cách ngẫu nhiên. Chính từ những hậu quả do sự công nghiệp hóa mạnh mẽ làm
gia tăng ô nhiễm không khí, rồi chất thải lỏng và chất thải rắn làm môi trường xuống cấp rõ rệt
vào ba bốn thập kỷ trong thế kỷ trước, đã làm Singapore sớm nhận thức được không có con
đường nào khác là phải tự mình thực hiện tốt các chương trình BVMT. Đến nay, một cách
nhìn toàn diện, chưa có nước nào có được môi trường đô thị tốt hơn Singapore. Đó là do đất
nước này có một chiến lược QLMT rất cứng rắn, thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch hoá việc sử
dụng đất đai, biết kiểm soát kế hoạch xây dựng và phát triển đô thị, đặc biệt là các KCN, KCX.
Và điều quan trọng là đặc biệt chú trọng quản lý hạ tầng cơ sở, đi đôi với việc ban hành luật và
kiểm tra giáo dục nghiêm ngặt. Singapore đã chọn “con đường tổng hợp” để kiểm soát mọi sự
8
phát triển về kế hoạch sử dụng đất đai, các giai đoạn kiểm tra, mở rộng và xây dựng mới nhằm
giảm thiểu những tác động gây ô nhiễm môi trường. Ưu điểm về các hệ thống thoát nước và
thu gom, xử lý chất thải tại đây đã loại trừ và giảm thiểu được nguy cơ ô nhiễm nước và đất
đai. Tất cả những biện pháp nêu trên đã phát huy tác dụng và làm cho quốc đảo này dần phục
hồi và hiện nay là nước được đánh giá là có một môi trường trong sạch nhất thế giới.
( Xem phụ lục 3 - Phân tích cách thức quản lý hiệu quả nhằm chống ô nhiễm môi trường tại
Singapore )
1.4.3. Nhật Bản chống ô nhiễm môi trường – “Cần sự đồng lòng và các biện pháp
nghiêm ngặt ”

Cũng như ở nhiều nước trên thế giới, ô nhiễm là vấn đề gây lo ngại ở Nhật Bản. Ô
nhiễm môi trường ở Nhật xuất hiện cùng với quá trình công nghiệp hóa từ thời Minh Trị
(1868-1912) mà trường hợp nhiễm độc đồng do nước thải từ mỏ đồng Ashio ở tỉnh Tochigi
năm 1878 được đánh giá là rất nghiêm trọng.Việc phát triển các ngành dệt, giấy và bột giấy đã
dẫn đến ô nhiễm nước, còn việc sử dụng than làm nhiên liệu chính trong công nghiệp là một
trong những nguyên nhân gây ô nhiễm không khí. Trong thời kỳ phát triển cao độ sau Thế
chiến 2, Nhật Bản trở thành một trong những nước ô nhiễm nhiều nhất trên thế giới. Nhật Bản
bị ô nhiễm môi trường nặng nề vì dân quá đông đúc trên các khu vực diện tích hẹp, khiến cho
các KCN, KCX và khu dân cư nằm liền kề nhau.
Có thể nói ô nhiễm nước là một trong những vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng nhất ở Nhật
Bản mà 4 nguyên dân chính là: công nghiệp hóa nhanh chóng, đô thị hóa nhanh chóng, sự tụt
hậu trong việc xây dựng các CSHT xã hội như hệ thống thoát nước, cũng như chính sách một
thời coi trọng phát triển kinh tế hơn là sức khỏe nhân dân và môi trường trong sạch. Những
quy định nghiêm ngặt về nước thải công nghiệp đã giảm bớt phần nào tình trạng ô nhiễm chất
độc hại. Tuy nhiên, các con sông và đường biển tại những khu vực đô thị vẫn bị ô nhiễm nặng
nề do các chất hữu cơ và sinh vật phù du. Bên cạnh đó, ngoài ô nhiễm do nước thải công
nghiệp và sử dụng gia đình, dầu loang từ các con tàu chở dầu bị tai nạn cũng là một nguyên
nhân lớn gây ô nhiễm nước. Một vấn đề ô nhiễm nguồn nước khác là do nhiệt từ các nhà máy
điện. Nhiều nhà máy được xây dựng với quy mô ngày càng lớn và nhiệt thải ra là mối đe dọa
đối với sinh vật biển và các con sông gần đó.
9
Nhận ra vấn đề không phải là ở chỗ chỉ ban hành thật nhiều các văn bản luật hay thực
hành thật nhiều chính sách, mà từ sự thống nhất quyết tâm đẩy lùi ô nhiễm trong chính nội bộ
các nhà cầm quyền, Nhật Bản đã nỗ lực tạo dựng sự nhất trí, đồng lòng trong BMNN về công
tác đẩy lùi vấn nạn này. Và từ đó, nhiều biện pháp đã được tiến hành để cải thiện chất lượng
nước ở Nhật Bản phát huy có hiệu quả, trong đó có việc đề ra các tiêu chuẩn quốc gia về chất
độc hại, các tiêu chuẩn khác về môi trường sống, cũng như các biện pháp kiểm soát và giám
sát gắt gao. Các luật quy định trách nhiệm gây ô nhiễm được thông qua, nhiều dự án được tiến
hành để cải thiện hệ thống thoát nước cho phù hợp với tỉ lệ dân cư. Ngoài ra, chính phủ đã có
các biện pháp đối phó với nhiều hình thức ô nhiễm môi trường, trong đó có ô nhiễm tiếng ồn,

độ rung, rác thải, lún đất, các mùi khó chịu, ô nhiễm đất và ô nhiễm do hóa chất nông nghiệp
Năm 1967, Luật cơ bản phòng chống ô nhiễm môi trường bắt đầu có hiệu lực, đề ra
những chính sách và nguyên tắc chung về kiểm soát ô nhiễm, đồng thời khuyến khích nỗ lực
làm sạch môi trường. Luật cơ bản nêu rõ trách nhiệm của chính phủ TW, các chính quyền địa
phương, các công ty, nhà máy, đồng thời quy định những tiêu chuẩn chất lượng môi trường,
vạch ra các chương trình kiểm soát ô nhiễm và giúp đỡ nạn nhân nhiễm bệnh do ô nhiễm. Rồi
luật Bảo tồn thiên nhiên được thông qua năm 1972, tạo cơ sở cho mọi biện pháp pháp lý
BVMT. Tuy nhiên, các luật chỉ có thể quy định mức ô nhiễm từ những nguồn đã được xác
định, còn ô nhiễm từ những nguồn mà con người không biết hoặc ít biết đến vẫn là điều đang
gây nhiều lo ngại ở Nhật Bản. Chẳng hạn ô nhiễm tiếng ồn ở các nhà máy, KCN, công trường
xây dựng, …; ô nhiễm nguồn nước do các đám mưa có nồng độ axit cao…
1.4.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển các KCN, KCX Việt Nam
Trên đây là một số kinh nghiệm chống ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển
kinh tế ở các nước Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản (xem thêm Phụ lục 4 : Kinh nghiệm
chống ô nhiễm công nghiệp của các nước Châu Âu). Nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường
và kinh nghiệm thực tế chống ô nhiễm công nghiệp ở các nước này, ta có thể rút ra những bài
học thực tế đối với Việt Nam như sau:
Trên thực tế trong nhiều năm qua, kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực, từ
một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chúng ta đã và đang hướng tới một nền công nghiệp và
dịch vụ hiện đại trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các KCN, KCX là nơi thu hút
10
lượng lớn đầu tư trong và ngoài nước, và là nơi tạo hàng ngàn việc làm cho người lao động.
Hoạt động của các KCN, KCX những năm qua đã khẳng định đường lối, chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển các KCN, KCX. Song
bên cạnh đó, do quá chú trọng mục tiêu kinh tế, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cộng với sự quản
lý lỏng lẻo từ phía các ban ngành, Nhà nước, không ít các CSSX, các KCN, KCX đã gạt đi sự
quan tâm đối với vấn đề XLCT, gây ô nhiễm môi trường nặng nề, đặc biệt tại 2 khu vực Hà
Nội và TP.HCM. Tình trạng này cần phải được khắc phục ngay.
Ở các nước phát triển đã trải qua quá trình chống chọi gay gắt với vấn đề ô nhiễm đã
đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của QLNN về hệ thống pháp luật, đặc biệt là Luật môi trường.

Kinh nghiệm thực tế từ các nước cho thấy, chỉ những biện pháp cứng rắn, xử phạt nghiêm
minh, rõ ràng mới có thể ngăn chặn và hạn chế được tình trạng ô nhiễm. Ở Việt Nam, không
thể phủ nhận những nỗ lực và thành công trong việc tổ chức kiểm tra, phát hiện và xử lý các
trường hợp vi phạm ô nhiễm từ các KCN, KCX thời gian gần đây. Song dễ dàng nhận thấy có
hai vấn đề cần phải nghiêm túc xem xét chính là mức độ nghiêm ngặt, sự tương hợp trong việc
QLNN về ô nhiễm và việc giáo dục trình độ nhận thức của chủ đầu tư lẫn công dân đối với
vấn nạn ô nhiễm như thế nào. Có thể khẳng định rằng có thống nhất quyết tâm trong nội bộ cơ
quan Nhà nước về ô nhiễm và phòng chống ô nhiễm thì mới có thể tiến hành các biện pháp
một cách có hiệu quả như ban hành các luật định nghiêm ngặt, quy hoạch sát sao, nghiên cứu
áp dụng việc đánh thuế đối với những tập thể, cá nhân trong việc tiến hành sản xuất cố tình
gây ô nhiễm, ban hành chính sách khuyến khích, ưu tiên, tạo điều kiện cho các CSSX trong
các lĩnh vực BVMT như các cơ sở xử lý nước thải, rác thải, vệ sinh môi trường, sản xuất phân
vi sinh, chống ô nhiễm…Thứ hai là tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục để cả các chủ
đầu tư lẫn người dân tham gia có ý thức hơn nữa trong việc BVMT. Vì nếu xét cả về mặt nhận
thức và thực tiễn công tác BVMT nói chung và ô nhiễm công nghiệp nói riêng ở Việt Nam
chưa theo kịp tốc độ phát triển kinh tế. Giải quyết tốt hai vấn đề này, thiết nghĩ vấn nạn ô
nhiễm từ các KCN, KCX sẽ không còn là bài toán không có lời giải.
11
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Vấn đề ô nhiễm môi trường không phải là vấn đề riêng của bất cứ một quốc gia nào mà
là vấn đề chung của toàn xã hội. Trong những năm vừa qua, nhiều Hiệp định, ký kết về phát
triển bền vững và hợp tác BVMT đã được các nước bàn bạc, thông qua. Phát triển kinh tế
mang lại nhiều mặt tích cực song bên cạnh đó cũng tàn phá mạnh mẽ môi trường sống của con
người. Các quốc gia phát triển cũng như các nước nghèo, đang trong quá trình chuyển mình
đều phải đối mặt với vấn đề cấp bách này. Kinh nghiệm về ô nhiễm và chống ô nhiễm ở các
nước tiên tiến đã trở thành những bài học quý giá cho những quốc gia đang phải chống chọi
gay gắt với ô nhiễm, đặc biệt là loại ô nhiễm được gây ra bởi các KCN, KCX. Việt Nam là
một trong số các nước đang phải đối mặt với thực trạng ô nhiễm nguồn nước, nguồn đất
nghiêm trọng mà nếu không sớm nhận thức và rút tỉa kinh nghiệm từ các nước đã trải qua việc
chống chọi và giải quyết tình trạng này thì những hệ lụy về môi trường sẽ rất khó lường trước.

Nền kinh tế dù có được đánh giá là có tốc độ tăng trưởng cao (7-8%/năm) nhưng đây vẫn chưa
đủ để được gọi là phát triển bền vững bởi còn xét đến nhiều khía cạnh khác, trong đó có vấn
đề môi trường. Rút tỉa kinh nghiệm từ Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore là các nước lân cận
điển hình cho công tác đẩy lùi vấn nạn ô nhiễm công nghiệp thì, “sự quyết tâm thống nhất
trong Chính phủ”, “sự thực hiện cứng rắn và nghiêm ngặt các biện pháp” và “sự kêu gọi nhân
dân vào cuộc” chính là 3 yếu tố cốt lõi để giảm thiểu ô nhiễm do các KCN, KCX trong quá
trình phát triển gây nên. Nhận thức được vai trò của môi trường trong phát triển kinh tế, chúng
ta cũng đã có tính đến yếu tố này trong quy hoạch kinh tế đô thị, trong các KCN-KCX, nỗ lực
tiếp thu KHCN xử lý chất thải công nghiệp và ban hành các quy chế hoạt động, đầu tư có tính
toán đến môi trường và tổ chức phân cấp quản lý. Song, chính vì nhận thức chưa sâu sắc và
tình trạng quản lý buông lỏng nên thực tế có đi chệch hướng so với quy hoạch. Sự thành công
trong công cuộc đổi mới và thu hút mạnh mẽ lượng đầu tư nước ngoài vào trong nước là một
tín hiệu đáng mừng. Nhưng bên cạnh đó còn có một tín hiệu khác, tín hiệu kêu cứu từ môi
trường sinh thái, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi. Một câu hỏi lớn đang đặt ra, phải
chăng chúng ta đang đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế?
12
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT TP.HỒ CHÍ MINH
2.1. Đặc điểm phát triển các KCN, KCX TP HCM trong tiến trình hội nhập và trong
sự tác động đến việc gây ô nhiễm môi trường
2.1.1. Vài nét khái quát về KCN, KCX trên địa bàn TP HCM:
Sau khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, phần lớn tập trung vào lĩnh vực dịch vụ như khách
sạn, văn phòng làm việc ở các thành phố lớn. Tuy nhiên, đầu tư nước ngoài vào công nghiệp,
nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp hai khó khăn chính, đó là: CSHT yếu kém;
thủ tục xin giấy phép đầu tư và triển khai dự án đầu tư phức tạp, mất nhiều thời gian. Trước
yêu cầu phát triển kinh tế, qua kinh nghiệm của nước ngoài và thực hiện Nghị quyết của Đại
hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Chính phủ (Lúc đó là Hội đồng Bộ trưởng) chủ trương thành
lập KCX để làm thí điểm một mô hình kinh tế nhằm thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày 25/11/1991, KCX Tân Thuận – KCX đầu
tiên của cả nước được thành lập theo Quyết định số 394/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Đến năm 1992, KCX Linh Trung ra đời và các năm tiếp theo Chính phủ ra quyết định thành
lập các KCN trên 7 Quận/Huyện của thành phố. Kể từ đó thành phố chủ trương xây dựng
ngày càng nhiều KCN, KCX. Hiện nay, đã có 3 KCX, 10 KCN đi vào hoạt động với 1.149 dự
án đầu tư còn hiệu lực có tổng vốn đầu tư đăng ký là 4,26 tỷ USD (Trong đó đầu tư nước
ngoài 472 dự án, vốn đầu tư là 2,55 tỷ USD; đầu tư trong nước 677 dự án, vốn đầu tư là
25.626,65 tỷ đồng Việt Nam, tương đương 1,71 tỷ USD). Tổng diện tích đất thuê lũy kế là
1.124,80 ha/1.229,92 ha đất thương phẩm được phép cho thuê của các KCX, KCN đang hoạt
động (Tỉ lệ lấp đầy 91% đất thương phẩm).
Trong tổng số 1.149 dự án đầu tư còn hiệu lực, có 949 dự án đầu tư đang hoạt động
(Tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,99 tỷ USD); 52 dự án đang trong giai đoạn xây dựng (Vốn đầu
tư đăng ký 770 triệu USD); 89 dự án chưa triển khai trong thời hạn cho phép (Vốn đầu tư đăng
ký 353,94 triệu USD); 73 dự án không có khả năng triển khai (Vốn đầu tư đăng ký 146,6 triệu
13
USD). Tổng số lao động hiện có là 250.000 lao động; kim ngạch xuất khẩu lũy kế đến nay là
hơn 16 tỉ USD.
BQL KCX Tân Thuận, sau đổi tên là BQL các KCX TP. HCM và nay là BQL các
KCN, KCX TP HCM (HEPZA) được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để
thực hiện quản lý hành chánh nhà nước hoạt động của các KCX, KCN trên địa bàn thành phố
theo cơ chế “Một cửa, tại chỗ” (đó là cơ chế mà: tất cả các nhà đầu tư trong ngoài nước nếu
đầu tư vào KCN-KCX mọi thủ tục chỉ qua một cửa là BQL KCN-KCX và thời gian cấp phép
tối đa là 5 ngày).
Hình 2.1 – Bản đồ vị trí các Khu công nghiệp, Khu chế xuất TP. Hồ Chí Minh
14
2.1.2. Đặc điểm phát triển các KCN, KCX TP HCM trong tiến trình hội nhập và
trong sự tác động đến việc gây ô nhiễm môi trường
Qua 18 năm phát triển, các KCN, KCX TP.HCM đã thực hiện được những mục tiêu
kinh tế, chính trị của Chính phủ đề ra trên các mặt: thu hút vốn đầu tư, giải quyết việc làm, du
nhập kỹ thuật, kinh nghiệm, tăng năng lực xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ, góp phần tích

cực vào sự phát triển chung của thành phố. KCN, KCX đang trở thành động lực cho sự phát
triển, có vai trò dẫn dắt công nghiệp quốc gia, là địa bàn hấp dẫn với sức hút lớn làn sóng đầu
tư nước ngoài trên cả ba phương diện: nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản trị. Bình
quân 1 ha đất trong các KCX, KCN đóng góp ngân sách khoảng 40.000 USD/năm; góp phần
tích cực vào sự phát triển chung của thành phố. Tuy nhiên xét về khía cạnh môi trường, đặc
điểm phát triển của các KCN, KCX hiện là vấn đề cần được bàn luận vì trong đó yếu tố môi
trường và ô nhiễm môi trường dường như đang đối lập với tốc độ tăng trưởng của KCN, KCX
trong quá trình hội nhập.
Dưới đây là một số đặc điểm phát triển đúc kết được qua quá trình nghiên cứu trong
sự lồng ghép với vấn nạn ô nhiễm môi trường:
2.1.2.1. Các cơ sở công nghiệp, KCN, KCX đan xen các khu dân cư gây ô
nhiễm đến môi trường lân cận và đến môi trường của cả vùng
 Ô nhiễm môi trường từ các CSSX công nghiệp
Theo số liệu được công bố tại hội thảo khoa học về “ BVMT và phát triển bền vững tại
Việt Nam” (Hà Nội, tháng 9/2003), thì TP. HCM có 28.573 cơ sở sản xuất, trong đó có gần
3.000 cơ sở gây ô nhiễm, riêng cơ sở gây ô nhiễm nặng phải di dời có gần 1.000. Tính đến
năm 2008, TP.HCM đã di dời 1.261 CSSX, chiếm gần 90% các xí nghiệp gây ô nhiễm trong
khu dân cư ra ngoại thành nhưng tình hình ô nhiễm vẫn diễn biến xấu. Như vậy, vẫn còn hơn
10% doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng môi trường chưa di dời và đều là những doanh nghiệp
lớn gây ô nhiễm rất nặng nhưng chưa có giải pháp xử lý và hầu như tập trung tại các khu vực
các quận Tân Bình, Bình Tân, quận 6, quận 10. Có nhiều cơ sở công nghiệp nằm đan xen các
khu dân cư, nhất là khu vực lưu vực kênh Tân Hóa - Lò Gốm, Kênh Đen, Kênh Nhiêu Lộc -
Thị Nghè. Theo thống kê của dự án kênh Tân Hóa - Lò Gốm, chỉ riêng trong khu vực lưu vực
15
kênh khoảng 1.700 ha, có đến 30 cơ sở công nghiệp xen lẫn vào khu dân cư, và đa số trong số
đó là các cơ sở gây ô nhiễm.
Từ các cơ sở công nghiệp này nước thải công nghiệp không được xử lý, thải trực tiếp
xuống kênh gây ô nhiễm nguồn nước kênh. Khu vực dân cư quanh đó luôn bị sự ô nhiễm tiếng
ồn, không khí (bụi, mùi hôi, khói…) ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và sức khỏe. Nhịp sống
người dân tại chỗ bị xáo trộn vì những ô nhiễm này diễn ra ngày đêm, nhất là vào thời gian

cao điểm.
 Sự tập trung quá nhiều KCN, KCX dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
nhất là nguồn nước.
Tại TP. Hồ Chí Minh chỉ có khoảng 65% lượng nước thải công nghiệp đã qua xử lý
trước khi thải ra môi trường. Kết quả kiểm tra đột xuất mới đây (năm 2008) của thanh tra Bộ
Tài nguyên và Môi trường tại các KCN-KCX Tân Thuận, Tân Bình, Hiệp Phước, Cái Lái 2,
Tây Bắc - Củ Chi, cho thấy trong số 48 mẫu nước thải đã qua xử lý có 45 mẫu không đạt tiêu
chuẩn, nồng độ các chất BOD, COD vượt tiêu chuẩn cho phép gần 10 lần…
Kênh Tàu Hũ - Bến Nghé, mỗi ngày phải hứng hàng trăm nghìn mét khối nước thải từ
sản xuất công nghiệp và khoảng 500 tấn rác sinh hoạt. Nồng độ SS trong nước thải đổ vào
kênh là 845mg/lít - một chỉ số mà các nhà khoa học cho là không có khả năng duy trì sự sống.
Một số con kênh TP. HCM hiện là “kênh độc”, “kênh chết”…
 Nhiều cở sở công nghiệp, KCN chưa có hệ thống xử lý rác thải công nghiệp tập
trung và nếu có thì hoạt động kém hiệu quả
Tình trạng hoạt động trước rồi mới xây dựng hệ thống XLCT công nghiệp sau là điều
dễ thấy ở các KCN, KCX ở TP.HCM. Mặc dù với bề dày hoạt động khá lâu (từ năm 1991-
1992, với sự ra đời của KCX Tân Thuận) nhưng phải đến tháng 9/2008, 12/13 KCX - KCN
mới có nhà máy XLNT đi vào vận hành. Nhưng vận hành kém hiệu quả, chất lượng nước sau
xử lý của một số DN không đạt tiêu chuẩn đấu nối của KCN. Bên cạnh đó còn có hàng trăm
cơ sở công nghiệp lớn trong vùng hàng ngày thải ra trên 200 tấn chất thải độc hại mà không có
cơ chế xử lý cộng với vị trí đan xen với khu dân cư thì ô nhiễm môi trường sống là không thể
tránh khỏi. Sự ô nhiễm này một phần là do các KCN hình thành, nhưng thiếu kế hoạch phát
triển đồng bộ các hạng mục hạ tầng xã hội khác như hệ thống nước thải, và xử lý nước thải.
16
Mặt khác, tiềm năng hạ tầng, nguồn nước, năng lượng hiện hữu của thành phố có hạn và
không theo kịp tốc độ phát triển các KCN. Ví dụ do sự chậm trễ của công trình cấp thoát nước
cho KCN Hiệp Phước, Trạm điện cho KCN Vĩnh Lộc, Lê Minh Xuân, đã ảnh hưởng không tốt
đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN và ảnh hưởng không tốt đến việc XLNT của các
KCN TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn do quá trình chuyển đổi chức năng sử dụng đất: các loại
đất khác thu hẹp, do bị chuyển đổi thành đất công nghiệp. Ở Bình Dương, những KCN phát

triển mở rộng đã trở thành những lò xả chất thải tàn phá những vườn tược trù phú cả trăm năm
nay ở vùng Lái Thiêu và dọc sông Sài Gòn. Điều này không phù hợp và không chấp nhận
được đối với quy hoạch kinh tế vùng.
2.1.2.2. Các cơ sở công nghiệp, KCN tập trung quá nhiều trong khu vực
trung tâm và các cửa ngõ vào TP. Hồ Chí Minh làm ô nhiễm tập trung và gia tăng ở mức
độ khó xử lý
Các cơ sở công nghiệp và các KCN, KCX phần lớn tập trung ven các quốc lộ 1A, 22,
13, 51… và gần cửa ngõ vào TP. HCM và các tỉnh lân cận TP. HCM trong bán kính từ 30km
đến 50km. Trong khi đó các tỉnh như Bình Phước, Tây Ninh, Tiền Giang có nhiều dư địa để
xây dựng KCN thì lại có rất ít KCN. Có nhiều nguyên nhân liên quan đến sự tập trung mật độ
cao các cơ sở công nghiệp trên địa bàn TP.HCM, nhưng chủ yếu là do những lợi thế về thị
trường, về dịch vụ sẵn có (ngân hàng, văn phòng); về đầu mối giao thông, cảng biển, hàng
không, các cửa ngõ đi các nước láng giềng và thế giới. Bên cạnh đó, một lý do cũng khá quan
trọng đó là sự đổi mới và năng động trong các chính sách thu hút đầu tư của thành phố.
Song sự tập trung quá gần thành phố và bám vào các trục quốc lộ, trong khi những
đường vành đai của thành phố còn quá ít này (hiện nay mới chỉ có đường vành đai Xa Lộ Đại
Hàn) đã tạo nên những luồng người và hàng ra vào và đi xuyên qua thành phố không những
gây ách tắc giao thông trong đô thị và còn gây ô nhiễm không khí và tiếng ồn cho cả
vùng( chưa kể đến các loại ô nhiễm khác).
17
Hình 2.2 – Vị trí phân bố các KCN, KCX trên địa bàn TP.HCM
( Xem thêm Phụ lục 5: Một số thông tin về các KCN, KCX trên địa bàn TPHCM tính đến cuối
năm 2008)
2.1.2.3. Đa số các KCN, KCX gần sông nước đề tiện lợi về vận tải và xả
nước thải cho nên ô nhiễm nguồn nước lan rất nhanh, rất xa.
Tính đến nay, TP.HCM có 15 KCX, KCN đang hoạt động với khoảng 949 doanh
nghiệp, trong đó hầu như các KCN đều nằm trong các lưu vực sông chính và là nguồn gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các lưu vực sông Đồng Nai - Sài gòn. Theo ông Võ
Quang Châu, Phó tổng GĐ Tổng Công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco), sự suy giảm chất lượng
18

nước sông Sài Gòn đã đến mức báo động. Nguồn nước từ sông Đồng Nai dù chưa đến mức
báo động nhưng cũng đang có chiều hướng xấu đi. Sông Sài Gòn đang xấu đến mức báo động
do nước thải từ các KCN Tân Quy và Tân Phú Trung (Củ Chi). Trong các KCN này, có nhiều
nhà máy thải ra một hàm lượng lớn chất amoni (N/NH4), các chất hữu cơ và vi sinh, có chất
hàm lượng vượt đến 40-50 lần tiêu chuẩn quy định. Dù rằng các KCN này nằm ở hạ nguồn
của trạm cấp nước thô Hòa Phú (huyện Củ Chi), nơi bơm nước về Nhà máy nước Tân Hiệp,
nhưng vẫn gây ảnh hưởng đến chất lượng nước tại trạm bơm, đặc biệt là vào những lúc thủy
triều lên. Do lưu lượng nước và tốc độ chảy tại hạ lưu lưu vực sông Sài Gòn-Đồng Nai gần
đây là rất lớn (nguyên nhân một phần là ở việc khai thác cát bừa bãi trên thượng nguồn sông
Sài Gòn, Đồng Nai và việc xả lũ trên thượng nguồn) nên một khi xả thải không qua xử lý thì
mức độ lan tỏa ô nhiễm là rất xa và nghiêm trọng.
2.1.2.4. Sự phân bố về chức năng của hệ thống các KCN, KCX trên địa bàn
chưa hợp lý, đa số các KCN-KCX là các khu tổng hợp ngành nào cũng có, đan xen lẫn
nhau và mỗi loại hình sản xuất có những loại ô nhiễm khác nhau, gây hại cho nhau dẫn
đến xử lý ô nhiễm khó và tốn kém.
Một đặc điểm khác trong sự phân bố các KCN, KCX trên địa bàn TP.HCM là về cơ
cấu của hệ thống các KCN, KCX chưa được định hình. Cụ thể là không có sự phân chia chức
năng và xác định vai trò của từng khu trong hệ thống. Tuy thành phố, và các tỉnh ven TP.HCM
đều có quy hoạch tổng thể phát triển các cơ sở công nghiệp riêng, nhưng toàn vùng lại thiếu
quy hoạch chung, thiếu định hướng của cả vùng. Mỗi tỉnh thành đều cố gắng “thu hút dự án
đầu tư” theo cách của mình mà không quan tâm đến định hướng vùng, ưu tiên vùng.
Vì vậy về tổng thể số KCN vừa thừa lại vừa thiếu: thừa vì có quá nhiều KCN có tính
chất giống nhau; mà thiếu những KCN có chức năng chuyên biệt. Chính vì sự “ đa chức năng”
này nên tình trạng chất thải thải ra cũng là tổng hợp của của các nhà máy trong KCN. Chẳng
hạn như DN sản xuất nước mắm đặt gần DN chế biến cao su ( KCN Tân Tạo, KCN Lê Minh
Xuân,…), DN chế biến thực phẩm gần với DN nhuộm…Với các ngành, lĩnh vực sản xuất
khác nhau thì chất thải cũng khác nhau, đôi khi gây hiệu ứng không tốt cho nhau (như mùi cao
su sẽ lẫn trong mùi nước mắm và ngược lại,…rất khó chịu và mất mỹ quan). Hơn nữa loại ô
nhiễm khác nhau phải sử dụng công nghệ xử lý ô nhiễm khác nhau làm cho công tác xử lý tốn
19

kém và không hiệu quả. Một thực tế cho thấy là dù biết như vậy nhưng hầu như các KCN-
KCX vẫn chưa xem trọng và đánh giá cao về vấn đề này.
2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển các KCN, KCX trên
địa bàn TP HCM
2.2.1. Thực trạng ô nhiễm tại các KCN, KCX TPHCM trước 1/7/2006
Từ 02/7/2002 đến trước ngày 1/7/2006, công tác QLNN về BVMT tại các KCN, KCX
do HEPZA đảm trách. Tính đến cuối năm 2005, TP.HCM có tất cả 12 KCN, 3 KCX, 1 khu
công nghệ cao và gần 23.000 cơ sở sản xuất vừa và nhỏ. KCX Tân Thuận là đơn vị tiên phong
trong công tác BVMT và xây dựng nhà máy XLNT tập trung (khởi công tháng 3/1996) với
công suất thiết kế 10.000 m
3
/ngày. Tiếp theo từ năm 1999 đến năm 2005, 05 KCX và KCN
bao gồm: Linh Trung, Linh Trung 2, Lê Minh Xuân, Tân Tạo (Giai đoạn1), Tân Bình tiếp tục
tiến hành xây dựng và hoàn thành nhà máy XLNT tập trung.
Tuy nhiên, ngay cả ở những KCN đã có trạm XLNT tập trung, thì chất lượng thực tế
của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô
nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một số KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt
may, thuộc da, hoá chất… Theo đại diện của BQL tại mỗi KCN, mỗi lần kiểm tra luôn có
nhiều DN vi phạm việc xả thải trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm. Doanh nghiệp đầu tư xây
dựng hệ thống xử lý nhưng không vận hành vì tiêu hao thêm nhiều chi phí. Theo ước tính, mỗi
KCN lúc bấy giờ thải khoảng từ 3.000-10.000 m
3
nước thải/ngày đêm. Riêng lượng chất thải
rắn công nghiệp của thành phố đo được khoảng 1.500 - 1.800 tấn/ngày (nguồn: BQL KCX,
KCN TPHCM). Phần lớn chất thải công nghiệp có khả năng tái sử dụng nên được thu gom,
phân loại và tái chế; các CTNH được xử lý tiêu huỷ bằng phương pháp đốt hoặc đóng rắn,. . . ;
phần còn lại (không có khả năng tái chế hoặc CTNH) được nhập chung chôn lấp cùng chất
thải rắn sinh hoạt.
Việc giám sát chất lượng môi trường được triển khai định kỳ nhưng không phản ánh
trung thực mức độ ô nhiễm do HĐSX tại các DN gây ra (do khi kiểm tra phải có văn bản

thông báo đến các DN). Các DN chưa thực hiện chế độ báo cáo chất lượng môi trường một
cách đều đặn và đúng thời gian. Đồng thời khó khăn lớn nhất là còn ít DN thực hiện chế độ
này, ngoại trừ những DN đã được cấp Chứng nhận về Hệ thống quản lý chất lượng (ISO). Lúc
20
này việc ra quyết định xử lý vi phạm hành chính vẫn phải do Thanh tra Sở TNMT đảm trách
trong khi đó lực lượng thanh tra môi trường của Sở rất ít, điều này đã tạo điều kiện cho các
DN tiếp tục vi phạm nhiều hơn. Ngoài những vấn đề trên, thực tế còn tồn đọng rất nhiều bất
cập khác như:
 Không có quy chế cụ thể trong việc quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại phát sinh
trong quá trình HĐSX của DN.
 Bộ KH-CN&MT đã ban hành “Các tiêu chuẩn nhà nước Việt Nam về môi trường”
theo Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25/6/2002 (Phụ lục 6), theo đó thì các Tiêu
chuẩn này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2003 nhưng việc áp dụng đã gặp khó khăn do chất
lượng nước thải đầu ra của hệ thống XLNT tập trung tại KCX, KCN phụ thuộc vào lưu lượng
dòng chảy của nguồn tiếp nhận. Thực tế thì việc xác định lưu lượng dòng chảy sông, rạch…
rất khó khăn.
 Lực lượng cán bộ/nhân viên (CBNV) chuyên trách môi trường tại từng KCX, KCN,
DN còn rất mỏng. Một số lượng lớn các DN hoàn toàn không có CBNV phụ trách về mảng
quan trọng này, chủ yếu là kiêm nhiệm.
 Chủ DN còn mang tư tưởng đối phó với cơ quan quản lý nhà nước trong vấn đề
BVMT, vô hình chung làm cho môi trường xấu đi.
 Hoạt động nâng cao nhận thức BVMT cho các DN trong KCX, KCN chưa được
thường xuyên, liên tục. Chủ DN hầu như không quan tâm nhiều đến hoạt động này.
Bên cạnh KCN, KCX còn phải kể đến sự tham gia ô nhiễm của các cơ sở công nghiệp
nằm ngoài KCN, KCX. Tháng 8/2005, KCN Tân Phú Trung vừa được thành lập hơn 1 năm,
vẫn chưa có DN nào vào nhưng lại trở thành điểm bức bách nhất trong các KCN bị ô nhiễm tại
TPHCM. Song, nguyên nhân chính lại từ 43 DN vây quanh, mà 2/3 số DN này đều hoạt động
trong những ngành sản xuất gây ô nhiễm như cao su, than đá mà không nằm trong sự quản
lý của KCN. Hầu hết các DN này đã tự di dời từ nội thành ra bám vào trục khu vực kênh Thầy
Cai, ngoài việc gây ô nhiễm mùi trong không khí, các DN này đều xả chất thải, nước thải trực

tiếp ra khu vực kênh khiến dòng kênh suốt chiều dài huyện Củ Chi bị đen ngòm và hôi thối mà
đến nay vẫn chưa thể khắc phục được.
21
2.2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các KCN, KCX TPHCM sau 1/7/2006
Đến khi Luật BVMT số 52/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và
áp dụng vào ngày 01/7/2006 cùng một số Nghị định có liên quan thì chức năng QLNN của
HEPZA về BVMT không còn hiệu lực nữa; các công việc phần lớn do UBND Thành phố ủy
quyền cho Sở TNMT và UBND cấp Quận/Huyện đảm trách. Công tác QL&BVMT tại các DN
KCX, KCN trên địa bàn tính đến nay cơ bản như sau (theo Tham luận Công tác QLMT tại các
KCX, KCN TP.HCM – Ngô Anh Tuấn – phó Trưởng ban BQL KCX, KCN TPHCM, 10/2008):
2.2.2.1. Hệ thống xử lý nước thải tập trung.
 Nhà máy xử lý nước thải tập trung:
Từ năm 2006 đến nay, các KCN còn lại bao gồm: Tân Thới Hiệp, Tây Bắc Củ Chi,
Hiệp Phước, Tân Tạo (GĐ2), Vĩnh Lộc, Bình Chiểu đang được chỉ đạo xây dựng nhà máy
XLNT tập trung. Đến tháng 9/2008, 12/13 KCX - KCN đã có nhà máy XLNT đi vào vận hành.
Riêng KCN Tân Phú Trung đang trong giai đoạn lắp dặt thiết bị cho nhà máy XLNT tập trung.
Hiện nay, tổng công suất có khả năng xử lý của các nhà máy tại các KCX, KCN là 53.000
m
3
/ngày.
 Mạng lưới thu gom nước thải:
Có 10 KCX, KCN đã hoàn chỉnh mạng lưới thu gom nước thải để đưa toàn bộ nước
thải của các DN về nhà máy XLNT tập trung, bao gồm các khu: Tân Thuận, Linh Trung I,
Linh Trung II, Tân Bình, Lê Minh Xuân, Tân Tạo, Tân Thới Hiệp, Cát Lái 2, Hiệp Phước,
Bình Chiểu.
Còn 2 KCN chưa xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới thu gom, cụ thể: KCN Vĩnh Lộc đã
hoàn chỉnh cơ bản 80% chiều dài mạng lưới nhánh trên các tuyến đường trong KCN, còn 20%
chưa thi công do nằm trên phần đất diện tích 10ha chưa giải tỏa. Ngoài ra, tuyến cống thu gom
nước thải chính (dọc Hương lộ 2) dẫn về nhà máy xử lý nước thải tập trung còn vướng 200m
2

chưa giải tỏa được của 1 hộ dân. Đối với KCN Tây Bắc Củ Chi, đã hoàn chỉnh 85% mạng lưới
thu gom nước thải, còn lại 1.626m cống đang thi công. Riêng KCN Tân Phú Trung, mạng lưới
đường ống thu gom nước thải vẫn chưa được xây dựng do quy hoạch điều chỉnh 1/2000 của
KCN chưa được phê duyệt nên tuyến cống thu gom được thiết kế tạm nằm dọc đường Tam
Tân để đưa nước thải của các DN hiện hữu về nhà máy XLNT tập trung. Tuy nhiên, tuyến
22
cống nằm trong lộ giới quy hoạch của dự án sửa chữa, nâng cấp đường Tam Tân trong năm
2009 – 2010, do vậy phải xây dựng phương án tuyến cống thu gom dọc bên hông các DN hiện
hữu. Ban quản lý đã chỉ đạo Công ty phát triển hạ tầng (PTHT) KCN khẩn trương xây dựng để
vận hành.
2.2.2.2. Xử lý nước thải cục bộ và đấu nối nước thải của các DN:
Hiện nay, trong tổng số 949 DN đang hoạt động, có 330 DN có phát sinh nước thải
(chiếm 34,7%). Trong đó có: 253 DN phát sinh nước thải sản xuất qui mô lớn, nước thải ô
nhiễm đã lắp đặt hệ thống XLNT cục bộ và được Sở TNMT nghiệm thu; 77 DN chưa xây
dựng hệ thống XLNT cục bộ (Hầu hết những DN này có phát sinh lưu lượng nước thải sản
xuất thấp, phát sinh không thường xuyên như: nước thải từ các hệ thống xử lý khí thải, vệ sinh
thiết bị và nước thải sinh hoạt, nước thải từ nhà ăn).
Mặc dù hầu hết các DN phát sinh nước thải sản xuất qui mô lớn, nước thải ô nhiễm đã
xây dựng hệ thống XLNT cục bộ nhưng chất lượng nước sau xử lý của một số DN không đạt
tiêu chuẩn đấu nối của KCN. Nhiều DN xây dựng hệ thống XLNT cục bộ để đối phó với cơ
quan chức năng, chỉ vận hành khi có kiểm tra; hoặc có hệ thống xử lý nhưng đã xuống cấp,
hiệu quả xử lý không cao hoặc không vận hành, dẫn đến nhà máy XLNT tập trung của KCN bị
quá tải về nồng độ.
Về tình hình đấu nối nước thải, cho đến nay, còn 87 DN chưa thực hiện đấu nối hệ
thống thoát nước thải vào mạng lưới thu gom chung dẫn về nhà máy XLNT tập trung của
KCN. Cụ thể KCN Tân Bình: 2/139 DN đang hoạt động, KCN Tân Tạo (giai đoạn 1): 4/128
DN, KCN Tân Tạo (giai đoạn 2): 18/62 DN, KCN Vĩnh Lộc: 40/88 DN, KCN Lê Minh Xuân:
2/156 DN, KCN Hiệp Phước (khu A): 20/49 DN; KCN Tây Bắc Củ Chi: 01/41 DN. Nguyên
nhân chủ yếu của việc chưa thực hiện đấu nối là do giai đoạn đầu thành lập KCN chưa có qui
định cụ thể về việc DN phải xây dựng riêng biệt hệ thống thoát nước thải và hệ thống thoát

nước mưa, do đó một số DN xây dựng một hệ thống chung cho thoát nước thải và thoát nước
mưa gặp khó khăn khi triển khai thi công tách rời 2 hệ thống. Mặt khác, tại một số KCN mạng
lưới đường ống thu gom nước thải chưa thi công do vướng một số khu vực chưa giải tỏa nên
chưa đấu nối cho một số DN (KCN Vĩnh Lộc, KCN Tân Tạo).
23
(Xem thêm:

Phụ lục 7 - Bảng tổng hợp tình hình XLNT tập trung và đấu nối thoát nước các
KCX, KCN TP.HCM


Phụ lục 8 - Tình hình trạm xử lý nước thải cục bộ tại các KCX, KCN TP. HCM)
2.2.2.3. Tình hình xử lý khí thải tại các KCX, KCN:
Trong tổng số 949 DN đang hoạt động, có 170 trường hợp phát sinh khí thải đặc trưng,
chủ yếu bao gồm các tác nhân chính như: Khí thải lò hơi, hơi axít từ quá trình xi mạ, hơi dung
môi của công đoạn sơn (nhà máy gỗ, nhà máy giày), mùi hôi của quá trình thuộc da…và bụi từ
các công đoạn sản xuất gỗ, đánh bóng. Hiện đã có 89 trường hợp áp dụng biện pháp thu gom
xử lý bụi thải, khí thải đặc trưng, số còn lại không trang bị hệ thống xử lý khí thải do công suất
nhỏ, lò hơi vận hành sử dụng dầu DO và quá trình đốt hiệu quả, đồng thời tác nhân phát sinh ô
nhiễm ngay tại nguồn xả đạt tiêu chuẩn cho phép.
2.2.2.4. Tình hình thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại
(CTNH) tại các KCX, KCN:
Hiện trên địa bàn TP.HCM có khoảng hơn 20 DN thực hiện công việc thu gom, trung
chuyển, phân loại và xử lý chất thải rắn, CTNH. Các DN này đều được Bộ/Sở TNMT cấp
Giấy phép hành nghề và thực hiện công tác thu gom chất thải trong KCX, KCN.
Tuân thủ theo Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày 26/12/2006 và của Bộ
TN&MT quyết định về việc ban hành Danh mục CTNH và Thông tư của Bộ TN&MT số
12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ,
đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH, các DN KCX-KCN đã từng bước xác lập
cho Công ty mình một quy trình thu gom, lưu trữ, chuyển giao chất thải theo đúng quy định

hiện hành.
Việc xử lý rác thải (Sinh hoạt, công nghiệp và CTNH) tại các KCX, KCN thành phố
hầu hết đều có trạm chứa và phân loại rác, nhà làm việc cho đội vệ sinh và lực lượng quét dọn
đường, nạo vét mương cống thoát nước, trồng cây xanh, cụ thể là:
 Rác công nghiệp còn giá trị sử dụng do các lực lượng dịch vụ tiếp nhận thu gom, vận
chuyển, tiêu thụ.

×