Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận môn giải phẫu sinh lý và hoạt động thần kinh cao cấp bệnh Alzheimer

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.48 KB, 12 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

Lớp: Tâm lý học K03 Giáo viên: Phạm Lê Bửu Trúc
Khóa: 2010 - 2014
Danh sách nhóm:
Nguyễn Văn Tuệ - 1056160096
Nguyễn Chí Trung - 1056160092
Bùi Thị Nhiều - 1056160055
Trương Thị Yến Nhi - 1056160054
2
Lê Thị Ngọc Lan - 0956030055
Giảm sút trí nhớ là một biểu hiện thường thấy ở người cao tuổi. Tuy nhiên, nó có thể là
một triệu chứng của bệnh Alzheimer, một bệnh não gây tử vong, là ngun nhân gây suy giảm
chậm trong tư duy, trí nhớ và kỹ năng lập luận. Đây là một căn bệnh chưa xác định rõ ngun
nhân và cũng chưa có cách điều trị hồn tồn.
Bệnh Alzheimer, thể bệnh nặng nhất trong nhóm các bệnh sa sút tâm thần (còn gọi là sa sút
trí tuệ, sa sút tâm trí) hiện nay là mối quan tâm hàng đầu của những nhà lão khoa trên tồn thế
giới cũng như ở nước ta, khi tuổi thọ trung bình ngày càng cao, số người mắc bệnh này ngày càng
nhiều.
Bệnh cho đến nay, có tiên lượng nói chung là xấu, gây nhiều khó khăn đau khổ cho người
bệnh, cho gia đình họ và cả cộng đồng xã hội.
1) Bệnh Alzheimer là gì?
Alzheimer (AD, SDAT) là bệnh thối hóa cả não bộ
khơng hồi phục, gây nên chứng sa sút trí tuệ ở người cao
tuổi. Tổn thương tế bào thần kinh ở vỏ não và những cấu
trúc xung quanh làm sa sút trí nhớ, giảm phối hợp vận
động, giảm cảm giác, nhận cảm sai , cuối cùng là mất trí
nhớ và chức năng tâm thần.
Bệnh Alzheimer được bác só tâm thần và thần


kinh học người Đức Alois Alzheimer phát hiện ra vào
năm 1906, căn bệnh này được đặt theo tên ông.
2) Nguồn gốc của bệnh Alzheimer
Alzheimer gặp ở 5% người trên 60 tuổi và tỷ lệ này cứ 5 năm lại tăng lên gấp đơi. Năm 1907,
Alois Alzheimer đã mơ tả một bệnh nhân nữ 51 tuổi với các biểu hiện sa sút trí tuệ có tính chất tiến
triển do một bệnh mà ba năm sau đó Kraepelin đã đặt tên là "bệnh Alzheimer" (AD). Trải qua gần 100
năm, bệnh Alzheimer đã được chẩn đốn trên lâm sàng với nhiều thay đổi về các quan niệm bệnh học
3
cũng như các thành tựu mới trong nghiên cứu về các bệnh ngun, bệnh sinh. Tuy nhiên các tác giả
đều thừa nhận Alzheimer là một đơn thể bệnh. Đây là q trình bệnh lý có hệ thống các triệu chứng
lâm sàng và các tổn thương giải phẫu bệnh đặc trưng ở não được coi là các "tiêu chuẩn vàng" để làm
chẩn đốn.
Trong khi sa sút trí tụê là rối loạn phổ biến hàng thứ 2 trong các rối loạn tâm thần ở người cao
tuổi, thì Alzheimer là bệnh đứng hàng đầu trong các căn ngun gây sa sút trí tuệ: 50-60% các trường
hợp sa sút trí tuệ là do bệnh Alzheimer; 10-15% các trường hợp sa sút trí tuệ là có sự phối hợp giữa
bệnh Alzheimer và bệnh mạch máu não.
3) Những ai dễ mắc bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer là một căn bệnh gây tử vong ở người cao tuổi đứng thứ 4 hiện nay. Có rất
nhiều yếu tố tác động góp phần làm tăng khả năng mắc bệnh Alzheimer:
Tuổi: Đây là yếu tố có nguy cơ lớn nhất dẫn đến mắc chứng bệnh Alzheimer. Chỉ có 10%
người cao niên ở lứa tuổi 65 mắc bệnh này nhưng gần như 50% người cao niên trên 80 tuổi mắc phải
bệnh này. Đây là độ tuổi mà hệ thống thần kinh đang bị lão hóa, cơ thể giảm sức đề kháng, cơ chế sinh
lý thay đổi theo chiều hướng xấu, do đó đây là độ tuổi dễ bị mắc bệnh nhiều nhất. Tuy nhiên, những lứa
tuổi 35 – 40 cũng có thể mắc bệnh, nhưng tần suất mắc bệnh rất thấp. Theo số liệu thống kê của các
chuyên gia thì thấy số ca nhiễm bệnh trong 1000 người/ năm só sự tăng theo độ tuổi.
Tuổi
Số ca nhiễm bệnh trong 1000
người/năm
65 – 69 3
70 – 74 6

75 – 79 9
80 – 84 23
85 - 89 40
4
90 - 69
Giới tính: Phụ nữ dễ bò mắc bệnh hơn nam giới. Do ở phụ nữ sự giảm estrogen sau mãn kinh
có liên quan rõ rệt đến giảm trí nhớ và sa sút tâm thần.
Dân tộc: các dân tộc có tần suất mắc bệnh Alzheimer khác nhau. Người da trắng ít mắc bệnh hơn
người Mỹ gốc Phi hoặc Tây Ban Nha. Người châu Á cũng ít mắc bệnh hơn nơi khác. Người ta còn cho
rằng bệnh chịu ảnh hưởng của yếu tố mơi trường, thí dụ người Nhật sống tại Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh cao
hơn hẳn so với người Nhật sống tại Nhật.
Tăng huyết áp: nhiều nghiên cứu cho thấy người có huyết áp tâm thu cao có nguy cơ cao bị
Alzheimer. Tăng huyết áp gây ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh, làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Hội chứng Down: người bị hội chứng này sẽ bị Alzheimer khi sống đến 40 tuổi và những bà mẹ
sinh con bị Down sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.
Môi trường: người ta phát hiện kẽm, đồng tích tụ trong mô não người bò Alzheimer. Sống
trong môi trường nhiễm kim loai, môi trường điện từ trường, nhiễm độc. Một số yếu tố khác có liên
quan đến chứng mắc Alzheimer như thiếu hụt Vitamin nhóm B, bệnh trầm cảm, trấn thương đầu,
một nhóm người có điều kiện kinh tế kém và học vấn thấp, không thường xuyên làm việc trí não…
v.v…
4) Dấu hiệu của bệnh Alzheimer
a) Các triệu chứng báo hiệu
- Thường bị nhầm lẫn, khó khăn trong việc nhận thức.
- Hay ghi chép lặt vặt (tạo tiền đề để nhớ).
- Gọi điện cho người thân nhiều lần (gọi xong lại qn, gọi lại).
- Lẫn lộn các đồ vật, nhầm ngày, tháng, năm.
b) Các triệu chứng tồn phát
5
- Mất trí nhớ: là triệu chứng đầu tiên và xuất hiện rất sớm, ngày càng nặng và không hồi phục. Bệnh
nhân thường mất trí nhớ gần (quên những sự vật mới xảy ra). Dần dần họ quên ngày, tháng, quên tên vợ

con của mình. Khi ra khỏi nhà thì quên đường về, quên rửa mặt, quên cài cúc áo, quên mặt vợ (hoặc
chồng) của mình.
- Rối loạn ngôn ngữ: biểu hiện sớm và khó tìm từ để biểu hiện ý tưởng. Họ khó phát âm, nói không trôi
chảy sau đó mất ngôn ngữ, nói xong nhưng không hiểu mình vừa nói gì.
- Rối loạn phối hợp động tác: bệnh nhân không chú ý đến trang phục, mặc quần áo rất khó khăn, khó
thực hiện được công việc hàng ngày. Bệnh nhân yếu cơ, run, hay bị chuột rút vì vậy ảnh hưởng đến các
công việc vệ sinh cá nhân như tắm, rửa, thay quần áo
- Rối loạn chức năng nhận thức: vì rối loạn trí nhớ và chú ý dẫn đến rối loạn khả năng nhận thức. Người
bệnh có rối loạn khả năng định hướng không gian, thời gian, mất khả năng tính toán đơn giản, mất khả
năng đánh giá
- Trầm cảm: thường xuất hiện ở giai đoạn sớm, có 25-85% bệnh nhân có trầm cảm. Tuy nhiên các triệu
chứng trầm cảm là không ổn định. Có lúc bệnh nhân có ý định tự sát, nhưng sau đó lại xuất hiện khoái
cảm.
- Các triệu chứng loạn thần: gặp ở 10-30% số bệnh nhân. Thường gặp là hoang tưởng bị hại, nhưng đôi
khi cũng có ảo thị giác với các hình ảnh kỳ quái.
- Hình ảnh chụp cắt lớp (CT Scanner) não và chụp cộng hưởng từ (MRI) não có hình ảnh teo não lan
toả, giãn rộng các não thất.
Bệnh Alzheimer là căn bệnh khởi phát chậm và từ từ, nhưng theo thời gian bệnh ngày càng nặng
hơn. Alzheimer có ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của cá nhân, không những thế nó còn ảnh hưởng đến
gia đình, cộng đồng, xã hội. Nguyên nhân của bệnh đến nay vẫn chưa phát hiện được chính xác, song có
thể dưa trên những biểu hiện sớm nhất của bệnh Alzheimer ở người cao tuổi với những dấu hiệu sau:
- Mất trí nhớ làm ảnh hưởng đến quá trình công tác.
- Gặp khó khăn trong thực hiện các thao tác quen thuộc.
- Có những vấn đề trong sử dụng ngôn ngữ.
- Mất định hướng về thời gian và không gian.
6
- Khả năng suy nghĩ giảm hoặc kém.
- Gặp những rắc rối với các vấn đề mang tính trừu tựơng mà trước kia chưa hề gặp.
- Hay để quên đồ đạc và khó nhớ lại được, mà có thì cần thời gian rất lâu để nhớ.
- Thay đổi về cảm xúc, hành vi. Mọi tính cánh từ trước khi mắc bệnh đều bị phai nhạt.

- Thay đổi về nhân cách như khó tính, thờ ơ, có khuynh hướng cách ly với cộng đồng.
- Trở nên trì trệ.
- Sút cân không giải thích được. những người mắc bệnh Alzheimer thường giảm khứu giác mà
người bình thường không có.
- Mất khả năng trong việc đi đứng.
- Mất tập trung tư tưởng.
Những dấu hiệu này cũng có thể gặp ở người khỏe mạnh bị lão hóa, tuy nhiên bác sĩ chuyên khoa
có thể phân biệt các triệu trứng này trên người bình thường và người bệnh Alzheimer. Chẳng hạn như
người cao tuổi không bị giảm kỹ năng ngôn ngữ, người bị bệnh lạ bị, họ khó khăn trong việc hoàn thành
câu hoặc tìm ra một từ đúng, không có khả năng hiểu nghĩa của từ, giao tiếp không hoạt bát. Ngoài ra
các bác sĩ chẩn đoán trên điện não đồ, hình ảnh học, xét nghiệm máu, dịch não tủy, hay test thử khứu
giác.
5) Nguyên nhân dẫn đến bệnh Alzheimer
7
a) Yếu tố sinh học
Khi nghiên cứu người bi bệnh Alzheimer, người
ta đã phát hiện có sự mất tế bào thần kinh và giảm thể
tích những vùng não chi phối trí nhớ, vùng đảm nhận
tâm thần kinh. Khi xem xét mô não về téâ bào học thấy
có tổn thương về mặt sinh học, đó là sự thoái hóa của
các mô thần kinh hoặc bò tổn thương chỉ còn lại những
ống nhỏ ngăn cản vận chuyển chất dinh dưỡng nuôi tế
bào thần kinh. Vấn đề này liên quan đến một Protein
tên là TAU. Trong những ngươi mắc bệânh Alzheimer
thấy có sự xuất hiện một Protein gọi là beta Amyloid, chúng không hòa tan nên tích tụ thành những
mảng keo. Beta Amyloid làm chết tế bào thần kinh, làm giảm chất trung gian dẫn truyền thần kinh
acetylcholine cần thiết cho trí nhớ. Beta Amyloid cũng ngăn cản sự vận chuyển ion kali, natri,
calcium qua màng tế bào (giúp cho quá trình truyền tín hiệu thần kinh). Sự có mặt của Protein
Amylioid precursor (APP) làm tăng khả năng hủy hoại tế bào thần kinh của beta Amyloid. Ngoài ra
còn có vai trò của một số chất Protein khác như ERAB, mảng AMI (giống beta Amyloid).

b) Sự oxy hóa và đáp ưng viêm
Khi nghiên cứu những người mắc bệnh Alzheimer, các nhà khoa học phát hiện thấy sự xuất
hiện của các gốc oxy tự do. Sự xuất hiện quá nhiều chất này sẽ làm tổn thương té bào thần kinh.
Ngoài ra chất oxy hóa cũng liên quan với đáp ứng miễn dòch, đó là phản ứng viêm (men
cyclooxygenase và prostaglandin làm tổn thương tế bào thần kinh).
c) Yếu tố gen.
Gen cũng đóng vai trò có tính chất ảnh hưởng đến mắc bệnh Alzheimer. Các gen đóng vai trò
khởi phát muộn Alzheimer như ApoE2, ApoE3, Apoe4. Còn những đột biến gen PS1, PS2 hoặc gen
kiểm soát APP sẽ làm cho bệnh Alzheimer khởi phát sớm hơn.
8
Tiền sử gia đình có người bị bệnh Alzheimer. Các thành viên trong gia đình này có thể mang các
biến đổi di truyền đã được xác định rõ (ở nhiễm sắc thể 21,14,1 ) hoặc mang các kiểu gen làm tăng cơ
địa dễ bị bệnh như ApoE4 Tần số xuất hiện bệnh là 50% trong số con các bệnh nhân Alzheimer cao
gấp 4 lần so với những người không có tiền sử gia đình bị bệnh này.
d) Các yếu tố tác động khác
- Yếu tố nhiễm độc nhôm: tình trạng nhiễm độc nhôm dường như có liên quan đến sự tăng lắng đọng
protein β Amyloid và số lượng các đám rối sợi thần kinh trong não bệnh nhân Alzheimer.
- Yếu tố nhiễm trùng (virus chậm) giống như bệnh creutzfeld-Jakob
- Các rối loạn chuyển hoá: phản ứng oxy hoá quá mức dẫn đến tăng các gốc tự do. Các gốc tự do này
cũng được cho là có liên quan đến sự kết hợp và tăng lắng đọng protein Aβ gây chết tế bào thần kinh.
Sự giảm lưu lượng máu não, rối loạn sinh tổng hợp các yếu tố dinh dưỡng thần kinh cũng được giả
định là có vai trò trong cơ chế gây bệnh Alzheimer.
6) Tiến triển bệnh Alzheinmer
Các triệu chứng đầu tiên thường bị nhầm lẫn là có liên quan đến lão hóa hoặc stress . Các kiểm
tra tâm lý có thể cho thấy những khó khăn về nhận thức nhẹ. Những triệu chứng sớm có thể ảnh hưởng
phức tạp đến các sinh hoạt hàng ngày. Đáng chú ý nhất là giảm trí nhớ như khó khăn trong việc nhớ các
sự kiện gần đây đã học được và không có khả năng để tiếp thu các thông tin mới. Một số triệu chứng
ban đầu của bệnh Alzheimer có thể không được chú ý đến, đó là người bệnh có những vấn đề với các
chức năng điều hành não bộ về sự chú tâm, tính quy hoạch, tính linh hoạt, và tư duy trừu tượng, hoặc
suy yếu trong phần não bộ lưu trữ ngữ nghĩa (bộ nhớ của ý nghĩa, và các mối quan hệ, khái niệm).

Những đặc điểm này thường là triệu chứng tiền lâm sàng của bệnh.
 Thời kỳ đầu
Một phần nhỏ trong số những bệnh nhân gặp khó khăn về ngôn ngữ, khó khăn về chức năng điều
hành, nhận thức (agnosia), hoặc chức năng thực hiện các hoạt động (apraxia). Bệnh không ảnh hưởng
đến tất cả các năng lực ký ức như nhau. Những kỷ niệm xưa, những điều đã được học (ngữ nghĩa, khái
niệm…), và tiềm thức bị ảnh hưởng ở một mức độ ít hơn những sự kiện vừa mới diễn ra. Đặc trưng của
vấn đề về ngôn ngữ chủ yếu là sự biểu hiện co lại của vốn từ vựng và giảm sự lưu loát từ, dẫn đến bần
9
cùng hóa ngôn ngữ nói và viết. Trong giai đoạn này, người bệnh Alzheimer vẫn có khả năng giao tiếp
cơ bản và vẫn thực hiện được các chức năng vận động như viết, vẽ hoặc mặc quần áo.
 Thời kỳ giữa
Người bệnh dần dần mất các khả năng thực hiện những vận động sinh hoạt hàng ngày, ngôn ngữ
bị xáo trộn, mất khả năng đọc viết. Trong giai đoạn này, các vấn đề ký ức trở nên kém dần đi, bệnh
nhân có thể không nhận ra những người thân quen như vợ/chồng, con cái, bạn bè… Các kỷ niệm lâu
năm cũng bị xóa dần. Hành vi và tâm lý cũng bị thay đổi, biểu hiện thường gặp là đi lang thang, khó
chịu, tâm lý bất ổn dẫn đến khóc, tấn công người khác 1 cách vô thức, hoặc phản kháng lại sự chăm sóc
của người thân, xuất hiện ảo tưởng và hoàn toàn không nhận thức được bệnh tình của bản thân mình,
mất kiểm soát chức năng tiêu tiểu.
 Thời kỳ cuối
Trong giai đoạn cuối, bệnh nhân hoàn toàn phụ thuộc vào người chăm sóc. Ngôn ngữ giảm thiểu chỉ
còn các cụm từ đơn giản hoặc thậm chí là những từ đơn, cuối cùng dẫn đến hoàn toàn mất tiếng nói. Dù
đã mất khả năng ngôn ngữ bằng lời nói, nhưng bệnh nhân thường có thể hiểu và trả lại các tín hiệu cảm
xúc. Bệnh nhân vẫn xuất hiện các động thái gây hấn, thờ ơ hoặc cực kỳ mệt mỏi. Bệnh nhân cuối cùng
không thể thực hiện ngay cả những công việc đơn giản nhất mà không cần trợ giúp, và liệt toàn thân.
Người bệnh Alzheimer sau đó thường sẽ chết bởi các tác nhân bên ngoài như nhiễm trùng, viêm phổi…
7) Điều trị bệnh Alzheimer
Có 3 phương thức cơ bản trong điều trị:
- Điều trị triệu chứng: nhằm cải thiện các triệu chứng về nhận thức hoặc làm giảm các rối loạn loạn
thần, rối loạn hành vi
- Điều trị duy trì sự ổn định: làm dừng lại sự sa sút trí tuệ hoặc làm giảm nhẹ tiến triển của bệnh.

- Điều trị dự phòng: ngăn ngừa khởi phát bệnh bằng cách tiến hành điều trị từ giai đoạn tiền triệu
(hiện chưa có nghiên cứu nào được tiến hành theo chiến lược này).
Vì Alzheimer là một rối loạn không đồng nhất về bệnh nguyên, bệnh sinh, kể cả các biểu hiện
lâm sàng ở các giai đoạn bệnh, việc điều trị cần có sự phối hợp nhiều liệu pháp. Đặc biệt cần quan
10
tâm tới chế độ chăm sóc lâu dài, cần có kế hoạch để nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả bệnh nhân
và người chăm sóc họ.
a) Trị liệu tăng cường chức năng dẫn truyền thần kinh hệ cholinergic: cơ chế là có sự giảm
thấp rõ rệt chất dẫn truyền acetylcholine (do giảm men tổng hợp C.A.T) trong não bệnh nhân
Alzheimer (Đồng thời có cả sự tổn thương receptor tiếp nhận cholinecgic). Các thuốc hiện đang được
sử dụng là Tacrine (T.H.A); Donepezine (aricept); Galantamine; Rivastigmine (Exelone);
Metrifonate; các chất Nootropic
b) Trị liệu chống oxy hoá: Vitamine E; vitamine C được cho là có tác dụng chống sự kết tập
các gốc tự do vào các protein Amyloid, làm chậm lại sự tiến triển của bệnh.
c) Điều trị chống viêm: cơ chế là có phản ứng viêm rõ rệt tại các mảng lão suy và các mạch máu
thoái hoá dạng Amyloid. Hơn nữa, thực tế cho thấy các bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp được
dùng thuốc kháng viêm có tỷ lệ bị Alzheimer khá thấp. Các thuốc chống viêm không steroid
(NSAIDS) thường được chọn hơn là Indomethacine
d) Điều trị thần kinh nội tiết: cơ chế là có nhiều bất thường trên trục dưới đồi, tuyến yên. Các
chất ACTH, TRH, ADH, đặc biệt là estrogen đã được nghiên cứu điều trị nhằm tăng cường hoạt
động nhận thức ở bệnh nhân Alzheimer.
e) Điều trị bằng các chất tăng trưởng dinh dưỡng thần kinh, tăng cường chuyển hoá glucose
não: Serebrolysin, tanakan, Hydergine
f) Điều trị các rối loạn tâm thần như hoang tưởng, ảo giác, trầm cảm, kích động, cơn kêu khóc
có thể sử dụng các thuốc an thần kinh, chống trầm cảm, giải lo âu xong cần lưu ý những hiệu quả
đặc ứng do thuốc có thể xảy ra ở người già. Các loại thuốc có hoạt tính kháng cholinergic có thể gây
tăng lú lẫn, và yên dịu quá mức ở người già. Người già thường đước sử dụng nhiều loại thuốc cho cả
các bệnh lý cơ thể kèm theo sa sút trí tuệ và thường có nhiều tác dụng phụ do phản ứng chéo giữa các
thuốc. Liều lượng thuốc hướng thần ở người già thường rất thấp so với người trẻ tuổi
g) Điều trị chống hình thành Amyloid. Đã được nghiên cứu ở động vật thực nghiệm. Các chế

phẩm loại này được gọi là các vaccine chống Amyloid
8) Phòng ngừa bệnh Alzheimer
11
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới cố tìm ra
những biện pháp nhằm giảm nguy cơ của bệnh, nhưng đến nay
vẫn chưa có kết quả vì nguyên nhân chính chưa được tìm ra. Do
đó ta chỉ có thể phòng ngừa mà thôi:
 Liệu pháp hoóc môn thay thế cả ở nam và nữ: nhiều
nghiên cứu trên thế giới cũng ghi nhận kết quả ở phụ nữ dùng
liệu pháp thay thế hoóc môn đều giảm được triệu trứng sa sút
trí tuệ. DHEA (dehydroepiandrosterone) dùng chống lão hóa
ở phụ nữ cũng làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer. Ở nam giới thì liệu pháp thay thế bằng
testosteron có hiệu quả làm giảm nguy cơ mắc Alzheimer.
 Thuốc kháng viêm không steroid: nhiều nghiên cứu cho thấy dùng các thuốc kháng viêm loại
này sẽ chống lại sự tích tụ của beta Amyloid trong não.
 Statin: Đây là thuốc giảm cholesterol trong máu, một vài nghiên cứu cho thấy dùng statin
giảm được 70% nguy cơ bò sa sút trí tuệ.
 Chế độ ăn uống:
- Dầu mỡ: năng lượng từ chất béo chỉ nên ở mức dưới dưới 30% tổng nhu cầu hàng ngày.
- Rau quả sậm màu: Có tác dụng bảo vệ não chống lại sự lão hóa.
- Đậu nành: Có chứa một thành phần giống estrogen. Trên động vật thí nghiệm cho thấy đậu nành
có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh Alzheimer. Đậu nành đặc biệt tốt cho phụ nữ sau mãn kinh.
- Rượu: Nếu dùng lượng vừa phải (một đến hai ly mỗi ngày) thì có tác dụng tốt bảo vệ não do kích
thích phóng thích acetylchotine (chất dẫn truyền thần kinh bị khiếm khuyết trong bệnh Alzheimer).
Tuy nhiên nếu dùng q nhiều sẽ gây hại, đặc biệt phụ nữ uống rượu sẽ tăng nguy cơ bị ung thư vú
và khơng được dùng khi có thai.
- Folate và vitamin B12: sẽ làm giảm hemocysteine (chất làm tăng nguy cơ Alzheimer và bệnh tim
mạch).
12
- Vitamin chống oxy hóa: chủ yếu là vitamin E và C, chống sự giải phóng gốc tự do làm tổn

thương tế bào.
- Tập thể dục: Cho thấy giúp giảm nguy cơ bị bệnh Alzheimer khi nghiên cứu trên số lượng lớn
người cao tuổi và trong thời gian dài.
9) Chăm sóc tại nhà
Bệnh Alzheimer không thể chữa trị được và dần dần nó sẽ làm cho người bệnh không có khả
năng đáp ứng những nhu cầu riêng của họ, cho nên việc chăm sóc phải được quản lý chặt chẽ trong quá
trình của bệnh.
Khi chăm sóc người mắc bệnh Alzheimer cần lưu ý:
- Có chế độ ăn uống phù hợp cho người bệnh
- Có thái độ kiên nhẫn, không cáu gắt với người bệnh
- Quan tâm chia sẻ với người bệnh
- Chú ý quan sát theo dõi người bệnh (có thể gắn các thiết bị nghe nhìn)
Tóm lại, trong xã hội hiện nay, bệnh Alzheimer là một căn bệnh đáng lo ngại và cần nhận
được sự quan tâm của mọi người trong xã hội, không riêng gì những người cao tuổi. Chúng ta cần
để tâm tìm hiểu để có thể phòng ngừa bệnh này một cách hiệu quả, cũng như có biện pháp chăm
sóc người bệnh một cách đúng đắn.

×