Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.03 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trờng đại học kinh tế quốc dân
Khoa khoa học quản lý

Đề án kinh tế chính trị

Đề tài: Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị
trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở việt nam

Giáo viên hớng dẫn: Nguyễn Quốc Hùng
Sinh viên thực hiện : Vũ Thành Đô
Lớp

: Quản lý kinh tế B

Khoá

: 41
Hà Nội: 11/2002

1


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

A. lêi nãi đầu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xà hội Đảng và Nhà nớc ta chủ chơng
nhất quán và lâu dài phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa gọi là kinh tế
thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa.


Việc tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta là một tất yếu khách
quan nó không chỉ là do sự đa dạng hoá các các hình thức sở hữu mà có do vai trò
rất quan trọng trong phát triển kinh tế. Để cho các thành phần kinh tế cùng tồn tại
và phát triển bình đẳng và cạnh tranh nhau chúng ta hớng các thành phần kinh tế
này vận hành theo cơ chế thị trờng, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế và
chịu sự điều tiết của Nhà nớc.
Cơ chế thị trờng có vai trò rât lớn đối với việc phát triển kinh tế nó phản
ánh sự chi phối của các quy luật kinh tế. Cơ chế thị trờng đòi hỏi mọi thành phần
kinh tế phải hoạt động có hiệu quả trong quá trình tồn tại, đòi hỏi phải cạnh tranh
nhau để đi lên. Bên cạnh những tác động rất tích cực thì cơ chế thị trờng cũng tạo
ra nhiều tiêu cực cho xà hội nh sự phân chia giàu nghèo ngày càng gia tăng, tình
trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng theo chu kỳ Đồng thời việc chạy theo
lợi nhuận quá mức làm ô nhiễm môi trờng, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên .Do đó việc xây dựng một nền kinh tế thị trờng vận hành theo cơ chế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa là rất phù hợp với đất nớc ta, nó vừa đáp ứng đợc
xu thế phát triển tất yếu của nhân loại vừa thể hiện đợc vai trò của Nhà nớc là khắc
phục đợc hạn chế của cơ chế thị trờng đem lại đồng thời tạo cho cơ chế thị trờng
hoạt động có hiệu quả.Để có thêm kiến thức về kinh tế thị trờng và chủ nghĩa xÃ
hội em đà lựa chọn đề tài:
Phân tích các giải pháp phát triển kinh tế thị trờng định hớng x· héi chđ
nghÜa ë viƯt nam”
Néi dung bµi viÕt gåm ba mục
I.
Sự cần thiết khách quan phải hình thành và phát triển kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở Việt Nam
II.
Đặc điểm của kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
III.

Các giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trờng ë viÖt nam


2


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Em xin ch©n thành cảm ơn thầy Nguyễn Quốc Hùng và các thầy, cô trong
bộ môn kinh tế chính trị đà giúp đỡ em hoàn thành đề án này.Do thời gian còn hạn
chế và việc thu thập tài liệu cha đợc đầy đủ nên bài viết này không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong đợc sự góp ý của thầy giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!

3


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

B. Néi dung

I. Sự cần thiết khách quan phải hình thành và phát triển kinh
tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Đặc điểm cơ bản của nền kinh tế chỉ huy.
Nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó
ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do trung ơng giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp
lệnh từ một trung tâm.
Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhng lại không chịu trách nhiệm gì về
mặt vật chất đối với các quyết định của mình.
Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và
kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ
yếu, do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp đợc thực hiện dới

các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lơng hiện vật (chế độ tem phiếu)
và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách, mà không ràng buộc vật chất đối với
ngời đợc cấp phát vốn.
Từ những đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp
trung gian và kém năng ®éng, tõ ®ã sinh ra mét ®éi ngị c¸c bé kém năng lực quản
lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhng phong cách thì quan liêu cửa quyền.
Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế chỉ huy đà tích góp những xu thế
tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hÃm sự phát triển kinh tế
xà hội. Vấn đề đặt ra la phải đổi mới cơ chế đó. Phơng hớng cơ bản của sự đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế ở nớc ta đà đợc Đại hội VI của Đảng xác định và tiếp
tục đợc Đại hội VII của Đảng khẳng định Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc.
2. Cơ chế thị trờng không chỉ tồn tại dới chủ nghĩa t bản mà tồn tại dới
nhiều phơng thức sản xuất khác nhau cho nên CHXH vẫn có thể áp dụng nền
kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng không chỉ là cái riêng có của chủ nghĩa t bản(CNTB), mà là
thành quả chung của văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phơng thức sản xuất xă
hội khác nhau. Đúng nh Đảng ta đà xác định: Sản xuất hàng hoá không đối lập
với CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách
4


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

quan, cÇn thiÕt cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đÃđợc xây dựng.
Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn có những
đặc điểm riêng gắn với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, gắn
với bản chất của chế độ xà hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Đúng
là KTTT đà đạt tới đỉnh cao dới chủ nghĩa t bản, nhng không vì thế mà đồng nhất

KTTT là kinh tế t bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. Hơn nữa xét
về bản chất, KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực, nh ngời ta lầm tởng trớc đây
mà có những yếu tố tiến bộ và tích cực không thể phủ nhận. KTTT tạo ra động lực
thúc đẩy sản xuất xà hội phát triển, đẩy nhanh quá trình xà hội hoá sản xuất, làm
thay đổi cung cầu theo hớng có lợi cho sản xuất và cải thiện đời sống. Cần ý thức
rằng chỉ có KTTT t bản chủ nghĩa và KTTT định hớng xà hội chủ nghĩa mới khác
nhau về mục đich, chế độ sở hữu, tính chất phân phối và tính chất của nhà nớc
trong quản lý KTTT. Nếu giai cấp t bản có thể lợi dung đợc KTTT để phát triển
CNTB, thì không có lý do gì lại cho rằng giai cấp công nhân mà đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng Sản không thể vận dụng đợc KTTT .Do đó phát triển KTTT
định hớng XHCN, thực chất là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa phát huy đợc
nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xà hội, vừa phát huy đợc nhân tố mở đờng, hớng dẫn và chế định sự vận động của mục tiêu kinh tế theo mục tiêu XHCH đÃ
chọn.
3. Điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xà hội,
gắn liền với hai điều kiện tiền đề: Sự phân công lao động xà hội và các hình thức
sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất và sản phẩm lao động.ở nớc ta, những điều
kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn, nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là
một tất yếu khách quan.
Phân công lao động xà hội với t cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá
chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển về cả chiều rộng và chiều
sâu. ở nớc ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh
đó những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nớc mà cả trên thế giới,
có tiềm năng lớn mà trớc đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay đợc khôi phục
và phát triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phơng, phân công lao
động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó đợc phản ánh ở tính phong phú, đa dạng và
chất lợng cao hơn sản phẩm lao động đa ra trên thị trờng. Sự chuyên môn hoá và
hợp tác hoá lao động đà vợt ra khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao
động trên phạm vi quốc tế.


5


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

♦ NÒn kinh tế nớc ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó là kinh tế nhà
nớc, kinh tế t bản Nhà nớc, kinh tế hợp tác xÃ, kinh tế t bản t nhân, kinh tế sản
xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tự nhiên ở vùng núi. Hơn nữa, trình độ xà hội hoá giữa
các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong vùng cùng một thành phần kinh
tế cha đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản
phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các
mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế trong các
thành phần với ngời lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với
nhau.
Nh vậy, nếu xt ph¸t tõ ý mn chđ quan thu hĐp hay cản trở quá trình
tiền tệ hóa các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng những
hình thức khác nhau ( sớm xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế,
quản lý bằng kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp) sẽ kìm hÃm sự phát triển
của nền kinh tế nớc ta. Do đó, chúng ta cần chủ động có những chính sách thích
hợp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đúng mức, đúng hớng theo
nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xà hội thì tất yếu có ngời đáp ứng nhu
cầu đó và ai trong cuộc cạnh tranh vơn tới thoả mÃn tốt hơn và tốt nhất nhu cầu
của xà hội thì ngời đó sẽ tồn tại và phát triển.
4. Ưu điểm của kinh tế hàng hoá.
Thúc đẩy quá trình xà hội hóa xản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân công
lao động xà hội, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên
hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và ngời sản xuất, tạo
tiền đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất. Trong kinh tế hàng hoá sự tác
động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu buộc ngời sản

xuất phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao
động, cải tiến chất lợng và hình thức mẫu mà hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu
xà hội, tìm cách đa ra thị trờng những loại hàng hoá mới thích hợp với thị hiếu ngời tiêu dùng Kết quả là thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với
thị trờng.
Thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung s¶n xt. Më réng giao lu kinh tÕ trong
níc và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Giải phãng c¸c mèi quan hƯ kinh tÕ ra khái sù trói buộc của nền sản xuất
khép kín đà từng kìm hÃm sự phát triển của lực lợng sản xuất, tạo những điều kiện

6


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cÇn thiÕt cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thực
hiện dới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.

II. Đặc điểm kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Nớc ta đang từng bớc quá độ lên chủ nghĩa xà hội không qua giai đoạn phát
triển t bản chủ nghĩa, xu hớng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với
những đặc điểm sau;
1) Nền kinh tế nớc ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém
phát triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trờng.
Đi lên chủ nghĩa xà hội không qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa nớc
ta thiÕu c¸i “cỉt vËt chÊt” cđa mét nỊn kinh tÕ phát triển. Thực trạng của nền kinh
tế đợc biểu hiện ở những mặt cơ bản nh: cơ cấu hạ tầng vật chất và xà hội thấp
kém; trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiêp lạc hậu, kém
khả năng cạnh tranh; sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính

bảo thủ, trì trệ; phân công lao động cha sâu sắc, các mối liên hệ kinh tế kém phát
triển, thị trờng còn sơ khai; thu nhập của dân c quá thấp, sức mua thấp, nhu cầu
tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu một đội
ngũ những ngời quản lý sản xuất, kinh doanh có khả năng tham gia cạnh tranh
trong và ngoài nớc.
Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy đà làm xơ cứng các mối liên hệ
kinh tế, điều đó biểu hiện:
Từ năm 1986 trë vỊ tríc dï trªn thùc tÕ vÉn thõa nhận sản xuất hàng hoá,
thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ, nhng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá
một thành phần thành phần xà hội chủ nghĩa, dựa trên chế độ công hữu về t liệu
sản xuất dới hai hình thức: toàn dân và tập thể.
Với tên gọi kinh tế hàng hoá xà hội chủ nghĩa, về thực chất là kinh tế chỉ
huy, đà làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mềm dẻo nh
giá trị, giá cả, lợi nhuận bị hình thức hoá đến cao độ: không phản ánh các quy
luật của thị trờng, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa.
Quy luật trung tâm chi phối sự vận động của kinh tế hàng hoá xà hội chủ
nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân, đà biến
nền kinh tế thực tế là Kinh tế chỉ huy.Mục đích hoạt động kinh tế của các cá
nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận nh vốn có của nền kinh tÕ hµng
7


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đợc phát ra
từ một trung tâm.
Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị thu hẹp phạm vi
hoạt động, xem nh không hợp pháp hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò
hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc
phi hàng hoá, các thị trờng có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan

trọng nhất của quá trình tái sản xuất xà hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó đợc
coi kinh tế thị trờng tự do bất hợp pháp.
Những quan niệm ấu trĩ trên đây về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu
hiện sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, không tuân theo quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển xà hội
nói chung và trong kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho
sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải chấn hng nó
phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với các xu thế thời đại ngày
nay là chuyển sang cơ chế thị trờng.
2) Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần trong
đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
Nền KTTT định hớng xà hội chủ nghĩa ở nớc ta lấy giải phóng sức sản xuất
làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.
Trong nền kinh tế nớc ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu t nhân, từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều
thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Đại hội Đảng
VII đà khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tơng ứng với
tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện
nay, đó là: kinh tế Nhà nớc, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế t nhân t bản chủ
nghĩa và kinh tế t bản Nhà nớc.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần
kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế thuộc sở hữu t nhân để hình thành nền kinh tế thị trờng rộng lớn bao
gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế t doanh, các
hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nớc, các hình thức đan xen và
xâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trờng với
t cách chủ thể thị trờng bình đẳng.

8



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

NÒn kinh tÕ nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trờng ở nớc ta
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đa nền kinh tế vợt khỏi tình trạng thấp kém, đa nền
kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nớc hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong
việc đáp ứng nhu cầu xà hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý
theo định hớng xà hội chủ nghĩa. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần phải đi đôi với tăng cờng quản lý của Nhà nớc về kinh tế xà hội. Để
hạn chế và khắc phục những hạn chế của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trờng mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng
hớng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xà hội, Nhà nớc phải thực hiện tốt
vai trò quản lý kinh tÕ – x· héi b»ng luËt phap, kÕ ho¹ch, chính sách, thông tin,
tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
Trong nền KTTT định hớng xà hội chủ nghĩa nớc ta, kinh tế Nhà nớc là nhân
tố quy định và bảo đảm tính định hớng XHCN của nền kinh tế thị trờng. Kinh tế
Nhà nớc tạo cơ sở kinh tế cho xà hội mới, nó là lực lợng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Xây dựng hệ thống
kinh tế Nhà nớc mạnh chính là tăng cờng thực lực kinh tế của Nhà nớc, để làm chỗ
dựa, bảo đảm ổn định kinh tế và định hớng cho thị trờng XHCN. Buông lỏng khu
vực kinh tế nhà nớc là buông lỏng định hớng XHCN đối với nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế Nhà nớc là nơi thể hiện đầy đủ nhất tính u việt của CNXH: đảm bảo
sự thống nhất giữa tăng trởng kinh tế và công bằng xà hội, tiến bộ xà hội và bảo vệ
môi trêng sinh th¸i, thèng nhÊt chÝnh s¸ch kinh tÕ víi chính sách xà hội, tất cả
phục vụ con ngời trên tầm vĩ mô. Nhà nớc vừa là đại biểu cho toµn bé nỊn kinh tÕ,
võa lµ chđ thĨ cđa kinh tế Nhà nớc. Do đó nhà nớc phải vừa tôn trọng tính bình
đẳng của các chủ thể kinh tế, vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế
nhà nớc để nó thực sự có vai trò chủ đạo. Để giữ đợc vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nớc phải nắm giữ những khâu, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân.

Kinh tế nhà nớc phải là kiểu mẫu về năng suất, chất lợng, hiệu quả và chấp hành
pháp luật để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của CNXH. Kinh
tế Nhà nớc phải có giá trị tổng sản lợng hàng hoá ngày càng tăng, đóng góp tỷ lệ
cao trong ngân sách nhà nớc, không ngừng nâng cao trình độ và đời sống của mọi
ngời lao động
3) Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà
nớc.

9


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

♦ C¬ chÕ thị trờng là gì? Mọi nền kinh tế đều đợc tổ chức bằng cách này hay
cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xà hội và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để thoả mÃn nhu cầu xà hội.
Việc sản xuất ra hàng hoá gì, việc sản xuất theo phơng pháp nào là tốt nhất, việc
phân phối hàng hoá đợc sản xuất ra sao cho đáp ứng tố nhu cầu của xà hội. Lực lợng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó do các cơ quan của Nhà nớc quyết
định. Còn một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trờng
quyết định đợc xem là nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có cuả
nó hoạt động nh quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy
luật lu thông tiền tệ và lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nó.
Các quy luật đó đều biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị trờng, thông qua
sự vận động của giá cả thị trờng. Nhờ sự vận động của hệ thống giá cả thị trờng
mà diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lợng và cơ cấu của sản xuất với khối lợng và cơ cÊu nhu cÇu cđa x· héi.
Nh vËy, cã thĨ hiĨu cơ chế thị trờng là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng
hoá do sự tác động của các quy lt kinh tÕ vèn cã cđa nã, c¬ chÕ ®ã gi¶i qut ba
vÊn ®Ị cđa tỉ chøc kinh tÕ là cái gì, nh thế nào và cho ai. Cơ chế thị trờng bao gồm
các nhân tố cơ bản là cung cầu và giá cả thị trờng.

Vai trò điều tiết của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng là rất quan trọng.
Vai trò đó đợc thực hiên qua các chức năng kinh tế của nó. Có thể nêu nên các
chức năng kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng dới đây.
Một là, đảm bảo ổn định chính trị, xà hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp
để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Về nhiều mặt, chức
năng này vợt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Nhà nớc tạo ra hành lanh pháp
luật cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra bằng cách đặt ra những điêu luật cơ
bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ
luật pháp mà Nhà nớc thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con
ngời và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo.
Hai là, điều tiết kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế thị trờng phát triển ổn
định. Nền kinh tế thị trờng khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng
kinh tế, đều phải trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là giao động lên xuống của
GDP hoặc GNP, kèm theo các giao động lên xuống về mức độ thất nghiệp và lạm
phát.

10


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nhà nớc cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh
doanh thông qua chơng trình hoá kinh tế, chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ. Chẳng hạn, chính phủ có thể giảm thuế trong cơn suy thoái với hy vọng tăng
chi tiêu của dân chúng, nhờ đó sẽ nâng cao GDP. Ngân hàng Trung ơng là ngời
kiểm soát khối lợng tiền tệ có thể áp dụng các biện pháp nới lỏng tiền tệ trong
cơn suy thoái; Khi lạm phát cao, ngân hàng Trung ơng áp dụng các biện pháp
thắt chặt tiền tệ nhằm giảm lạm phát. Nh vậy, thông qua chính sách tài chính và
chính sách tiền tệ Nhà nớc cố gắng ổn định nền kinh tế duy trì nền kinh tế càng sát
càng tốt đối với tình trạng có đầy đủ việc làm và lạm phát thấp.

Ba là, đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của cả hoạt động thị trờng là những tác
động, mà các nhà kinh tế gọi là tác động bên ngoài, mà các nhà kinh tế gọi là tác
động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa của mình có thể lạm dụng tài
nguyên xà hội, gây « nhiƠm m«i trêng sèng cđa con ngêi mµ x· hội phải gánh
chịu. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất hoá chất, tống chất thải ra hồ gây ô
nhiễm nguồn nớc địa phơng, làm chết cá, Chính phủ có thể buộc các doanh nghiệp
phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm, mà doanh nghiệp đà gây ra. Sự can
thiệp của Chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu
quả.
Một nguyên nhân khác dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trờng
là sự xuất hiện của độc quyền. Các tổ chực độc quyền có thể không tăng thậm chí
giảm số lợng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế đợc
thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhng cạnh tranh làm hạn
chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thờng giảm bới cạnh
tranh. Vì vậy, Nhà nớc có một nhiệm vụ rất cơ bản bảo vệ cạnh tranh và chống
độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động thị trờng.
Bốn là, đồng thời để đảm bảo tính hiệu quả thì Nhà nớc phải sản xuất ra
hàng hoá công cộng, đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện
công bằng xà hội. Sự hoạt động của cơ chế thị trờng có thể làm cho nền kinh tế đạt
hiệu quả cao. Nhng cơ chế thị trờng hoạt động phi nhân tính, nó không tính đến
các khía cạnh nhân đạo và xà hội, không mang lại những kết quả mà xà hội cố
gắng vơn tới. Việc phân phối và sử dụng tối u các nguồn lực không tự động mang
lại một sự phân phối thu nhâp cao.
Sự can thiệp của Nhà nớc nhằm phân phối thu nhập công bằng, bảo vệ các
thành viên của xà hội chống lại những khó khăn về kinh tế, n©ng cao møc sèng

11



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cđa c¸c nhãm dân c có thu nhập thấp nhất. Điều đó đợc thực sự thông qua chính
sách phân phối, bảo hiểm xà hội và phúc lợi xà hội.
4) Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phèi
theo kiĨu CNXH víi ph©n phèi theo kiĨu KTTT. Trong đó, lấy phân phối
theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập
thể và xà hội làm chủ đạo.
Phân phối theo lao động
Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động.
Đối với nớc ta, trong bớc quá độ hiện nay, hình thức phân phối theo lao
động là hình thức phân phối că bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp
nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về t liệu sản xuất.
Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi ngời đều có quyền bình đẳng đối với t
liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những ngời lao động với nhau
thông qua việc lấy lao động làm thớc đo. Đối với thành phần này phân phối theo
lao động là một sự tất yếu, bởi nhiều nguyên nhân:
Một là: Do dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về t liệu sản xuất mà chế độ
ngời bóc lột ngời bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của ngời lao động về mặt kinh tế đợc
xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xà hội và phúc lợi vật
chất của mỗi ngời. Chính vì những lý do đó mà phân phối theo lao động là phù
hợp với quan hệ sản xuất của các thành phần kinh tế này.
Hai là: Hiện tại ở nớc ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao ®éng nh
lao ®éng trÝ ãc, lao ®éng ch©n tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn Do vậy
mà cùng một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau đa lại những kết quả ít
nhiều, tốt xấu khác nhau. Do đó, cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối.
Mặt khác, trong xà hội nớc ta vẫn còn có những ngời muốn trút bỏ gánh nặng lao
động cho ngời khác, trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với
tình hình kinh tế xà hội ở trên.
Ba là: Trong điều kiện của nớc ta hiện nay, nền kinh tế vẫn còn ở tình trạng

lạc hậu, nghèo nàn cha đạt đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu.
Trong điều kiện lợng sản phẩm xà hội có hạn, để phân phối công bằng cần phải
dựa vào kết quả lao động của từng ngời. Hơn nữa lao động cha trở thành nhu cầu
tự nhiên của con ngời, nó còn là phơng kế sinh nhai của mỗi ngời. Trong tình
hình đó phân phối theo lao động là phù hợp với điều kiện nớc ta.

12


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Tóm lại, phân phối theo lao động là phù hợp với chế độ công hữu về t liệu
sản xuất, phù hợp với trình độ phát triển lực lợng sản xuất, phù hợp với trạng thái
sản xuất và trình độ phát triển kinh tế của đất nớc. Chính vì vậy thực hiện phân
phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản xuất ngày càng phát triển vì nó là
hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nớc ta.
Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác.
Nền kinh tế nớc ta đang trong bớc quá độ định hớng nên chủ nghĩa xà hội.
Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về
t liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức sản suất kinh doanh khác.
Một đặc điểm khá rõ nét trong quá độ định hớng lên chủ nghĩa xà hội từ
một nền sản xuất nhỏ là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình sản xuất,
tich tụ và tập trung vốn cha cao, một phần tơng đối lớn vốn sản xuất hiện nay vẫn
còn nằm rải rác, phân tán trong tay ngời lao động t hữu nhỏ, t sản nhỏ, trong đó có
cả dới dạng t liệu sản xuất, vàng bạc, ngoại hối và tiền mặt v.v..
Để có thể sử dụng đợc nguồn vốn đó cho sản xuất xà hội chúng ta không
thể sử dụng các chính sách áp đặt nh trng thu, trng mua hay đóng góp cổ phần một
cách bình quân. Vì cả các cách làm đó đều dẫn đến kết quả là làm suy yếu lực lợng sản xuất vốn có của xà hội.
Từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ơng (khoá VI) ở
nớc ta ®· xt hiƯn c¸c biƯn ph¸p huy ®éng vèn nh một số đơn vị quốc doanh và

tập thể đà huy động vốn của dân c dới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn
cổ phần không hạn chế với mức lÃi hợp lý .. Cách làm nh vậy đà có tác dụng đa đợc vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tÕ tËp thĨ
n¾m qun sư dơng mét ngn vèn to lớn hơn nhiều nguồn vốn hiện có. Nh vậy,
mặc dù sở hữu vốn là t nhân, nhng việc sử dơng vèn ®· mang tÝnh x· héi.
ThÝch øng víi ®iỊu kiện cụ thể của nớc ta trong bớc quá độ, xét trên các mặt
lợi ích kinh tế, trính trị và nhiệm vụ phát triển đất nớc, cần tạo đủ điều kiện pháp
lý để các thành phần kinh tế, t nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xà hội yên tâm
và mạnh dạn đầu t vốn vào sản xuất kinh doanh. Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn
mạnh: cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rÃi chính sách nhất quán đối với các
thành phần kinh tế. Những quy định đó có tính chất nguyên tắc phải trở thành
pháp luật để mọi thành viên xà hội yên tâm và mạnh dạn đầu t vốn vào sản xuất
kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem việc phân phối kết quả kinh
doanh sản xuất theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp và quá trình sản xuất

13


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

x· héi díi hình thức lợi tức và lợi nhuận, là một hình thức phân phối hợp
pháp đối với những thu nhập hợp pháp đó.
Phân phối ngoài thu lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xà hội.
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản và vốn đều là tất yếu
khách quan trong quá độ hiện nay ở nớc ta, vì các hình thức phân phối đó ®Ịu
nh»m mơc ®Ých thóc ®Èy nỊn s¶n xt x· héi phát triển và tạo lập sự công bằng xÃ
hội giữa mọi thành viên trong xà hội. Nhng trong điều kiện cụ thể của nớc ta hiện
nay, ngoài những ngời có sức khoẻ đang làm việc và đợc trả công theo lao động,
những ngời có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để đợc nhận lợi tức
và lợi nhuận, thì trong xà hội còn có những ngời vì lẽ này lẽ khác, không thể tham
gia vào lao động đợc trả công của xà hội. Đời sống số đông ngời này là do gia

đình họ hoặc xà hội đảm bảo. Mặt khác, ngay mức sống của cán bộ, công nhân
viên chức Nhà nớc và những ngời làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế
cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân, mà còn dựa vào một phần các
quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nớc, cuả doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xÃ
hội khác.
Với đặc điểm đó ở nớc ta hiện nay ngoài phân phối theo lao động, theo tài
sản và theo vốn thì xà hội còn áp dụng hình thức phân phối ngoài thu lao lao động,
thông qua các quỹ phúc lợi xà hội. Đây không phải là phân phối theo lao động,
nhng cũng cha phải phân phối theo nhu cầu nhu giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng
sản mà C.Mác đà dự đoán. Đây là mô hình phân phối quá độ, nó phù hợp với xu
hớng phát triển của xà hội.
Hình thức phân phối này là một sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với
nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mÃn những
nhu cầu công cộng xà hội. Nó có lợi trớc hết cho những gia đình mà thu lao lao
động tính theo đầu ngời tơng đôi thấp. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi
thành viên xà hội đều có mức sống bình thờng tối thiểu mà còn có tác dụng kích
thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên
trong xà hội.
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khẳng định
việc xây dựng các quỹ phúc lợi xà hội là việc làm rất cần thiết và ngày càng có ý
nghĩa to lớn
5) Kết hợp hài hoà văn hoá dân tộc truyền thống với văn hoá hiện đại có
chọn lọc. Trong, đó lấy văn hoá dân tộc truyền thèng lµm gèc.

14


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

6) Kh«ng dùa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu kinh tế mở,

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, song phải đảm bảo độc lËp
chđ qun toµn vĐn l·nh thỉ.
Kinh tÕ “khÐp kÝn” thêng gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất
nhỏ, với tình trạng bế quan toả cảng tự cung tự cấp và với nền kinh tế chỉ huy.
Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ, trì trệ.
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá đà làm phá vỡ các mối quan
hƯ kinh tÕ trun thèng cđa nỊn kinh tÕ khÐp kín. Đặc biệt đến giai đoạn t bản chủ
nghĩa, sự phát triển của kinh tế hàng hoá đà làm cho thị trờng dân tộc gắn bó với
thị trờng thế giới. Chính sự giao lu và các mối liên hệ kinh tế đợc mở rộng ra nớc
ngoài đà làm cho nền kinh tế hàng hoá t bản chủ nghĩa có những bớc phát triển
nhanh chóng.
Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với nớc ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao
đổi hàng hoá tất yếu vớt khỏi phạm vi qc gia mang tÝnh chÊt qc tÕ, ®ång thêi
®ã cịng là tất yếu của phát triển nhu cầu.
Biệt lập trong sự phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến đói nghÌo. Do ®ã viƯc
më réng quan hƯ kinh tÕ víi nớc ngoài dới nhiều dạng khác nhau đối với nớc ta
nh là một dạng tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật thế giới
cho phép đáp ứng nhu cầu về cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan
hệ kinh tế với bên ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong.
Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triĨn rót ng¾n ë níc ta.
Më réng quan hƯ kinh tế với nớc ngoài bằng nhiều hình thức nh tăng cờng
hoạt động ngoại thơng, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút vốn đầu t vào nớc
ta. Gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những
ngành, những mặt hàng mũi nhọn có tơng lai gắn với công nghệ mới, tiến tới có
khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế giới, nhanh chóng đa nền kinh tế nớc ta hội
nhập vào nhịp điệu của kinh tế thế giới.
Việc mở cửa nền kinh tế, đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cùng có lợi.
7) Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hớng xà hội chủ nghĩa thông
qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nớc.

Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trờng không thể nào
giải quyết hết đợc những vấn đề do chính cơ chế đó và bản chất đời sống kinh tế xà hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất

15


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

bình đẳng, ô nhiễm môi trờng, sự bùng nổ dân số cũng nh các hiện tợng khác.
Những tình trạng và hiện tợng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián
tiếp đều có tác động ngợc trở lại, làm căn cản trở sự phát triển bình thờng của
một xà hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác động
của Nhà nớc - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách
quan vào nền kinh tế là một tÊt u cđa sù ph¸t triĨn kinh tÕ -x· héi. Thiếu sự
can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trờng tự do hoạt động,
thì việc điều hành nền kinh tế nớc ta sẽ không có hiệu quả, cũng giống nh ngời ta
muốn vỗ tay mà chỉ dùng một bàn tay.
Sự quản lý của Nhà nớc đối với nền kinh tế hàng hoá ở nớc ta đợc thực hiện
bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nớc sử dụng những
công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế lành mạnh
hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đờng phát triển của nó,
khắc phục đợc tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ đợc tài nguyên môi trờng
của đất nớc. Nh vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc ở nớc ta là một sự vận động đợc điều tiết bởi sự thống
nhất giữa cơ chế thị trờng bàn tay vô hình, và sự quản lý của Nhà nớc
bàn tay hữu hình.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trờng vận động theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa, Nhà nớc ở nớc
ta có các chức năng quản lý vĩ mô sau đây;
Một là: tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế nh đảm

bảo ổn định chính trị, xà hội, thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ
thống chính sách nhất quán để tạo môi trờng ổn định và thuận lợi cho giới kinh
doanh làm ăn có hiệu quả.
Hai là, định hớng cho sự phát triển, trực tiếp đầu t vào một số lĩnh vực để
dẩn dắt nền kinh tế phát triển theo định hớng xà hội chủ nghĩa; ổn định môi trờng
kinh tế vĩ mô nh chống lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến
xấu trong nền kinh tế.
Ba là; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xà hội đảm bảo yêu cầu của phát
triển kinh tế.
Bốn là; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh
tế, xà hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nớc về kinh tế và chức năng chủ
sở hữu tài sản công của Nhà nớc. Các Bộ và các cấp chính quyền không can thiệp
vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ của các doanh nghiÖp.
16


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Năm là; khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng, phân phối
thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xà hội.

III. Các giải pháp hình thành và phát triển kinh tế thị trờng ở
việt nam
1 Trớc hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, tạo điều phát
triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta.
Nh chúng ta đà biết, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng
là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất quy định.
Vì vậy để phát triển kinh tế thị trờng, trớc hết phải đa dạng hoá sở hữu trong nền
kinh tế. Đối với nớc ta, quá trình đa dạng hoá đợc thể hiện bằng việc phát triển nền

kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nh nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, VII, VIII đà chỉ ra. Đó là phát triển kinh tế Nhà nớc, kinh tế hợp tác xÃ, kinh
tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế t nhân và kinh tế t bản Nhà nớc.
Đối với kinh tế Nhà nớc. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế nớc ta. Vai trò này đợc thể hiện ở chỗ nó chi phối đợc các thành phần
kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc điểm, tính chất
của nó. Thành phần kinh tế Nhà nớc phải mở đờng, dẫn dắt cho nền kinh tế phát
triển theo định hớng xà hội chủ nghĩa; nó tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng
hoá, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển theo
định hớng; nó chiếm giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo sản
xuất và cung ứng những dịch vụ công cộng và sản phẩm thuộc các lĩnh vực có ý
nghĩa quốc tế dân sinh. Để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nớc, trong
những năm tới cần thiết phải củng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nớc, thực hiện sắp
xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc, cải tiến quản lý, nâng cao tính hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một cách
phù hợp các hình thức tổ chức kinh doanh.
Đối với kinh tế hợp tác. Cần thiết phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học
hợp tác xà kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác và hợp tác xà kiểu mới
đang đợc phát triển hiện nay, đổi mới nội dung và phơng thức hoạt động, đổi mới
phơng thức quản lý, đẩy nhanh sự phát triển của các thành phần kinh tế trong các
lĩnh vực của nền kinh tế để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trờng ở nớc ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, ngời buôn
bán nhỏ.Một mặt thông qua cơ chế, chính sách và hớng dẫn phát triển của Nhà n17


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

íc khuyÕn khÝch sự phát triển của các thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng
cờng công tác quản lý để xây dựng nề nếp sản xuất kinh doanh theo quy định của

pháp luật.
Đối với thành phần kinh tế t bản t nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành
phần kinh tế này để các nhà t bản yên tâm và mạnh dạn đầu t vào nền kinh tế, đặc
biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuẩt khẩu.
Đối với kinh tế t bản Nhà nớc. Nhà nớc cần có chính sách khuyến khích thành
phần kinh tế này phát triển kể cả với t bản Nhà nớc trong nớc và t bản Nhà nớc với
nớc ngoài. Muốn vậy, phải có các chính sách và các hình thức đa dạng để thu hút
vốn đầu t của các nhà t bản trong và ngoài nớc thông qua phát triển các khu công
nghiệp tập trung, các hình thức chế xuất, các hình thức liên doanh, liên kết.
Ngoài ra, hiện nay ở nông thôn và đặc biệt ở vùng núi còn tồn tại khá nặng tính
chất của nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Vì vậy, cần có chính sách thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt chú ý tới việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lu thông hàng hoá với các vùng phát triển trong nớc.
2 Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xà hội ở nớc ta
Nh đà nói, phân công lao động xà hội là của sản xuất hàng hoá, của phát triển kinh
tế thị trờng. Vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trờng ở nớc ta đòi hỏi phải đẩy
mạnh phân công lại lao động xà hội.
ở nớc ta, đẩy mạnh phân công lao động xà hội cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nớc. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, CNH ở nớc ta phải
kết hợp chặt chẽ hai chiến lợc CNH theo hớng xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu. Để thực hiện chiến lợc này, cần phải phân công lại lao động để phát triển
những ngành, những lĩnh vực mà đất nớc có lợi thế so sánh trong việc sản xuất,
thúc đẩy xuất khẩu. Trớc mắt đó là các ngành nông nghiệp, công nghiệp dệt may,
công nghiệp chế biến nông lâm, hải sản, công nghiệp lắp ráp điện tử và một số
lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu những hàng hoá này, cần
tranh thủ nhập đợc những công nghệ thích hợp để cải thiện trình độ công nghệ và
kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa
từng bớc đổi mới trình độ lao động trong nớc phù hợp với trình độ quốc tế và khu
vực.
3 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trờng

Đốí với thị trờng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ.

18


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nh ®· biÕt, thị trờng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ là thị trờng trên đó ngời
ta mua bán vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ. Hàng hoá tiêu dùng là những vật phẩm
tiêu dùng nh lơng thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở, thuốc chữa bệnh, đồ dùng học
tập các loại hàng hóa dịch vụ nh sửa chữa, du lịch, chữa bệnh .. Loại hàng hoá
này không phải là sản phẩm vật chất nhng có ý nghĩa hoàn thiện sản phẩm vật chất
và thoả mÃn nhu cầu văn hoá, tinh thần cho con ngời. Nền kinh tế hàng hoá càng
phát triển, thị trờng dịch vụ ngày càng tăng lên.
Thị trờng hang tiêu dùng và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
hàng hoá. Vai trò đó thể hiện trên hai mặt: Một mặt, nó thoả mÃn nhu cầu tiêu
dùng của con ngời, qua đó tái sản xuất ra sức lao động nhân tố cơ bản của quá
trình sản xuất. Mặt khác, sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ là kết quả, là đầu ra của
quá trình sản xuất. Việc thực hiện nó là điều kiện để quá trình tái sản xuất đợc tiến
hành liên tục. Hàng hoá bán đợc ngời sản xuất thu hồi vốn và có lợi nhuận để tiếp
tục quá trình tái sản xuất. Ngợc lại, hàng hoá không bán đợc, lúc đó tình trạng trì
trệ, khủng hoảng diễn ra.
Để phát triển thị trờng hàng tiêu dùng và dịch vụ, cần giải quyết tốt hai vấn đề cơ
bản sau đây:
Một là, phải tăng quy mô hàng tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng
phong phú và chất lợng ngày càng nâng cao. Nhu cầu hàng tiêu dùng và dịch vụ
cho một đất nớc có 70 triệu dân và mỗi năm tăng thêm hơn một triệu dân là rất
lớn. Một mặt, đó là sức ép lớn đối với sản xuất trong điều kiện sản xuất thấp kém,
sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ cha đủ đáp ứng tiêu dùng tối thiểu là vấn đề căng
thẳng cho đất nớc. Mặt khác, nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng và dịch vụ là động lực

phát triển kinh tế hàng hoá. Vì nhu cầu lớn tạo ra khả năng tăng cầu, mà tăng cầu
là vấn đề trọng yếu trong kinh tế hàng hoá. Vì vậy, việc phát triển thị trờng hàng
tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi phải tăng dung lợng thị trờng, tăng khối lợng hàng
hoá tiêu dùng và dịch vụ để thoả mÃn nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại, học tập, chữa
bệnh cho nhân dân. ở đây cần khai thác thế mạnh của đất nớc về đất đai, rừng,
biển, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến để có nguồn
hàng ngày càng lớn đáp ứng nhu cầu. Đồng thời, cùng với số lợng cũng phải chú ý
tới chủng loại phong phú và nâng cao chất lợng để đáp ứng nhu cầu đa dạng và
ngày càng cao.
Hai là, từng bớc giảm giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Vì với một lợng thu
nhập nhất định, nếu giá cả hàng hoá thấp, khả năng mua sản phẩm sẽ tăng lên, làm
tăng dung lợng thị trờng và ngợc lại. Song đối với ngời sản xuất, ngời bán, việc
giảm giá cả hàng hóa đặt ra một yêu cầu khác. Đối với họ, cái quan tâm là lợi
19


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhuận. Điều đó có nghĩa là, giá cả hàng hoá phải bù đắp đợc chi phí và có lÃi. Vì
vậy giảm giá cả hàng hoá và có lợi nhuận là một mâu thuẫn đối với ngời sản xuất.
Để giải quyết mâu thuẫn này, cần phải lựa chọn một trong hai phơng án sau:
Phơng án thứ nhất là giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá. Trong
trờng hợp này, giá cả hàng hoá và chi phí đều giảm, nhng chi phí sản xuất phải
giảm nhiều hơn, do đó lợi nhuận vẫn đảm bảo.
Phơng án thứ hai là tăng khối lợng sản phẩm cung ứng trên thị trờng để trong trờng hợp giảm giá, lợi nhuận của một đơn vị hàng hoá bán ra ít hơn, nhng tổng số
hàng hóa bán nhiều hơn thì tổng lợi nhuận vẫn đảm bảo.
Đơng nhiên, tốt nhất là kết hợp cả hai phơng án trên. Khi đó kết hợp đợc cả yêu
cầu của ngời sản xuất và ngời tiêu dùng.
đối với thị trờng các yếu tố sản xuất.
Nh đà nói, thị trờng các yếu tố sản xuất bao gồm thị trờng vốn, thị trờng sức lao

động và thị trờng các điều kiện vật chất khác cho quá trình sản xuất. Có thị trờng
này mới có các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá, mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch
vụ, hay mới có thị trờng đầu ra. Số lợng, chất lợng, tính đa dạng của thị trờng đầu
ra do thị trờng đầu vào quy định. Tuy nhiên, thị trờng đầu ra cũng có ảnh hởng tới
thị trờng đầu vào, kích thích tính tích cực của thị trờng đầu vào.
Hàng hoá đem bán ra trên thị trờng yếu tố sản xuất có giá cả của nó. T liệu sản
xuất có giá cả t liệu sản xuất. Tiền vốn có giá cả là lợi tức. Muốn thực hiện tái sản
xuất mở rộng thì vốn và t liêu sản xuất cần nhận đợc một phần bổ sung từ giá trị
sản phẩm thặng d, tài sản phải đợc tham gia vào phân chia lợi nhuận.
Hiện nay ở nớc ta đang hình thành thị trờng sức lao động. Ngời lao động có quyền
chọn việc làm và nơi làm việc. Đảm bảo quyền làm chủ sức lao động của ngời lao
động và thực hiện quyền tuyển chọn nhân công của ngời sử dụng sức lao động yêu
cầu phải tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động làm cơ sở cho việc xác đinh tiền lơng. Tiền lơng chính là giá cả sức lao động, có nhận đợc giá cả đó, ngời lao động
mới đủ tiền mua hàng tiêu dùng và dịch vụ để đảm bảo tái sản xuất sức lao động.
Phải trả theo giá cả đó mới sử dụng sức lao động có hiệu quả. Sự hình thành rộng
rÃi thị trờng sức lao động là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nớc ta.
Một vấn đề quan trọng là thực hiện sự cân bằng giữa các loại thị trờng
Rõ ràng sự cân bằng chung giữa các loại thị trờng là yêu cầu tất yếu trong
quá trình phát triển thị trờng. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa s¶n
20


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền. Để tạo lập sự cân bằng giữa
các loại thị trờng cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhât: Cân xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối sử dụng các yếu tố sản xuất
và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ một
cách hoàn toàn. điều này có nghĩa là toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng
dịch vụ đều đợc mua bán trên hai thị trờng một cách tự do.

Hiện nay ở nớc ta, về cơ bản các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng đà là hàng
hoá. Tuy nhiên một số yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, dịch vụ còn cha đợc
tính đúng, tính đủ giá trị của nó, đặc biệt là yếu tố đất đai.
Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc, còn quyền sử dụng, chuyển nhợng, thừa
kế giao cho ngời lao động. Chuyển nhợng đất đai từ ngời này sang ngời khác thực
tế là bán quyền sử dụng đất. Do vậy, phải xác định giá cả ruộng đất. Cơ sở xác
định giá cả ruộng đất là thu nhập do mảnh đất đó mang lại, đó chính là địa tô.
Trong hoạt động kinh tế, địa tô có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó làm
cho ngời sở hữu ruộng đất có thu nhập. Mặt khác, nó yêu cầu ngời sử dụng ruộng
đất có hiệu quả, tiết kiệm đất đai và áp dụng kỹ thuật thăm canh để tăng độ màu
mỡ đất đai.
Một vấn đề cấp bách hiện nay trong nông nghiệp là vấn đề tích tụ ruộng đất trong
nông nghiệp. Những năm đổi mới, nông dân ®· cã qun sư dơng, qun chun
nhỵng, qun thõa kÕ ruộng đất. Song, một mặt việc phân chia ruộng đất cho nông
dân theo nguyên tăc bình quân:có gần, có xa, có tốt có xấu do ruộng đất trong
nông thôn bị phân chia cho các hộ gia đình một cách manh mún. Điều đó gây trở
ngại cho việc áp dụng tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, thêm vào đó, quá trình
phát triển ở nớc ta trong những năm qua làm tăng trình độ của phân công lao động
xà hội và chuyên môn hoá sản xuất, kinh doanh, xuất hiện xu hớng tích tụ ruộng
đất. Tuy nhiên, xu hớng này đang gặp cản trở bởi mức hạn điền chật hẹp trong
nông nghiệp. Vì vậy, bên cạnh tính tới vấn đề địa tô, cần có chính sách hợp lý tạo
điều kiện cho sự vận động thông suốt của thị trờng đất đai ở nớc ta.
Thứ hai: Phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng
mệnh lệnh hành chính, mà nó đợc hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa ngời mua
và ngời bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả thị trờng lên
xuống mất ổn định. Sự mất ổn định giá một loại hàng nào đó, nhất là hàng hoá
thuộc nhu cầu yếu phẩm sẽ tác động xấu đến cân bằng chung giữa các thị trờng.
Nh vậy, tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả thì đồng thời phải bảo đảm sự bình ổn giá
cả. Muốn bảo đảm sự bình ổn giá cả cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển sản


21


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

xuÊt, t¹o ra nguồn hàng dồi dào, phong phú; đồng thời, Nhà nớc phải có lực lợng
hàng hoá dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ.
Thứ ba: Phát triển thị trờng ngoài nớc,đẩy mạnh hoạt động ngoại thơng
Sẽ là sai lầm nếu muốn phát triển thị trờng đầu ra, đầu vào, muốn đảm bảo sự
cân bằng giữa các thị trờng mà không chú ý đầy đủ tới thị trờng nớc ngoài, không
chú ý tới ngoại thơng. Đặc biệt trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lực lợng
sản xuất, khoa học kỹ thuật và thông tin, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu
vực, thị trờng ngoài nớc càng có ý nghĩa quan trọng để phát triển kinh tế thị trờng
ở nớc ta.
Thị trờng ngoài nớc, thông qua ngoại thơng có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trờng trong nớc phát triển. Ngợc lại, thông qua ngoại thơng, thị trờng trong nớc có
thể nhanh chóng tiếp cận thị trờng thế giới.
Lịch sử phát triển kinh tế chỉ rõ là, ngoại thơng dóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong quá trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế thị trờng. Không ngẫu nhiên
mà các nhà kinh tế học thế kỷ XV XVII lại đánh giá cao vai trò của ngoại thơng. Họ ví ngoại thơng nh máy bơm, nội thơng nh ống truyền dẫn trong quá trình
lam tăng của cải xà hội. Ngoại thơng sẽ đảm bảo tái sản xuất mở rộng và nâng cao
chất lợng của thị trờng đầu vào và đầu ra. Thông qua nhập khẩu, nền kinh tế có đợc hàng hoá, khoa học kỹ thuật hiện đại, thông tin, vốn, chất xám, những hàng
tiêu dùng, dịch vụ để đáp ứng quá trình tái sản xuất trong nớc. Thông qua hoạt
động xuất khẩu, mà bán đợc hàng hóa ra nớc ngoài, thu tiền về để phục vụ những
nhu cầu phát triển kinh tế.
Để phát triển thị trờng ngoài nớc, tạo điệu kiện mở rộng thị trờng trong nớc, đảm
bảo sự thông suốt giữa các thị trờng, cần thiêt phải thực hiện các nguyên tắc sau
đây:
Một là, phải thực hiện xuất siêu. Để có tiền cho tái mở rộng thị trờng, hàng năm
phải bán ra một số hàng lớn hơn số hàng mà ta mua vào. Muốn vậy cần phải xuất
thành phẩm chứ không suất nguyên liệu. Phải chú ý khuyến khích phát triĨn n«ng

nghiƯp, c«ng nghiƯp tiĨu thđ c«ng nghiƯp chÕ biÕn, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để
thu đợc giá trị cao của hàng xuất khẩu. Thực hiện thơng nghiệp trung gian, cho
phép mang tiền (vàng đôla và tiền mặt) đi lại tự do qua biên giớ để buôn bán ở các
nớc nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nớc. Có chính sách bảo hộ hợp lý để
khuyến khích các ngành kinh tế trong nớc phát triển, thu hút công nghệ và khoa
học kỹ thuật từ bên ngoài, ngăn chặn nhập những loại hàng hoá mà trong nớc có
thể sản xuất và đáp ứng đợc chu cầu tiêu dùng.
22


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong quan hệ trao đổi quốc tế. Các yếu
tố tự nhiên thuận lợi phải đợc xem xét cụ thể trong mối quan hệ với các yếu tố
kinh tế xà hội và kỹ thuật ở cả trong nớc và ngoài nớc, từ đó có phơng án tính
toán chi tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc tế để xác đinh sản xuất
và cung cấp cho thị trờng thế giới loại hàng hoá nào đó của ta có lợi thế hơn.
4. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của nhà nớc.
Để nền kinh tế phát triển theo định hớng xà hội chủ nghĩa, nhất thiết phải coi
trọng vai trò quản lý vĩ mô của nhà nớc.
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, ta đà dổi mới một bớc vai trò quản lý
vĩ mô của nhà nớc đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế hoạch hoá tập
trung sang sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế.
Những thành tựu mời năm ®ỉi míi võa qua vỊ lÜnh vùc nµy míi lµ bớc đầu. Trong
những năm tới, đặc biệt trong xu thế héi nhËp víi nỊn kinh tÕ thÕ giíi vµ khu vực,
cần thiết phải tiếp tục đổi mới các công cụ chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống
tài chính, tín dụng, lu thông tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập về kế hoạch
hoá phát triển kinh tế xà hội.Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc phù hợp
với phơng thức quản lý của nền kinh tế thị trờng, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh
tế phát triển theo định hớng mà đảng ta đà lựa chọn.

5. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách
nền hành chính quốc gia.
Nền kinh tế thị trờng chỉ có thể hoạt động bình thờng nếu có hệ thống luật pháp tơng đối hoàn chỉnh và ngày càng đợc hoàn thiện. Trong điều kiện nớc ta việc củng
cố và tăng cờng năng lực và hiệu lực của Quốc hội, ban hành các luật pháp còn
thiếu, điều chỉnh bổ xung và hoàn thiện các luật pháp đà có sao cho phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và có tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế, trên cơ sở
quyền lực thống nhất, cần tăng cờng tính độc lập tơng đối và năng lực của các cơ
quan t pháp trong xử lý nghiêm minh và kịp thời những vi phạm pháp luật đối với
các tổ chức kinh tế, chính trị, xà hội và dân c. Những năm đổi mới nhà nớc ta đÃ
từng bớc tập trung xây dựng hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, đến nay hệ thống luật
pháp vẫn còn thiếu và cha đồng bộ. Trong những năm tới, việc xây dựng hệ thống
luật pháp đồng bộ và hoàn chỉnh có thể đợc coi nh là một nhiệm vụ u tiên mà đất
nớc phải đầu t.
Đồng thời cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia theo hớng
đoạn tuyệt với các cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo c¬ chÕ tËp trung,

23


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chun sang qu¶n lý theo phơng thức công nghiệp và cơ chế thị trờng để đảm bảo
sự phù hợp và tạo điều kiện cho viƯc tiÕp tơc ®ỉi míi kinh tÕ ë níc ta.
Xây dựng một Nhà nớc vững mạnh thể hiện đợc các tiêu chuẩn sau: Trung thành
với chủ nghĩa Mac-Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc; Trong sạch về
phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính chí công vô t; có năng lực chuyên môn,
có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong việc thực hiện tốt các chức
năng quản lý vĩ mô của Nhà nớc đối với KTTT.
6. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, một điều kiện cho sự phát triển
KTTT ®Þnh híng x· héi chđ nghÜa

Mét nỊn kinh tÕ thÞ trờng đinh hớng xà hội chủ nghĩa đợc coi là định hình khi nó
đạt đợc trình độ KTTT hỗn hợp hay hiện đại, ngang với trình độ các nớc có nỊn
kinh tÕ ph¸t triĨn. Mét nỊn kinh tÕ nh vËy chỉ có thể dựa trên cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, tơng ứng với trình độ nền văn minh có sự giao thoa giữa văn minh
công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Với t cách là một
điều kiện của KTTT định hớng XHCN, cơ sở vật chất kỹ thuật đó phải đợc thể
hiện thông qua CNH, HĐH và tính hiện thực của nó chỉ có đợc khi sự nghiệp
CNH, HĐH thành công ë níc ta

24


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

c. kÕt luËn
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền kinh tế nào đều là nền kinh tế thị
trờng đợc vận hành theo cơ chế thị trờng. Cơ chế thị trờng có vai trò rất lớn khắc
phục đợc những hạn chế của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu đồng thời có
tac dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy nhanh quá trình xà hội hoá sản xuất và
cải thiện ®êi sèng.
Cïng víi xu thÕ më cưa vµ héi nhËp của nền kinh tế thế giới đòi hỏi Đảng
và Nhà nớc ta phải tìm cho mình một đờng lối chiến lợc phát triển kinh tế đúng
đắn để hoà nhập với nền kinh tế thế giới, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế đa
nền kinh tế đất nớc phát triển nhanh chóng và ổn định, nâng cao đời sống của nhân
dân và vị thế của quốc gia trên trờng quốc tế.
Do đó, Đảng và Nhà nớc ta la chọn con đờng phát triển nền kinh tế thị trờng
định hớng xà hội chủ nghĩa là rất phù hợp. Nó vừa phát huy đợc u thế của nền kinh
tế thị trờng là chấp nhận cạnh tranh, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế,
đồng thời còn có sự điều tiết quản lý của Nhà nớc để khắc phục những hạn chế của
nền kinh tế thị trờng và đa nền kinh tế phát triển theo đúng định hớng xà hội chủ

nghĩa.
Trong thực tiễn đất nớc ta, từ một nớc mà nền kinh tế yếu kém cả về cơ sở
hạ tầng kỹ thuật và kiến trúc thợng tầng, cha trải qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa t bản nên việc xây dựng nền kinh tế thị trờng gặp không ít khó khăn. Sự
nhận thức đúng đắn bản chất của kinh tế thị trờng, chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa
xà hội còn mờ nhạt cha rõ ràng. Cho nên để xây dựng thành công nền kinh tế thị
trờng định hớng chủ nghĩa xà hội ở nớc ta đòi hỏi Đảng và Nhà nớc cần phải
nghiên cứu sâu bản chất của kinh tế thị trờng, chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa xà hội
đê từ đó rút ra các giải pháp xây dựng và phát triển một mô hình kinh tế đúng đắn,
phù hợp với điều kiện thực tế của nớc ta.

25


×