Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tăng cường quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 117 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN TUYẾT MAI



TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI






LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG







HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN TUYẾT MAI




TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NỢ THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành : Tài chính và Ngân hàng
Mã số : 60 34 20 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Đức Sơn




HÀ NỘI – 2014
MỤC LỤC
Trang
Danh mục ký hiệu viết tắt i

Danh mục các bảng ii
Danh mục các hình vẽ iii
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ 5
1.1. Nhƣng nội dung lý luận cơ bản về Thuế 5
1.1.1. Khái niệm về Thuế 5
1.1.2. Đặc điểm của thuế 6
1.1.3. Vai trò của Thuế 8
1.1.4. Các loại thuế hiện hành tại Việt Nam 11
1.2. Tổng quan về quản lý nợ thuế 12
1.2.1. Khái niệm nợ thuế và nguyên nhân nợ thuế 12
1.2.2. Nguyên nhân nợ thuế và những tác động của nợ thuế 15
1.2.3. Phân loại nợ thuế 16
1.2.4. Tổng quan về quản lý nợ thuế 19
1.2.5. Nội dung quy trình quản lý nợ 22
1.3 Mối quan hệ giữa cƣỡng chế nợ thuế và quản lý nợ thuế 27
1.3.1. Khái niệm cưỡng chế nợ thuế 27
1.3.2. Đặc điểm của cưỡng chế nợ thuế 28
1.3.3. Vai trò và yêu cầu của công tác cưỡng chế nợ thuế 28
1.3.4. Mối quan hệ giữa quản lý nợ và cưỡng chế thuế 31
1.4 Những yếu tố ảnh hƣởng đến công tác quản lý nợ thuế 32
1.5. Các chỉ tiêu để đánh giá công tác quản lý nợ 34
1.5.1. Các chỉ tiêu định lượng 34
1.5.2. Các chỉ tiêu định tính 37
1.6. Kinh nghiệm quản lý nợ của một số nƣớc trên thế giới và bài học với Việt Nam 37
1.6.1. Kinh nghiệm của Malaysia 37
1.6.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản 38
1.6.3. Kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam 39
Chƣơng 2 – THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ TRÊN ĐỊA BÀN TP
HÀ NỘI THỜI GIAN QUA 40

2.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội và cơ cấu tổ chức của Cục thuế
Thành phố Hà Nội 40
2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội 40
2.1.2 Cơ cấu tổ chức Cục thuế Thành phố Hà Nội 41
2.2 Thực trạng công tác quản lý nợ thuế ở Cục thuế Hà Nội thời gian qua 43
2.2.1 Thực trạng công tác quản lý nợ thuế 43
2.2.2 Đánh giá chung về công tác quản lý nợ thuế ở Cục thuế Hà Nội thời gian qua 74
3.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội 86
3.2 Quan điểm đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nợ thuế trên địa bàn Thành
phố Hà Nội 87
3.3 Giải pháp tăng cường quản lý nợ thuế trên địa bàn Thành phố Hà Nội 89
3.3.1 Nhóm giải pháp về công tác quản lý 89
3.3.2 Nhóm giải pháp về chính sách pháp luật 95
3.3.3. Nhóm giải pháp điều kiện 102
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108



i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu viết tắt
Nội dung
1.
NSNN
Ngân sách nhà nước
2.
TNDN

Thuế thu nhập doanh nghiệp
3.
GTGT
Thuế giá trị gia tăng
4.
NNT
Người nộp thuế
5.
ĐTNT
Đối tượng nộp thuế
6.
CQT
Cơ quan thuế
7.
DN
Doanh nghiệp
8.
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
9.
NQD
Ngoài quốc doanh
10.
QLN
Quản lý nợ
11.
CCNT
Cưỡng chế nợ thuế
12.
CNTT

Công nghệ thông tin
13.
VNTTNT
Văn hoá thể thao nghệ thuật
14.
NH
Ngân hàng
15.
BH
Bảo hiểm
16.
NHTM
Ngân hàng thương mại
ii
17.
KBNN
Kho bạc Nhà nước
18.
KTT
Kiểm tra thuế
19.
KK & KTT
Kê khai và Kế toán thuế








iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT
Nội dung
Trang
1
2.1 Tình hình nợ thuế lũy kế qua các năm
44
2
2.2 Số liệu nợ thuế theo nhóm phòng kiểm tra thuế
49
3
2.3 Tỷ lệ nợ thuế qua các năm phân loại theo tính chất nợ
55
4
2.4 Số lượng các biện pháp đôn đốc thu nợ đã thực hiện
63
5
2.5 Số liệu nợ thuế chi tiết theo tuổi nợ
65
6
2.6 Cơ cấu nợ thuế theo tuổi nợ
66
7
2.7 Số liệu nợ thuế chi tiết theo mức nợ
69
8
2.8 Cơ cấu nợ thuế chi tiết theo mức nợ
70

9
2.9 Số liệu nợ thuế chi tiết theo sắc thuế
72


iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

STT
Nội dung
Trang
1
2.1 Cơ cấu tổ chức Cục thuế Hà Nội
42

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Như chúng ta đã biết, thuế luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi Nhà
nước. Thuế là một công cụ tài chính quan trọng không chỉ thể hiện ở việc tạo nguồn
thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước, mà thuế còn là một công cụ hữu hiệu để Nhà
nước tiến hành điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện
công bằng xã hội trong phân phối. Tuy nhiên, đặc điểm của thuế là không hoàn trả
trực tiếp, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá. Vì
vậy, một số tổ chức, cá nhân vẫn còn tâm lý muốn chậm chễ, chiếm dụng tiền thuế
làm phát sinh số thuế nợ đọng. Ngoài ra, một số ĐTNT do khó khăn về tài chính,
những rủi ro hoặc sự cố bất thường gây ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế cũng làm
phát sinh nợ đọng thuế. Nợ đọng thuế là hiện tượng phổ biến và luôn gắn liền với
việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Nợ đọng thuế là phổ biến, song nếu như số nợ đọng thuế là lớn và thường

xuyên thì sẽ có tác động không nhỏ tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, làm giảm vai trò của đất nước trong việc động viên nguồn thu
cho NSNN. Nợ thuế cao cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả, hiệu lực của chính sách
cũng như công tác quản lý của CQT. Do vậy, việc đẩy mạnh công tác quản lý nợ
thuế, hạn chế đến mức thấp nhất nợ đọng thuế là một trong những mục đích quan
trọng của ngành thuế.
Quản lý nợ thuế là một khâu quan trọng trong hệ thống quản lý thuế, là một
trong những chức năng chính của mô hình quản lý thuế theo chức năng trong cơ chế
tự khai - tự nộp. Quản lý được nợ đọng và kết quả đem lại từ việc đôn đốc thu nợ và
cưỡng chế thuế là một trong những thước đo cơ bản để đánh giá chất lượng và hiệu
quả công tác quản lý thuế.
Việc triển khai thực hiện Luật quản lý thuế đã tạo cơ sở pháp lý để đổi mới
công tác quản lý nợ thuế; ngược lại việc quản lý nợ đọng tốt lại có tác động to lớn
với công tác quản lý thuế nói chung, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả từ phía ĐTNT
và CQT.
2
Do đó, việc tăng cường công tác quản lý nợ thuế có ý nghĩa vô cùng quan
trọng không chỉ với việc giảm số thuế nợ đọng, tăng thu cho NSNN mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong công tác quản lý thuế nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý nợ thuế nên tôi đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài “Tăng cường Quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà
Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số đề tài khoa học, luận văn và cả
công trình nghiên cứu của một số tác giả đề cập đến vấn đề này ở nhiều khía cạnh
và phạm vi khác nhau. Tuy nhiên các đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý
nợ thuế, quy trình quản lý nợ thuế nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đồng
cấp nghiên cứu tăng cường quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chính vì
vậy trên cơ sở nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn công
tác quản lý nợ thuế tại Cục thuế TP Hà Nội, luận văn tập trung và nghiên cứu các

vấn đề: lý luận cơ bản về quản lý nợ ; Phân tích thực trạng về hoạt động quản lý nợ
thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội; Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng
cường hoạt động quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đề xuất những giải pháp nhằm đổi mới và hoàn
thiện hoạt động quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Vận dụng lý luận về thuế, quản lý nợ thuế để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt
động quản lý nợ thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Phân tích thực trạng công tác quản lý nợ tại Cục thuế TP Hà Nội, những mặt
tích cực cũng như những hạn chế trong công tác quản lý nợ, cưỡng chế thuế tại Cục
thuế TP Hà Nội thời gian qua, phân tích, đánh giá nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó.
3
Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cụ thể của nó để đề xuất
những định hướng, giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý nợ thuế tại
Cục thuế TP Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu vào các vấn đề lý luận và thực trạng công tác quản lý
nợ thuế đối với các ĐTNT tại Cục thuế TP Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài không bao gồm công tác quản lý nợ thuế tại
các Chi cục thuế trực thuộc Cục thuế TP Hà Nội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: phương pháp
phân tích, phương pháp biện chứng duy vật phương pháp hệ thống hóa, phương pháp
thống kê, phương pháp so sánh và phương pháp luận giải, phương pháp thực nghiệm,

phương pháp diễn giải và quy nạp
Đề tài đã khảo sát, đánh giá thực trạng nợ thuế và công tác quản lý nợ thuế
tại Cục thuế TP Hà Nội, chỉ ra những thành tích đã đạt được và những tồn tại, hạn
chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nợ thuế tại Cục
thuế TP Hà Nội thời gian qua. Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm tăng
cường hơn nữa công tác quản lý nợ thuế tại địa bàn Hà Nội.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ lý luận về thuế và quản lý nợ thuế, vai trò
của quản lý nợ thuế đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nợ thuế, chỉ ra được những kết quả
đạt được, hạn chế và nguyên nhân của nó trong công tác quản lý thu thuế trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường hoạt động quản lý nợ
thuế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về thuế và quản lý nợ thuế
Chương II: Thực trạng công tác quản lý nợ trên địa bàn Thành phố Hà Nội
thời gian qua
Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý nợ thuế trên địa bàn Thành Phố
Hà Nội
5
Chƣơng 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ
1.1. Nhƣng nội dung lý luận cơ bản về Thuế
1.1.1. Khái niệm về Thuế
Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức
phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình
thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho

việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà
mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước
sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm
của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của
thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh
tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế
phải nêu bật được các khía cạnh sau đây:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà
nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc
do quyền lực của Nhà nước chi phối;
- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế
đã được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chi tiêu công.
Dựa vào các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra khái niệm tổng quát về thuế phù
hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt
6
buộc phải thực hiện theo luật định của Nhà nước; không mang tính chất đối khoản,
không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu
chi tiêu công cộng.
1.1.2. Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu
trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng

để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy
nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều
này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong kinh tế thị trường như sau:
1.1.2.1. Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc,
thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng
hiện vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền
kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là sự khác biệt cơ bản
và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế trong các nền kinh tế khác.
Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát
triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người nộp thuế trong
trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để
thanh toán nợ thuế.
Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi
trong hệ thống chính sách thuế đương đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình thức
này dưới dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy, như khi đào
được cổ vật phải nộp thuế cho nhà nước với một tỷ lệ hiện vật tùy theo quy định cụ
thể. Kỹ thuật này giúp Nhà nước sưu tập được những di sản quốc gia quý giá từ dân
chúng để bảo tồn tập trung những giá trị văn hoá của dân tộc, nhân loại.
1.1.2.2. Luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản
của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia. Việc
7
ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ
quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao.
Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện
thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được
xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. Ở
các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách nhà

nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy
định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm
được ghi nhận trong pháp luật của các nước.
Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối nộp thuế, cũng không
có quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp
hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế nào cố tình không chấp hành sẽ bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để buộc họ phải
làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo luật định.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình
thức động viên tài chính khác cho ngân sách nhà nước.
1.1.2.3. Luôn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu
thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân,
mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao
bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những
quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào đều
buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mình ra thanh toán cho Nhà
nước mà không cần biết mình đã chuẩn bị được khoản thu nhập đó hay chưa.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự
nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối
với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
1.1.2.4. Không hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng
Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh:
8
Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối
giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ cung cấp. Vì vậy, người nộp
thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách viện cớ là Nhà
nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. Họ cũng không thể đòi hỏi số tiền thuế
do họ nộp phải phân bổ cho dịch vụ công này hay hoạt động khác. Mặt khác, họ
cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do số thuế thu được tài trợ cho các khoản chi

tiêu trái với những nguyên tắc của nó.
Thứ hai, Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được dùng phục vụ
trực tiếp cho người nộp thuế. nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội
chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa
hưởng những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp
thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực
tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần
các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần
giá trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản
thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế
với các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Khái niệm chi tiêu công cộng ngày nay không chỉ được hiểu theo nghĩa bó
hẹp trong các khoản chi tiêu cho việc duy trì bộ máy nhà nước. Trên thực tế, Nhà
nước hiện nay còn thực hiện nhiều chức năng kinh tế, xã hội, văn hoá và tất yếu
các hoạt động này cũng chỉ được chi trả bằng thuế.
1.1.3. Vai trò của Thuế
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với NSNN và đời
sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung
được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước
và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua
việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ
quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể,
9
các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các
chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố
quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những
điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự

thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai
trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế
được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
1.1.3.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách hình
thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công cộng, đó là
ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác
nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công cộng. Trong tất cả
các nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số thu
ngân sách nhà nước. Đây là nguồn thu ổn định nhất được kế hoạch hoá tốt trên cơ
sở dự báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước trong một năm.
Hầu như mọi khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước đều dựa vào sự đóng thuế của
người dân. Vì vậy, xã hội có trách nhiệm phải tôn trọng người nộp thuế, những
người thông qua hành vi của mình đóng góp tài chính cho Nhà nước một cách trực
tiếp và gián tiếp.
1.1.3.2. Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch
lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày
càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của
sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp
nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ
thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân
10
cư và gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình
phân phối thu nhập, của cải của xã hội. Thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử
dụng để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện thông qua
các loại thuế gián thu và thuế trực thu, mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc
biệt. Loại thuế này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu

dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người
có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều, qua đó điều
tiết bớt một phần thu nhập của họ.
Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế
suất luỹ tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo
công bằng xã hội.
11
1.1.3.3. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất,
kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện trong quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế
trong thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của các
luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện
pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và
lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh cũng như các định mức chi
tiêu đặc thù và các phương thức hạch toán riêng có. Từ công tác thu thuế mà cơ
quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi
biện pháp tháo gỡ. Đồng thời, cũng qua công tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật
được nhiều kiến thức quản lý kinh tế để phục vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm
soát sau này. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra,
kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt
quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.3.4. Thuế góp phần thúc đẩy điều tiết sản xuất, kinh doanh phát triển
Thuế trong cơ chế thị trường không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ chức, cá nhân khi
đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất nước, họ được quyền thụ
hưởng và cung ứng những lợi ích công cộng nhất định và được tạo thuận lợi nhất
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ
trương kinh tế đất nước, mà nhà nước có thể dùng thuế để tác động, tạo thuận lợi
hơn cho hoạt động kinh doanh ở một số ngành, vùng để khuyến khích sản xuất, kinh

doanh phát triển nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn.
1.1.4. Các loại thuế hiện hành tại Việt Nam
Hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn 2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế,
phí và lệ phí chủ yếu sau đây:
(1) Thuế giá trị gia tăng;
(2) Thuế tiêu thụ đặc biệt;
12
(3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
(4) Thuế thu nhập doanh nghiệp;
(5) Thuế thu nhập cá nhân;
(6) Thuế tài nguyên;
(7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
(8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
(9) Thuế bảo vệmôi trường;
(10) Các khoản phí và lệ phí.
Chuyển thuế môn bài thành một khoản thu lệ phí quản lý hoạt động kinh
doanh hàng năm; hoàn thiện các chế độ, chính sách thu ngân sách nhà nước từ tài
nguyên, khoáng sản quốc gia như: thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu đấu
giá quyền khai thác khoáng sản và thu từ dầu khí
1.2. Tổng quan về quản lý nợ thuế
1.2.1. Khái niệm nợ thuế và nguyên nhân nợ thuế
1.2.1.1. Khái niệm nợ thuế và đặc điểm của nợ thuế
Tiền thuế nợ là các khoản tiền thuế, phí, lệ phí, phạt chậm nộp và các khoản
phải nộp khác theo quy định của pháp luật về thuế mà người nộp thuế đã kê khai, cơ
quan thuế đã tính; các cơ quan chức năng phát hiện và thông báo cho cơ quan thuế,
cơ quan thuế xác định đây là nghĩa vụ của người nộp thuế và đã thông báo cho
người nộp thuế nhưng đã hết thời hạn quy định mà chưa nộp vào NSNN. Ví dụ như,
theo Luật Quản lý thuế ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2007 thì thời hạn
nộp đối với thuế Giá trị gia tăng là ngày 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh
nghĩa vụ thuế; thuế Thu nhập doanh nghiệp tạm nộp quí là ngày 30 của tháng tiếp

theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế sau thời hạn nộp này, nếu người nộp thuế chưa
nộp thuế vào ngân sách nhà nước thì được coi là nợ thuế.
Ngƣời nợ thuế là người nộp thuế có khoản tiền thuế nợ theo quy định.
Khoản nợ là số tiền thuế nợ được xác định theo từng lần phát sinh. Chẳng
hạn như tại một thời điểm, một người nộp thuế nợ 1 tỷ đồng tiền thuế thì cơ quan
thuế có trách nhiệm xem xét số thuế nợp đó là nợ của những lần phát sinh nào, loại
13
thuế nào? Chẳng hạn như nợ 2 khoản thuế GTGT, nợ 3 khoản thuế TNDN (tạm nộp
các quý). Trên cơ sở đó, cơ quan thuế áp dụng các biện pháp thu nợ hiệu quả đảm
bảo thu đúng, thu đủ tiền thuế nợ vào ngân sách nhà nước sau khi áp dụng các biện
pháp đó.
Thực tế trong công tác quản lý thuế của cơ quan thuế hiện nay, mỗi một
khoản nợ thường sẽ có các nguồn gốc phát sinh khác nhau, có những khoản nợ do
người nộp thuế tự kê khai, người nộp thuế chậm nộp, hoặc cũng có những khoản nợ
do cơ quan có thẩm quyền ấn định, bị phạt, truy thu hoặc các khoản nợ thuế có
nguồn gốc phát sinh từ các dự án vay vốn hợp tác với nước ngoài, viện trợ không
hoàn lại Phục vụ công tác quản lý thuế, nhằm đảm bảo quản lý đúng các khoản
thuế phát sinh thì Bộ Tài chính cũng đã ban hành danh mục mục lục ngân sách nhà
nước để người nộp thuế tự kê khai nộp thuế. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế có thể
quản lý đúng, đủ các khoản thuế phát sinh một cách thuận lợi.
Tiền phạt chậm nộp thuế là khoản tiền phạt được tính trên số tiền thuế nợ
và số ngày nợ thuế của một khoản nợ.
Số ngày nợ thuế của một khoản thuế nợ là khoảng thời gian liên tục tính
theo ngày, kể từ thời điểm bắt đầu tính nợ đến thời điểm số tiền nợ đó được nộp vào
ngân sách nhà nước, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ theo Bộ Luật Lao động.
Thời điểm bắt đầu tính nợ đối với một khoản thuế nợ là ngày tiếp theo
ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Thời điểm kết thúc tính nợ đối với một khoản thuế nợ là ngày khoản nợ
được nộp vào ngân sách nhà nước; hoặc ngày có hiệu lực thi hành của văn bản xoá
nợ, miễn nộp hoặc xử lý bằng các hình thức khác.

1.2.1.2. Đặc điểm của nợ thuế
Thứ nhất, nợ thuế là một hành vi tâm lý phổ biến
Thuế là một hành vi phân phối thu nhập có tính chất bắt buộc mà người có
nghĩa vụ phải nộp cho Nhà nước. Rõ ràng, việc nộp thuế luôn ảnh hưởng đến lợi ích
kinh tế của NNT. Vì thế tâm lý trốn thuế, tránh thuế là tâm lý phổ biến của NNT. Đặc
biệt ở nước ta khi mà nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa
hiểu rõ bản chất và lợi ích của thuế, chưa phê phán, lên án mạnh mẽ các hành vi gian
14
lận tiền thuế, chưa hỗ trợ tích cực cho CQT để thu thuế. Tình trạng trốn thuế, gian lận
về thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến vừa làm thất thu cho NSNN, vừa không bảo
đảm công bằng xã hội. Hay nói cách khác, họ tìm mọi cách để tối thiểu hóa số thuế
phải nộp. Một trong những cách đó là nợ thuế. Vì thế, để hạn chế nợ thuế, bên cạnh
những biện pháp có tính chất pháp luật để cưỡng chế NNT tuân thủ thì vấn đề tuyên
truyền, phổ biến để NNT tự giác thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng.
Thứ hai, nợ thuế là hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Quy phạm pháp luật về thuế bao gồm các qui phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
vào NSNN. Qui phạm pháp luật thuế là các qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung do
Nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện có điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các chủ thể thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN.
Trong các qui định của pháp luật về thuế luôn luôn đề cập đến các phạm vi
điều chỉnh như: mức nộp thuế, ĐTNT, NNT và thời gian phải nộp thuế.
Như vậy, nợ thuế là hành vi vi phạm luật thuế của ĐTNT bằng cách chậm nộp
hoặc không nộp số tiền thuế phải nộp vào NSNN theo qui định của pháp luật thuế.
Trong luật quản lý thuế qui định mức xử phạt vi phạm về hành vi chậm nộp
tiền thuế, tiền phạt là 0,05%/ ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đó.
Thứ ba, nợ thuế chƣa hẳn là hành vi trốn thuế
Hành vi trốn thuế bao gồm: chậm nộp tiền thuế và không nộp tiền thuế.
Trốn thuế: là hành vi cố ý vi phạm luật thuế của ĐTNT bằng mọi hình thức,
thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp cho NN.

Nợ thuế có thể do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan. Về chủ
quan, do NNT cố tình vi phạm nhằm chậm nộp tiền thuế vào NSNN để lợi dụng
hoặc trốn thuế. Như vậy, trong trường hợp này, nợ thuế là hành vi vi phạm pháp
luật, phát sinh do ĐTNT không tự giác kê khai, nộp thuế đúng hạn và cố tình vi
phạm pháp luật. Về khách quan, do có khó khăn về SXKD hoặc thu nhập chẳng hạn
như: khủng hoảng kinh tế, lạm phát… mà NNT tạm thời không có khả năng để
thanh toán nghĩa vụ cho NSNN.
15
Thứ tƣ, nợ thuế khác với hành vi tránh thuế
Tránh thuế là hành vi lợi dụng những sơ hở của pháp luật đề giảm được 1
phần nghĩa vụ thuế phải nộp. Ví dụ: doanh nghiệp kê khai chi phí thuê bản quyền
sáng chế, nhãn mác cao hơn giá trị thị trường của nó để tăng chi phí đầu vào, hạ
thấp TNCT.
Còn nợ thuế thì hoàn toàn khác về bản chất. Đó là một nghĩa vụ đã được luật
pháp xác định nhưng cố tình hoặc dây dưa nộp chậm.
1.2.2. Nguyên nhân nợ thuế và những tác động của nợ thuế
1.2.2.1. Nguyên nhân nợ thuế
Nợ thuế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có thể khái quát
một số nhóm nguyên nhân chủ yếu sau:
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Khủng hoảng tài chính, lạm phát, giá cả tăng cao, chính sách quản lý của
Nhà nước thay đổi
Ví dụ như những năm gần đây do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên
nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn, không có tiền nộp thuế. Riêng doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, dù đã hoàn thành công trình nhưng
không được giải ngân kịp thời dẫn đến nợ thuế. Mặt khác, ngân hàng đang siết chặt
việc cho vay khiến không ít doanh nghiệp không tiếp cận được vốn để phục hồi sản
xuất kinh doanh. Hoặc về chính sách thuế hiện nay đang áp dụng tỷ lệ tính phạt
chậm nộp 0,05%/ngày và 0,07%/ngày, tỷ lệ này thấp hơn lãi suất ngân hàng nên
doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận nộp phạt để chiếm dụng tiền thuế…

Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, đại bộ phận người dân chưa phê phán và lên án mạnh mẽ các hành
vi gian lận tiền thuế, chưa hỗ trợ, phối hợp với CQT để thu thuế vào NSNN. Do đó,
tình trạng trốn thuế, gian lận thuế, chiếm dụng tiền thuế của NSNN còn xảy ra phổ
biến, vừa làm thất thu NSNN, vừa không đảm bảo công bằng giữa các ĐTNT.
Thứ hai, do ý thức chấp hành luật thuế của một bộ phận NNT còn hạn chế,
chưa tự giác nộp thuế, cố tình dây dưa, trây ỳ, chiếm dụng tiền thuế của NSNN để
thực hiện những mục đích khác.
16
Thứ ba, Do một số doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính, sản xuất kinh
doanh thua lỗ nhiều năm nên không có nguồn lực để nộp thuế, dẫn đến nợ thuế kéo
dài nhiều năm.
Thứ tư, NNT từ trước đã quen với việc đôn đốc, ra thông báo nộp thuế của
CQT. Vì vậy nhiều ĐTNT chưa hình thành thói quen tự giác nộp thuế vào NSNN
khi chuyển sang cơ chế tự khai, tự nộp.
1.2.2.2. Những tác động của nợ thuế
Nợ thuế không những có tác động nghiêm trọng với công tác quản lý thuế
mà còn có tác động nghiêm trọng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Những
tác động đó có thể khái quát trên một số mặt sau:
Thứ nhất, Nợ thuế gây thất thu cho NSNN. Thuế là nguồn thu chủ yếu của
NSNN. Yêu cầu đối với quản lý thuế là phải thu đúng, thu đủ và thu kịp thời số thuế
phải nộp vào NSNN để Nhà nước có đủ nguồn lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ
về phát triển kinh tế - xã hội. Nếu nguồn tài chính không đủ hoặc không kịp thời thì
các nhiệm vụ chi tiêu của Chính phủ sẽ không thực hiện đúng tiến độ, các cân đối
kinh tế bị phá vỡ, các nhiệm vụ về an sinh, xã hội không được thực hiện làm cho
kinh tế suy thoái hoặc kém hiệu quả.
Thứ hai, nợ thuế gây mất công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các ĐTNT và tạo
môi trường kinh doanh không bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân đang kinh doanh
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thứ ba, nợ thuế tạo ra chi phí không cần thiết đối với xã hội liên quan đến công

tác quản lý thuế, gây mất thời gian, công sức, tiền của cho việc quản lý nợ thuế.
1.2.3. Phân loại nợ thuế
1.2.3.1. Khái niệm phân loại nợ thuế
Cùng với tốc độ phát triển không ngừng của nền kinh tế, các doanh nghiệp
cũng ngày càng gia tăng về số lượng và phát triển về mặt qui mô. Kéo theo đó là sự
gia tăng số thu Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, cùng với đó thì sự phức tạp trong
công tác quản lý thuế cũng ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, đồng thời với việc
kiện toàn bộ máy quản lý thuế để phù hợp với nền kinh tế thì cơ quan thuế cũng cần
17
thiết phải nhanh chóng áp dụng khoa học quản lý, công nghệ tin học hiện đại vào
quản lý thuế nói chung và quản lý nợ thuế nói riêng.
Hiệu quả của công tác quản lý thuế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác
nhau. Trong đó, một phần không nhỏ là từ hiệu quả của công tác phân loại nợ thuế.
Phân loại nợ thuế là việc sắp xếp nợ thuế thành những nhóm khác nhau theo những
tiêu thức nhất định. Việc phân loại nợ thuế giúp cơ quan thuế xác định được nguyên
nhân nợ, tình trạng, tuổi nợ của từng khoản nợ thuế, qua đó có thể áp dụng các biện
pháp quản lý thu nợ thuế có hiệu quả. Phân loại nợ thuế sẽ giúp cơ quan thuế đưa ra
các biện pháp quản lý, đôn đốc thu nợ; đồng thời, tạo thuận lợi cho công tác tổng
hợp số liệu báo cáo, khắc phục được sự không rõ ràng, không thống nhất trong công
tác quản lý nợ.
1.2.3.2. Tiêu chí phân loại nợ thuế
Theo Qui trình quản lý nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số: 1395/QĐ-
TCT ngày 14 tháng 10 năm 2011 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, tiền thuế nợ
được chia thành 5 nhóm. Cụ thể:
Nhóm tiền thuế nợ khó thu: Nhóm nợ khó thu bao gồm các trường hợp sau:
* Tiền thuế nợ của người nộp thuế được pháp luật coi là đã chết, mất tích,
mất năng lực hành vi dân sự chưa có hồ sơ đề nghị xoá nợ.
* Tiền thuế nợ có liên quan đến trách nhiệm hình sự: là số tiền thuế nợ của
người nộp thuế đang trong giai đoạn bị điều tra, khởi tố hình sự, đang chờ bản án
hoặc kết luận của cơ quan pháp luật, chưa thực hiện được nghĩa vụ nộp thuế.

* Tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn hoạt động sản xuất kinh doanh
tại địa điểm đăng ký kinh doanh hoặc có văn bản gửi đến cơ quan thuế đề nghị
chấm dứt hoạt động kinh doanh nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; cơ quan
thuế đã kiểm tra, xác định người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh. Bao
gồm cả trường hợp giải thể không theo trình tự của Luật Doanh nghiệp.
* Tiền thuế nợ của người nộp thuế đã giải thể: là số tiền thuế nợ người nộp
thuế đã thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp nhưng chưa thanh toán đầy đủ
các khoản nợ thuế theo quy định của pháp luật.

×