Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận môn giải phẫu sinh lý và thần kinh cấp cao Sáng tạo và tư duy sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.59 KB, 27 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TPHCM
BỘ MÔN TÂM LÝ HỌC

GV hướng dẫn: Th.S Phạm Lê Bửu Trúc
Nhóm thực hiện:
Nguyễn Huỳnh Luân
Võ Thị Ngọc Hân
Trần Thị Thái Thu
Lâm Thị Hồng
Quan Huỳnh Như Thủy
2
12/2010
3
DẪN LUẬN
Sáng tạo là một trong những năng lực vô tận của con người. Sáng tạo là một trong
những nguyên nhân chính thúc đẩy quá trình phát triển và hiện đại hóa của xã hội loài
người. Ngày nay, người ta không chỉ nhìn nhận sáng tạo ở việc tìm ra cái mới phục vụ
cho cuộc sống, mà dần đi vào nghiên cứu sâu hơn về bản chất, cấu trúc, cơ chế tâm lí của
hoạt động sáng tạo. Đồng thời, ngày càng có nhiều công cụ tư duy giúp con người năng
động hơn trong tư duy, rèn luyện và phát huy sức sáng tạo của cá nhân và tập thể.
Chính vì thế, sáng tạo dần trở thành một đối tượng nghiên cứu quan trọng của
nhiều ngành khoa học. Sáng tạo vốn dĩ là một “địa hạt” hết sức đặc biệt nên đã thu hút sự
quan tâm của khá nhiều lĩnh vực nghiên cứu giao thoa. Hiểu rõ hơn về sự sáng tạo dưới
góc độ tâm lí học sẽ giúp con người điều chỉnh tư duy, phát huy tối đa năng lực sáng tạo
của mình. Với những mong muốn đó, nhóm đã đi vào nghiên cứu, sưu tầm và hệ thống
lại đề tài: “Sáng tạo và tư duy sáng tạo”.
4
MỤC LỤC
DẪN LUẬN……………………………………………………………………
I. KHÁI NIỆM……………………………………………………………… 4


II. BẢN CHẤT CỦA SÁNG TẠO………………………………………… 6
III. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA SỰ SÁNG TẠO………………………… 8
IV. CƠ CHẾ TÂM LÝ CỦA SỰ SÁNG TẠO………………………………13
V. PHÂN BIỆT SÁNG TẠO VỚI TRÍ THÔNG MINH………………… 16
VI. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO……………….17
VII. TÍNH Ỳ TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO…………… 20
VIII. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SUY LUẬN SÁNG TẠO……………….23
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………27
5
CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM VỀ SÁNG TẠO
1. Khái niệm sáng tạo:
Sáng tạo là một hoạt động quan trọng trong hệ thống các hoạt động thần kinh cấp
cao ở con người. Theo cách hiểu tổng quát và phổ biến hiện nay thì sáng tạo là hoạt động
tìm ra cái mới. Theo từ điển Tiếng Việt thì sáng tạo được hiểu là hoạt động “tìm ra cái
mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có”.
Một số định nghĩa khác:
Theo từ điển triết học: “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra
những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác định bởi
đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kĩ thuật, tổ chức quân sự, Có thể nói sáng tạo có
mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần”
Theo quan điểm của S.Freud – cha đẻ của phân tâm học về sáng tạo thì cho rằng:
“Sáng tạo cũng giống như giấc mơ hiện hình, là sựu tiếp tục và thay thế trò chơi trẻ con
cũ.”
J.P.guilford: “Tư duy sáng tạo là sự tìm kiếm và thể hiện nhưng phương pháp
logic trong tình huống có vấn đề, tìm kiếm những phương pháp khác nhau và mới của
việc giải quyết vấn đề”.
Còn theo giáo sư Chu Quang Thiêm, ĐH Bắc Kinh thì sáng tạo là căn cứ vào
những ý tưởng đã có sẵn làm tài liệu rồi cắt xén chọn lọc tạo ra một hình tượng mới.
Theo L.X.Vugotxki thì sáng tạo được hiểu là hoạt động tạo ra cái mới không phân
biệt kết quả tạo ra có ý nghĩa về mặt hiện thực hay tư duy.

J.H.Lasva cho rằng sáng tạo là sự lựa chọn và sử dụng những phương tiện mới,
cách giải quyết mới.
Ở Việt Nam, cũng có nhiều tác giả có quan niệm khác nhau về khái niệm sáng tạo:
Tác giả Trần Hiệp – Đỗ Long :Sáng tạo là hoạt động tạo lập phát hiện những giá
trị vật chất và tinh thần, đòi hỏi cá nhân phải có năng lực, kĩ năng.
Tác giả Nguyễn Đức Uy cho rằng đó là sự đột khởi thành sản phẩm lien hệ mới
mẻ nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân.
6
Tác giả Nguyễn Huy Tú cho rằng quá trình sáng tạo là tổ hợp các phẩm chất và
năng lực mà nhờ đó mà con người trên cơ sở kinh nghiệm của mình tòm ra được những
nét mới, độc đáo.
 Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về sáng tạo nhưng gần như tất cả
đều đồng tình sáng tạo phải là quá trình tạo ra hay hướng đến cái mới. Bằng tư duy độc
lập, con người đã phối hợp, biến đổi và xây dựng những cái mới trên bình diện cá nhân
hay xã hội từ những kinh nghiệm sẵn có của mình.
2. Một số khái niệm liên quan:
a) Tư duy sáng tạo:
Tư duy sáng tạo là khả năng giải quyết các vấn đề bằng cách tạo ra một cái mới,
nhưng đạt được kết quả một cách có hiệu quả. Tư duy sáng tạo nhấn mạnh đến khả năng
tư duy, suy luận logic, phán xét để đưa ra những ý tưởng mới. Con người luôn phải tư
duy sáng tạo vì mọi thứ luôn vận động, biến đổi. Trong giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo
giúp con người tìm ra nhiều cách giải quyết và lựa chọn cách giải quyết tối ưu, hợp lý
nhất và hiêu quả nhất.
b) Năng lực sáng tạo:
Năng lực sáng tạo là khả năng tạo ra những cái mới hoặc giải quyết vấn đề một
cách mới mẻ của con người. Năng lực sáng tạo có tiền đề trước hết bởi phẩm chất trí tuệ,
phẩm chất trí nhớ, xúc cảm… Như vậy, năng lực sáng tạo liên quan chặt chẽ tới hoạt
động sáng tạo và là yếu tố thể hiện rõ trong hoạt động sáng tạo cũng như quyết định chất
lượng của hoạt động sáng tạo.
7

CHƯƠNG II. BẢN CHẤT CỦA SÁNG TẠO
Đi tìm bản chất của sáng tạo không thể tách rời khái niệm của chúng. Chính từ
những quan niệm khác nhau về sáng tạo mà các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận và khám
phá ra ở sự sáng tạo những bản chất khác nhau. Trước hết, các nhà Phân tâm học đã xem
sáng tạo như một trò chơi của trẻ con, đồng hóa sáng tạo với vô thức và làm “hẹp” đi
những gì con người có thể tạo ra trong cuộc sống. Mặt khắc, các nhà nghiên cứu về sáng
tạo ở Tiệp Khắc cũ lại cho rằng sáng tạo là quá trình mà kết quả là sự tạo ra cái mới hoặc
sự kết hợp mới từ những cái cũ. Chính Einstein đã phát triển bản chất này của sáng tạo
bằng mô hình:
Ý tưởng (đã được biểu đạt một cách hợp lí, mới mẻ, hấp dẫn) => đào sâu, nghiên
cứu => sản phẩm sáng tạo
Như vậy, từ quan điểm trên, sáng tạo được xem là việc thực hiện hai chức năng
tạo ra ý tưởng mới, giải quyết nhiệm vụ và tạo ra sản phẩm mới nên có bản chất là tư duy
có định hướng để đạt đến một hiệu quả của việc giải quyết vấn đề.
Mặt khác, tác giả Vưgốtxki đã khẳng định: “Sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có
ở nơi nó tạo ra những tác phẩm lịch sử vĩ đại, mà ở khắp nơi khi nào con người tưởng
tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra một cái gì mới, cho dù cái mới ấy nhỏ bé đến đâu đi
nữa so với những sáng tạo của các thiên tài”. Quan điểm này mang đậm tính nhân văn,
khẳng định sáng tạo là năng lực vốn có của tất cả mọi người.
Ngày nay, các nhà Tâm lý học hiện đại đã xem sáng tạo là hoạt động tâm lí cao
nhất của con người, ở đó luôn có sự tham gia của các quá trình tâm lí khác trong sự kết
hợp rất chặt chẽ. Tiền đề của tư duy sáng tạo là năng lực sáng tạo (cốt lõi), năng lực tư
duy, tưởng tượng, trí nhớ, xúc cảm, động cơ và ý chí. Từ đó, sáng tạo được nghiên cứu
thông qua ba thuộc tính cơ bản:
- Tính mới mẻ: tạo ra cái “mới mẻ” trên hai phương diện so sánh là cá nhân và xã
hội. Sáng tạo ở mọi lứa tuổi, trên những đối tượng khác nhau đều có ý nghĩa nhưng chỉ
khác ở vấn đề cần giải quyết, trình độ tự lập trong sáng tạo
- Tính độc lập – tự lập: tồn tại cả trong tư duy và trong hoạt động. Tư duy độc lập
giúp nảy sinh những giải pháp mới. Khả năng độc lập trong hoạt động bộc lộ trong việc
đặt mục đích tìm giải pháp giải quyết vấn đề qua 3 khâu: nhận ra, giải quyết và kiểm tra,

đánh giá
- Tính có lợi: Sáng tạo phải tạo ra cái mới đảm bảo tính hiện thực, phục vụ cho lợi
ích của con người, của xã hội
8
Như vậy, từ những nhận định trên, bản chất của sự sáng tạo có thể được đúc kết ở
ba điểm chính sau:
- Sáng tạo là việc tạo ra cái mới ở những mức độ khác nhau.
- Cái mới con người tạo ra nhằm để phục vụ cho cuộc sống con người, nhu cầu
của xã hội.
- Quá trình tạo ra cái mới của sáng tạo có sự tham gia khá đầy đủ của các quá trình
tâm lý của cá nhân.
CẤU TRÚC TÂM LÝ
LINH
HOẠT
ĐỘC ĐÁO MỀM DẺO
CẤU TRÚC
– KẾ HOẠ-
CH
NHẠY
CẢM VẤN
ĐỀ
MỞ RỘNG
AD, ĐỊNH
NGHĨA LẠI
9
CHƯƠNG III. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA SỰ SÁNG TẠO
1. Một số đặc điểm tâm lý của quá trình sáng tạo:
• Nhận ra vấn đề mới dưới những luận điểm đã quen thuộc được hình thành dựa trên
sự nhạy cảm vấn đề
• Nhìn ra chức năng mới ở một đối tượng nào đó để gần gũi, quen thuộc

• Nhận ra cấu trúc đối tượng đang xét bằng cách tìm ra những quy luật ẩn chứa.
• Sự chọn lựa các giải pháp, nhào nặn các giải pháp mới + đã có, tìm và quyết định
giải pháp độc đáo.
Như vậy, dù có được hiểu ở bất kì khía cạnh nào thì sáng tạo vẫn là một quá trình
tâm lý. Sự khác biệt ở đây là quá trình này diễn ra một cách liên tục – không ngừng
hướng đến cá nhân và xã hội nhằm đem lại những kết quả tốt nhất.
2. Cấu trúc tâm lý của sự sáng tạo:
Theo Tiến sĩ tâm lý Huỳnh Văn Sơn (ĐH Sư Phạm TPHCM), cấu trúc tâm lý của
sự sáng tạo được chia thành sáu thành phần, cụ thể như sau:
a) Thành phần linh hoạt (Flexibility):
10
Thành phần linh hoạt là khả năng biến đổi thông tin đã thu nhận, thay đổi hệ thống
tri thức, chuyển đổi góc nhìn, nhìn thông tin dưới nhiều góc độ khác nhau ngay khi vừa
tiếp nhận. Thành phần linh hoạt bao gồm hai phần là linh hoạt bột phát và linh hoạt thích
ứng.
- Linh hoạt bột phát: linh hoạt nhận ra vấn đề lập tức từ nhiều góc độ, quan điểm.
Ví dụ: Trong vòng 30 giây hãy kể tất cả những công dụng của một viên gạch mà bạn biết.
Càng nhiều đáp án sáng tạo được đưa ra (nhưng vẫn hợp logic) càng thể hiện rõ tính linh
hoạt bột phát này.
- Linh hoạt thích ứng: linh hoạt chọn lựa giải pháp, cách tiếp cận phù hợp với vấn
đề thông qua tư duy. Linh hoạt thích ứng sẽ mất nhiều thời gian đầu tư suy nghĩ, chọn lựa
giải pháp, phương án tiếp cận phù hợp hơn linh hoạt bột phát, thể hiện qua những test về
xếp que diêm,…
b) Thành phần độc đáo (Originality):
Thành phần độc đáo là tính độc lập trong giải quyết vấn đề đặt ra, từ đó tự thân
nảy sinh ra những ý tưởng mới, những giải pháp mới. Thành phần này được tạo ra từ 2
yếu tố:
- Sự hiếm lạ - duy nhất
- Sự liên tưởng xa
c) Thành phần mềm dẻo (Fluency):

Thành phần mềm dẻo là năng lực tổ hợp thông tin nhanh chóng, tạo ý tưởng mới
từ thông tin vừa mới tiếp nhận. Thành phần này đòi hỏi người tiếp nhận thông tin trong
thời gian ngắn, phải nhanh chóng tổ hợp thông tin, phát kiến ra những ý tưởng mới để
giải quyết hay phát triển vấn đề.
Thành phần này được tạo nên bởi các yếu tố:
- Lưu loát trong từ ngữ, cách biểu đạt
- Lưu loát trong ý tưởng
- Lưu loát trong liên tưởng
d) Thành phần cấu trúc kế hoạch (Elaboration):
11
Thành phần cấu trúc kế hoạch là năng lực xây dựng cấu trúc từ thông tin đã có,
xây dựng giải pháp từ ý tưởng sáng tạo. Thành phần này bao gồm các năng lực xây dựng
cấu trúc mới từ các thông tin đã biết, năng lực xây dựng các kế hoạch thực hiện giải pháp
từ những ý tưởng mới, cho phép cá nhân nghĩ ra được các bước hành động liên tiếp, tổ
chức và phối hợp của cơ ngón tay, cơ mặt…Thông thường, thành phần cấu trúc kế hoạch
có thể ước lượng bằng các test sử dụng ngôn ngữ.
e) Thành phần nhạy cảm vấn đề (Sensibility):
Thành phần nhạy cảm vấn đề là sự nhanh chóng phát hiện ra sai lầm, mâu thuẫn,
thiếu hụt hay thiếu logic, thiếu ngắn gọn, chưa tối ưu… hay khả năng nắm bắt dễ dàng
nhanh chóng các vấn đề, nhận ra ý nghĩa mới của sự vật từ những thông tin còn thiếu hụt
của mình để từ đó nảy sinh ý muốn cấu trúc lại sự vật, hiện tượng cho hợp lí, hài hòa hơn,
thích hợp hơn để tạo ra cái mới. Thành phần này thể hiện ở sự cởi mở, thái độ thông
thoáng trong tiếp xúc với ngoại giới và con người.
f) Thành phần mở rộng áp dụng, định nghĩa lại sự vật, hiện tượng (Redefinition):
Thành phần mở rộng áp dụng, định nghĩa lại sự vật, hiện tượng là sự áp dụng một
cách hoàn toàn mới, hoàn toàn khác với một đồ vật, hiện tượng hoặc một bộ phận của nó.
VD: Vật nào có thể sử dụng để châm lửa?
a. Dây thừng
b. Bắp cải
c. Đồng hồ bỏ túi

d. Tờ giấy
e. Cái kim
Câu trả lời ở đây là c.Đồng hồ bỏ túi. Thông thường, khi nghĩ về chiếc đồng hồ bỏ
túi, ta chỉ lưu tâm đến chức năng xem giờ của nó mà quên đi đồng hồ bỏ túi còn có một
mặt là một thấu kính hội tụ, có khả năng hội tụ ánh sáng để đốt cháy vật. Thành phần mở
rộng áp dụng, định nghĩa lại sự vật, hiện tượng sẽ cho chúng ta nhìn nhận lại sự vật, hiện
tượng một cách hoàn toàn mới, phát hiện ra những khía cạnh mới, chức năng mới ở
những sự vật, hiện tượng đã quen thuộc.
3. Các cấp độ của sáng tạo: Có hai cách phân loại phổ biến
a) Dựa trên giá trị sản phẩm
12
- Cấp độ 1: Những sản phẩm có giá trị khách quan.
- Cấp độ 2: Sản phẩm sáng tạo có giá trị chủ quan.
b) Dựa trên tính chất của sản phẩm sáng tạo: gồm 5 cấp độ cụ thể
- Sáng tạo biểu hiện
- Sáng tạo chế tạo
- Sáng tạo phát kiến
- Sáng tạo cải biến (đổi mới, cải cách)
- Sáng tạo trí tuệ đặc biệt
Nghiên cứu biểu hiện của 5 cấp độ sáng tạo này, tác giả Đặng Thị Vân
trong“Thực nghiệm phương pháp dạy học nêu vấn đề trong giờ học lý thuyết nhằm nâng
cao các hiệu quả phát huy tính sáng tạo học tập của sinh viên” được đăng trên Tạp chí
Tâm lý học 11/2010 đã khảo sát trong sinh viên ở Hà Nội, kết quả thu được:
CÁC CẤP
ĐỘ CỦA
SÁNG TẠO
BIỂU HIỆN SINH VIÊN TỶ LỆ
SINH VIÊN
ST
BIỂU HIỆN

- Trả lời câu hỏi theo cách hiểu cá nhân, không theo sách
vở
88.4%
ST
CHẾ TẠO
- Đưa ra câu trả lời bằng cách tổng hợp nhiều kiến thức
khác nhau từ các giáo trình, tài liệu
7.8%
ST
PHÁT KIẾN
- Giải quyết vấn đề do GV đề ra, tìm ra kiến thức chưa
có trong sách
- Có cách giải quyết sáng tạo riêng trước vấn đề GV đưa
ra
3.2%
ST
CẢI BIẾN
- Nêu các vấn đề phát sinh đến các kiến thức giáo viên
đang giảng
- Liên hệ tình huống thực tế gắn với kiến thức đang học
0.6%
ST TRÍ TUỆ
ĐB
- Đưa ra các phương pháp luận mới, các kỹ thuật mới,
được đánh giá ghi nhận như một sáng kiến trong ngành
học.
0%
13
CHƯƠNG IV. CƠ CHẾ TÂM LÝ CỦA SỰ SÁNG TẠO
1. Cơ chế sinh lý:

Theo các nhà tâm lý học hiện đại, hoạt động tích cực của bán cầu đại não là tiền đề
rất quan trọng để sự sáng tạo xuất hiện. Bán cầu đại não là cơ sở để những ý tưởng xuất
hiện khi nó hoạt động một cách tập trung. Ở mỗi bán cầu não có những ưu thế về một số
hoạt động thần kinh cấp cao như:
- Bán cầu trái thiên về trí nhớ, ngôn ngữ, lí luận, tính toán, phân tích, tư duy hội tụ.
- Bán cầu phải thiên về trực giác, ngoại cảm, cảm xúc, các liên hệ thị giác – không
gian, cảm nhận âm nhạc, tư duy phân kì.
Trước đây, nhiều người thường tuyệt đối hóa vai trò của bán cầu não trái trong
hoạt động tư duy. Tuy nhiên, hiện nay người ta bắt đầu nhìn nhận khách quan hơn về vai
trò của hai bán cầu não. Theo Ganong (1983): Bán cầu não phải có chức năng xử lí các
quan hệ nghe và nhìn trong không gian, gọi là bán cầu biểu tượng. Bên cạnh đó, bán cầu
não trái có chức năng ngôn ngữ và phân tích, gọi là bán cầu minh bạch. Như vậy, từ
những phân tích trên, ta thấy chức năng của não phải là chính là “tố chất” của sự sáng
tạo. Tuy nhiên, để có sự sáng tạo thì cần hai bán cầu não phải hoạt động cân bằng và phối
hợp nhau.
2. Cơ chế tâm lý:
a) Cơ chế logic:
Cơ chế lôgic xem xét sáng tạo theo một cấu trúc nhất định. Quá trình sáng tạo
được xem như một chu trình trải qua tuần tự các bước tư duy. Chính vì thế, cơ chế lôgic
đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tư duy trong khi sáng tạo. Trong tư duy có
sáng tạo và trong sáng tạo có tư duy. Tư duy được xem là một yếu tố quan trọng đặc biệt
trong cơ chế logic của sáng tạo. A.N.Leonchiev đã nhận xét: “Tư duy là mắt xích trung
tâm của hoạt động sáng tạo”.
Trong cơ chế lôgic, có đến hơn 20 cách phân chia các bước của quá trình sáng tạo,
trong đó có 2 cách được sử dụng rộng rãi:
- Quan niệm hoạt động sáng tạo theo 3 bước :
 Bước 1: Cảm nhận được vấn đề.
14
+ Cảm thấy đang tồn tại vướng mắc nào đó về lí luận hoặc thực tiễn.
+ Biểu đạt được vướng mắc của mình.

+ Mong muốn giải quyết vấn đề.
 Bước 2: Đưa ra giả thuyết, giải quyết dự kiến.
+ Gắn vấn đề với tri thức, kinh nghiệm.
+ Đưa ra những giải pháp.
+ Chọn 1 giải pháp.
 Bước 3: Kiểm tra giả thuyết.
+ Thực thi giả thuyết, giải pháp đã chọn.
+ Đánh giá giải pháp trên cơ sở kết quả của nó.
- Ngoài ra cũng có quan niệm quá trình sáng tạo diễn ra 6 bước:
 Nhận ra vấn đề
 Phân tích vấn đề
 Gắn vấn đề vào những quan hệ với những lĩnh vực tri thức chuyên biệt nhất định
 Xây dựng giả thuyết, giải pháp dự kiến
 Kiểm chứng giả thuyết
 Xác định giải pháp mới, nhận thức mới, đạt được cái mới.
b) Cơ chế linh cảm trực giác:
Trong quá trình sáng tạo, có những khoảnh khắc dù không có sự tham gia của ý
thức, chúng ta vẫn đột phát ra những ý tưởng mới, những giải pháp mới một cách tình cờ,
ngẫu nhiên. Các nhà khoa học giải thích hiện tượng này bởi cơ chế linh cảm trực giác.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng linh cảm trực giác là tính đặc thù cần quan tâm bậc nhất
khi nghiên cứu về sáng tạo. Đây là một cơ chế còn tương đối mới mẻ trong nghiên cứu,
chính vì thế luôn nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học.
Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn đã nhận xét: “Linh cảm hay trực giác, cho phép con người
suy luận đúng đắn trong một vài tình huống, khởi phát ý tưởng đột ngột mà bản thân
15
không ý thức được”. Chính thiên tài Mozart cũng đã khẳng định: mỗi tác phẩm âm nhạc
của ông đều là sự kết tinh của nguồn cảm hứng, tư duy sáng tạo và do linh tính mách bảo.
Cơ chế linh cảm trực giác đóng vai trò quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là
trong thơ ca, hội họa, âm nhạc,…
Ngày nay, cơ chế linh cảm trực giác cũng được áp dụng trong hoạt động giáo dục,

khoa học, kinh tế,…: tạo môi trường học tập tươi vui, hài hước để phát huy tối đa sức
sáng tạo cả bằng tư duy và trực cảm.
16
CHƯƠNG V. PHÂN BIỆT SÁNG TẠO VỚI TRÍ THÔNG MINH
Thông minh và sáng tạo không thể đồng nhất với nhau vì sáng tạo có sự xâm
nhập mạnh hơn của các thuộc tính tâm lý khác như ý chí, xúc cảm, động cơ. Sự
sáng tạo và thông minh không thể hoàn toàn tương đồng, ngang bằng nhau ở một
con người.
Thông minh là một phần quan trọng của trí tuệ, cho phép con người nhận
thức thế giới ngày càng sâu sắc, đầy đủ, hoàn thiện và toàn diện. Trí thông minh có
thể tạo ra các sản phẩm khá đặc biệt, nhưng phát minh cụ thể là các quy luật của sự
vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh có sẵn. Sáng tạo là thành phần quan
trọng khác của trí tuệ tạo ra những phát minh này là những sáng chế, cải tiến, sáng
tác tức là tìm ra những cái mới ma trước đó chưa xuất hiện, thậm chí là chưa có.
Sản phẩm sáng tạo này có thể là các sáng tác thuộc lĩnh vực khoa học - xã hội,
nghệ thuật và là phát minh. Tính sáng tạo có thể giúp con người cải tạo thế giới
khách quan và qua đó phát triển ngày càng thích ứng, hòa nhập với cuộc sống và
phát triển cuộc sống. điều đó chứng minh rằng sáng tạo là cái đặc trưng cho con
người.
Ví dụ như Einstein đã phát minh ra thuyết tương đối khi ông đã tự hỏi điều
gì sẽ xảy ra khi một vật chuyển động gần với tốc độ ánh sáng. Khi ở trạng thái tư
duy cực điểm, những thiên tài sáng tạo thường trả lời những câu hỏi: ai, cái gì, tại
sao, ở đâu,… Điểm đặc biệt khi họ trả lời những câu hỏi đó là họ tìm hiểu xem
điều gì sẽ xảy ra khi sự vật hoặc hiện tượng đạt tới trạng thái cực điểm.
Họ còn tạo dựng quan hệ giữa những sinh vật hoặc sự kiện chẳng có một
chút quan hệ nào. Archimedes đã tìm ra định luật archimedes khi ông đứng tắm
trong bồn tắm và đầu thì đang nghĩ đến cách cân được vàng cho vua. Nhưng người
có trí thông minh cao hay các nhà thiên tài cũng đã tìm cách bẽ gãy chuỗi ý tưởng
để tìm ra những ý tưởng sáng tạo đột phá. Như ta có một chuỗi ý tưởng gọi là
chuỗi (1):du lịch – bờ biển – kì nghỉ hè – khách sạn. Ta có chuỗi (2): quan tòa –

luật sư – tội phạm – trại giam. Ta thu nối một ý tưởng bất kì của chuỗi (1) với một
ý tưởng khác của chuỗi (2). Vi dụ như: du lịch với trại giam, lúc đó ta sẽ có ý
tưởng: tổ chức toa du lịch qua các nhà tù của những tên tội phạm khét tiếng trên
17
thế giới,vvv… Chỉ với hai chuỗi ý tưởng thật đơn giản chúng ta có thể có tới
4x4=16 ý tưởng sáng tạo.
Sản phẩm của trí thông minh là phát minh có thể tồn tại rất lâu dài thậm chí
tồn tại vĩnh viễn. Nhưng sáng chế, sản phẩm của sáng tạo, thì rất nhanh được cải
tiến nâng cao để đi tới sáng chế mới. “nếu phát minh hình như là mắt thần sáng
chiếu vào thế giới thì sáng tạo, sáng chế đượcc ví như những bánh xe đưa cỗ xe
nhân loại tiến về phía trước, phía tương lai của con người”.
Một vài nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ giữa sáng tạo và trí thông minh
nhưng tương quan giữa chúng không thật sự cao. Tuy vậy những trẻ có trí sáng tạo
cao thường có trí thông minh cao, từ ngưỡng trung bình trở lên. Trong khi những
trẻ có trí thông minh cao thi chưa hẳn có trí sáng tạo cao.
Robert Sternberg xác định sáu đặc điểm liên quan đến tính sáng tạo từ danh
mục 131 đặc điểm do những người dân thường và các giáo sư trong các ngành
nghệ thuật, khoa học và kinh doanh cung cấp: (1) không theo quy ước, (2) thông
minh; (3) trí tưởng tượng và đầu óc thẩm mỹ, (4) mềm dẻo và các kỹ năng ra quyết
định, (5) mạch lạc (trong khi chất vấn các chuẩn xã hội) và (6) khả năng hoàn
thành và công nhận. Ông cũng thực hiện những sự phân biệt quan trọng giữa tính
sáng tạo, trí thông minh, và sự thông thái. Mặc dù chúng là các phạm trù khá tách
biệt, nhưng chúng là các cấu trúc có liên hệ với nhau. Thông thái có quan hệ với trí
thông minh rõ ràng hơn tính sáng tạo, nhưng khác với trí thông minh ở chỗ nó
nhấn mạnh vào việc đánh giá chín chắn và vào việc sử dụng kinh nghiệm trong các
tình huống khó khăn. Sáng tạo chồng chéo với trí thông minh nhiều hơn với thông
thái, nhưng nó bao gồm trí tưởng tượng và các phương pháp không theo quy ước
nhiều hơn. Trí thông minh xử lý các cấu trúc logic và phân tích.
Theo Carl Rogers, bản chất của tính sáng tạo là sự mới mẻ và do đó chúng ta
không có tiêu chí để đánh giá nó. Trong thực tế, sản phẩm càng độc đáo bao nhiêu,

thì nó càng có xu hướng bị những người đương thời đánh giá là ngu ngốc bấy
nhiêu. Cá nhân sáng tạo ra lúc đầu bởi vì sáng tạo là một cách tự thỏa mãn và bởi
vì hành vi hay sản phẩm có tính tự hiện thực. (Đây là khía cạnh con người của sáng
tạo, mặc dù quá trình và trí tuệ tham gia vào trong khi sáng tạo về bản chất có tính
nhận thức).
18
CHƯƠNG VI.
Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO
Hoạt đông sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống vật chất và tinh thần
của con người:
Nó vừa là nhu cầu, vừa tạo ra những giá trị thỏa mãn nhu cầu con người. Sáng tạo
là nhu cầu cần thiết của con người, mỗi con người ai cũng có xu hướng sáng tạo, thích
khám phá và tìm ra cái mới lạ nhất. Và cũng vì thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người mà con người đã phải sáng tạo ra nhiều phát minh, vật dụng mới, ví
dụ: tạo ra máy kéo sợi, máy hơi nước, xe hơi, máy bay tạo ra máy quay phim, máy hát,
máy vi tính, tất cả đều nhàm thỏa mãn nhu cầu sử dụng của con người. con người càng
có nhiều đòi hỏi sức sáng tạo càng tăng lên.
Tạo ra những giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần có ý nghĩa đối với cá nhân và xã
hội. Sản phẩm của sáng tạo có thể chỉ có ích cho bản thân nhưng cũng có thể mang lại lợi
ích cho toàn xã hội. Ví dụ: khi mình sáng tạo ra một phương pháp học tập mới có thể
nâng cao chất lượng học tập, có ích cho bản than. Nhưng với các nhà thiên tài như
Edixon thì nhưng sáng tạo của ông ấy đem lại những thay đổi lớn cho toàn nhân loại.
Nó vừa là sản phẩm vừa là cơ chế của sự phát triển xã hội. Có sáng tạo ra cái mới
thì xã hội mới có thể đi lên và phát triển. Mà sự phát triển của xã hội bắt buộc phải có
sáng tạo. Ngày càng có hàng ngàn công ty, doanh nghiệp, tập đoàn kinh doanh trong
nhiều lĩnh vực, mỗi công ty cần phải có phương thức làm ăn, sản phẩm, bao bì, tiếp thị
khác biệt thì mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường làm ăn khốc liệt ngày nay.
Do đó sự sáng tạo là rất cần thiết và có chỗ để phát huy cao nhất.
Sức sáng tạo của con người quy định về quan hệ sản xuất, và trình độ phát triển
của phương thức sản xuất. Có thể nói đến một ví dụ rõ ràng đó là sự phát triển của công

cụ lao động: nhờ sáng tạo, con người nguyên thủy đã phát hiện ra đá có thể là một công
cụ lao động. Tiếp theo là sự phát hiện ra đồng, sắt. Và hiện nay nhờ năng lực sáng tạo mà
con người có những công cụ lao động bằng những máy móc hiện đại hạn chế được sức
người và đem lại hiệu quả lao động cao, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Giúp con người giải phóng chính mình và nâng cao năng xuất , hiệu quả lao động.
Ngay tại đất nước ta ngày nay còn rất ít hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau” nữa,
mà ngày càng nhiều người nông dân sử dụng những máy móc hiện đại, cùng những công
nghệ tiên tiến để có những vụ mùa bội thu mà tốn ít sức người nhất. Tất cả đều là sản
phẩm của sự sáng tạo không ngừng của những nhà khoa học.
19
Hoạt động sáng tạo tạo ra sự phát triển toàn diện của xã hội, tạo ra sự thay đổi từ
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, chuyển xã hội từ nấc thang này sang nấc thang khác
trong sự phát triển. Sáng tạo có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của nhân loại, đưa thế
giới bước đến kỉ nguyên của sự tiên nghi và hiện đại.
20
CHƯƠNG VII.
TÍNH Ỳ TÂM LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO
Tính ỳ là một thuộc tính nhất định của một hệ thống, một sự vật. Tính ỳ là yếu tố
trì nặng làm giảm sức hoạt động hoặc chuyển động của một hệ, một sự vật hay một
người. Tính ỳ tâm lí là một thuộc tính trong cá nhân, làm cho hoạt động của cá nhân thiếu
tính linh hoạt, sáng tạo, cản trở quá trình tư duy sáng tạo và đổi mới. Khi đã định hình, nó
có thể trở nên vô cùng vững chắc.
Tính ỳ tâm lý được phân thành hai loại: tính ỳ thừa và tính ỳ thiếu.
1. Tính ỳ thừa:
Ví dụ: Một con hổ ăn hết một con cừu trong vòng 2 ngày. Hỏi hai con hổ cùng ăn
một con cừu thì sẽ mất bao nhiêu ngày? Nếu áp dụng theo nguyên tắc tam suất thông
thường, câu trả lời có thể là 1 ngày. Tuy nhiên, nếu xét kĩ, ta thấy nếu hai con hổ cùng ăn
một con cừu thì chắc chắn sẽ có tranh chấp giữa hai con, vì thế thời gian ăn xong là
không thể xác định. Chính sự áp dụng quy tắc tam suất máy móc ở đây đã làm hạn chế
khả năng mở rộng suy luận vấn đề để tìm ra những phương án mới mẻ.

Tính ỳ thừa được hiểu là sự vận dụng các quy tắc, định luật một cách quá mức,
quá phạm vi cho phép (vượt quá phạm vi ứng dụng). Một nguyên do khác là việc suy
nghĩ một cách quán tính, lập luận theo kiểu lối mòn, đường mòn khi nhận thức hay giải
quyết vấn đề cũng gây nên tính ỳ này. Bất kì một kiến thức, lý thuyết nào cũng có phạm
vi áp dụng nhất định của nó, được ràng buộc trong các điều kiện không gian, thời gian,
hoàn cảnh cụ thể,…
Tính ỳ thừa được giải quyết bằng kĩ thuật “đặt khung”, vận dụng đúng các quy
tắc, định luật trong những hoàn cảnh, tình huống phù hợp và sáng tạo vẫn phải gắn liền
với áp dụng thực tế.
2. Tính ỳ thiếu:
Ví dụ: Câu chuyện “đi thang máy lạ đời”. Ông A sống trong một căn hộ ở tầng 10
của một khu chung cư. Ông rất ghét đi cầu thang bộ nên luôn luôn sử dụng thang máy.
Tuy nhiên, khi đi từ căn hộ xuống tầng trệt thì ông sử dụng thang máy để đi suốt nhưng
khi đi lên, ông thường chỉ đi đến tầng 7 rồi bước ra đi thang bộ lên căn hộ mình. Vào
21
những ngày trời mưa, ông A dùng thang máy đi thẳng lên tầng 10 chứ không dừng ở tầng
7 như mọi khi. Tại sao?
Một số người cho rằng, ông cố tình đi bộ 3 tầng cho “giãn gân cốt”, tuy nhiên điều
này lại mâu thuẫn với giả thiết ông A rất ghét đi thang bộ. Có ý kiến còn cho rằng, ông A
dừng ở tầng 7 để gánh nước lên hay vì tầng 7 có…cô nào đang chờ! Câu trả lời đúng lại
rất đơn giản: ông A quá thấp nên chỉ có thể với lên tối đa để nhấn số 7, vào ngày mưa thì
ông có cầm thêm cây dù nên có thể với tới được số 10. Đó là tính ỳ tâm lí thiếu.
Tính ỳ tâm lí thiếu xảy ra do con người không bao quát vấn đề, không hình dung
được hết khả năng có thể xảy ra, không suy luận rộng và đủ chi tiết để giải quyết vấn đề
một cách hiệu quả nên đã tự đặt ra những “giới hạn” làm cản trở quá trình sáng tạo của
bản thân.
Nguyên nhân của tính ỳ tâm lí thiếu là do chủ thể suy nghĩ cứng nhắc, không phân
tích kĩ lưỡng hoặc có sự suy luận quán tính, không chấp nhận những lời giải sáng tạo.
Mỗi một sự vật, hiện tượng có thể có nhiều tính chất, chức năng, hình thức nhưng do việc
thường xuyên tiếp xúc, chủ thể thường có những suy nghĩ chủ quan, chỉ chú ý một vài

tính chất, chức năng,… mà bỏ qua thông tin khóa.
Có khá nhiều loại tính ỳ thiếu, phổ biến nhất là ỳ thiếu ngôn ngữ và ý thiếu chức
năng, đồ vật:
- Ỳ thiếu ngôn ngữ: những “giới hạn” trên làm hạn chế khả năng suy luận ngôn
ngữ.
- Ỳ thiếu chức năng, đồ vật:
Ví dụ: Ba bóng đèn điện trong phòng và ba công tắc tương ứng đặt ở bên ngoài
(nơi không thể nhìn thấy trong phòng). Ban đầu ba bóng đèn đều tắt. Làm thế nào để xác
định công tắc nào nếu chỉ được phép vào phòng một lần để kiểm tra. Để giải quyết được
tình huống này, ta phải nhận định rõ: “Tại sao chúng ta chỉ gắn liền bóng đèn với thị
giác?” Khi tiếp cận đồ vật, những yếu tố trực quan của đồ vật (thường là nổi bật) và
những kinh nghiệm tiếp xúc làm cho chủ thể bị giới hạn trong suy luận.
Lời giải của câu đố trên là: bật hai công tắc, đợi một chút rồi tắt bớt một cái. Đi
vào phòng kiểm tra, bóng đang sáng ứng với công tắc đang mở, bóng hơi ấm tương ứng
với bóng vừa tắt, còn lại tương ứng với công tắc đang đóng.
Cách giải quyết cho tính ỳ này là suy nghĩ và hành động theo những quy luật
khách quan, toàn diện, tránh duy ý chí (phương pháp công não). Cần nhận rõ những kinh
22
nghiệm bao gồm nội dung, phương pháp, kĩ thuật cũ đã biết,… đang ngự trị để tìm cách
vượt ra khỏi vòng ảnh hưởng của chúng.
23
CHƯƠNG VIII.
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP SUY LUẬN SÁNG TẠO
Có rất nhiều phương pháp suy luận sáng tạo thường được sử dụng hiện nay, giúp
ích không nhỏ cho quá trình tư duy sáng tạo, có thể kể đến như:
• Phương pháp công não (Alex Osborn) => Phương pháp METAPLAN
• Phương pháp “Sáu chiếc mũ tư duy” (Edward de Bono)
• Phương pháp giản đồ ý/ bản đồ tư duy
• Phương pháp DOIT – Sáng tạo theo quy trình (Robert Obon)
• …

1. Phương pháp công não:
Đây là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải đáp sáng tạo cho một vấn
đề (bằng cách phân tích vấn đề từ nhiều góc nhìn). Bao gồm các thủ thuật: kết hợp, tự
phục vụ, dự phòng, phân nhỏ, phẩm chất cục bộ, tách khỏi,…
Hoạt động:
− Tập trung suy nghĩ về vấn đề (nhìn vấn đề từ nhiều phương diện, khía cạnh).
− Nêu ý kiến một cách phóng khoáng, ngẫu nhiên (càng đa dạng, càng đầy đủ càng
tốt).
− Các ý kiến được phân nhóm, đánh giá và tổng hợp thành các giải pháp cho vấn đề
đã nêu.
Một số lưu ý khi sử dụng:
− Xác định rõ ràng, chuẩn mực vấn đề.
− Tập trung vào vấn đề khi tham gia vào quá trình tập kích não.
− Thu nhận tất cả mọi ý kiến, quan niệm, phát biểu bằng thái độ khách quan và tôn
trọng.
24
− Khích lệ, động viên mọi người đưa ra ý kiến, quan niệm, phát biểu của mình.
Ưu điểm:
− Phần nào giúp khắc phục tính ỳ tâm lý.
− Đánh giá vấn đề một cách toàn diện, giải quyết sáng tạo.
− Nâng cao khả năng làm việc nhóm.
− Dễ thực hiện, mức độ ứng dụng cao.
Hạn chế:
− Không thể dùng để giải quyết các vấn đề quá phức tạp.
− Đòi hỏi sự tập trung cao độ.
− Có cách nhìn nhận vấn đề đa diện, nhiều chiều.
− Dám chấp nhận thử thách đối vối các ý kiến mới.
2. Phương pháp “Sáu chiếc mũ tư duy”:
Phương pháp “Sáu chiếc mũ tư duy” là một công cụ giúp bạn nhìn một vấn đề
dưới sáu góc độ, đổi mới những cách nhìn cũ, là cơ sở tư duy quan trọng cho sự sáng tạo.

Phương pháp này làm cho các cuộc họp trở nên hiệu quả hoặc dùng trong giải quyết vấn
đề nhiều mâu thuẫn. Đây cũng là một công cụ giúp cho cá nhân hoặc nhóm phát triển.
Mỗi chiếc nón sẽ mang một đặc tính khác nhau trong tư duy. Trình tự áp dụng các
mũ sẽ tự do, linh động tùy thuộc đặc trưng công việc, đặc tính cá nhân, nhóm, tổ chức,…
Mỗi khi áp dụng một mũ, tất cả mọi người cùng suy nghĩ, suy xét vấn đề theo đúng đặc
tính đó, cụ thể là:
− Mũ trắng: Suy nghĩ mang tính khách quan, góc nhìn trung tính chỉ dựa trên thực
tế, số liệu và thông tin. Tập trung phân tích trên cơ sở dữ liệu quá khứ.
− Mũ đỏ: Nhìn sự việc theo cảm xúc và trực giác chủ quan. Mũ trắng cho phép nghi
ngờ và phán xét mà không cần chứng minh, giải thích.
− Mũ đen: Nhìn theo khía cạnh tiêu cực, các rủi ro và suy nghĩ tại sao sự việc lại
không thực hiện được hoặc sai. Dùng mũ này với góc nhìn cẩn trọng và phê phán
những điểm không tốt hoặc không thể thực hiện.
25
− Mũ vàng: Suy nghĩ dưới góc nhìn tích cực của sự việc. Hướng về các lợi ích sẽ
được và nhất là các thành tích đã có.
− Mũ lục: Nhìn theo khía cạnh sáng tạo của sự việc, các khả năng khác có thể xảy
ra, giải pháp mới, giả thuyết mới.
− Mũ xanh dương: Suy nghĩ về hướng điều khiển, chi phối quá trình, các bước, tổ
chức lãnh đạo, suy nghĩ về các suy nghĩ hay kết luận.
3. Phương pháp giản đồ ý:
Là phương pháp dùng hình ảnh của sơ đồ, lược đồ để xâu chuỗi các thông tin theo
một kết cấu nhất định nhằm nhìn nhận, giải quyết vấn đề theo hướng sáng tạo một cách
gọn gàng, khoa học. Đây là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình
ảnh của bộ não, phát huy sự vận động của cả hai bán cầu não.
Đặc điểm:
− Đòi hỏi khả năng tổ chức và lưu giữ thong tin dưới dạng hình ảnh và kết cấu hình
ảnh theo một trình tự.
− Chủ yếu sử dụng mạng sơ đồ để lưu giữ các thông tin.
− Được kết cấu theo nhiều hình thức: sơ đồ trục, sơ đồ mạng, tìm nhánh từ gốc.

Cách tiến hành:
− Xác định gốc.
− Chọn lựa hình thức mạng.
− Phân nhánh ý tưởng từ khái quát đến cụ thể, chi tiết.
− Kiểm tra, làm gọn, hoàn thiện.
4. Phương pháp DOIT:
Là phương pháp để gói gọn, hay kết hợp, các phương pháp tư duy sáng tạo lại với
nhau (dựa trên việc đánh giá, so sánh các giải pháp) để hướng đến giải pháp (kỹ thuật
sáng tạo) hữu hiệu nhất. Chữ DOIT là chữ viết tắt trong tiếng Anh bao gồm:
D - Define problem: Xác định vấn đề
O- Open mind and Apply creative techniques: Cởi mở ý tưởng và Áp dụng các kỹ
thuật sáng tạo
I – Identify the best solution: Xác định lời giải đáp tốt nhất
T- Transform: Chuyển đổi

×