Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học loài cỏ xoan Halophila ovalis (R. Br.) Hook.f. trong đầm nuôi thủy sản huyện Cát Hải (Hải Phòng) và khả năng nảy mầm của hạt trong phòng thí nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 66 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN VIỆN SINH THÁI
VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT






CAO VĂN LƢƠNG



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC LOÀI CỎ
XOAN Halophila ovalis (R.Br.) Hook. f. TRONG
ĐẦM NUÔI THỦY SẢN HUYỆN CÁT HẢI (HẢI
PHÒNG) VÀ KHẢ NĂNG NẢY MẦM CỦA HẠT
TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
CHUYÊN NGÀNH: THỰC VẬT HỌC
MÃ SỐ NGÀNH: 60420111



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀM ĐỨC TIẾN





HÀ NỘI, NĂM 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chƣơng trình cao học, tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn và
góp ý nhiệt tình của quí thầy cô thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
(thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và trƣờng Đại học
Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đàm Đức Tiến đã dành rất
nhiều thời gian và tâm huyết hƣớng dẫn khoa học và giúp tôi hoàn thành luận
văn tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi xin cảm ơn quí anh, chị đồng nghiệp và ban lãnh đạo
Viện Tài nguyên và Môi trƣờng biển (thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thời gian và cơ sở vật
chất để hoàn thành những nội dung nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn đến đề tài cơ sở: “Nghiên cứu khả năng trồng bằng
hạt loài cỏ Xoan (Halophila ovalis (R. Br.) Hooker, 1858) ở phòng thí
nghiệm”; đề tài: “Nghiên cứu hiện trạng môi trường, biến động nguồn lợi, đa
dạng sinh học hệ sinh thái vùng triều ven biển miền Bắc Việt Nam (từ Quảng
Bình trở ra), đề xuất mô hình khai thác, nuôi trồng, bảo tồn và quản lý bền
vững” và dự án: “Điều tra các loài thực vật thủy sinh biển có khả năng hấp
thụ CO
2
giảm hiệu ứng nhà kính, chống biến đổi khí hậu” đã tạo điều kiện
công tác và tài trợ kinh phí cho tôi khảo sát để có dữ liệu viết luận văn.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất

mong nhận đƣợc những đóng góp quí báu của quí thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2013
Học viên
LỜI CAM KẾT
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Tôi xin cam kết đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chƣa đƣợc các tác giả khác công
bố trong bất kỳ công trình nào.
Tôi xin cam kết mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã đƣợc chỉ rõ nguồn
gốc.
Học viên thực hiện Luận văn




























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

MỤC LỤC

trang
Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Lời cam kết

Mục lục

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

MỞ ĐẦU
1
Chƣơng I – TỔNG QUAN

4
1.1. Tình hình nghiên cứu cỏ biển trên thế giới
4
1.2. Tình hình nghiên cứu cỏ biển ở Việt Nam
13
1.3. Khái niệm và đặc điểm hình thái của cỏ biển
16
1.4. Vai trò của cỏ biển
18
1.5. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sống của Cỏ biển
18
1.5.1. Chất đáy
18
1.5.2. Độ muối
20
1.5.3. Nhiệt độ
20
1.5.4. Độ đục
20
1.5.5. Ánh sáng
21
1.6. Một số đặc điểm tự nhiên vùng nghiên cứu
21
Chƣơng II – ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
23
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu
23
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
24
2.3. Tài liệu nghiên cứu

25
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
25
2.4.1. Nghiên cứu thực địa
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

2.4.1.1. Thu mẫu sinh học cỏ biển
25
2.4.1.2. Thu hạt cỏ biển
26
2.4.2. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
27
2.4.2.1. Phƣơng pháp định loại
27
2.4.2.2. Ƣơm hạt cỏ biển
27
2.4.2.3. Trồng cỏ biển
28
2.4.2.4. Phân tích trầm tích
29
2.4.2.5. Quan trắc một số yếu tố môi trƣờng
29
2.4.2.6. Xử lý số liệu
29
Chƣơng III – KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
30
3.1. Đặc điểm hình thái của loài cỏ Xoan trong đầm nuôi thủy sản
30
3.1.1. Thân

30
3.1.2. Rễ
30
3.1.3. Lá, phiến lá
31
3.1.4. Vảy lá
31
3.1.5. Hoa
32
3.1.6. Quả và hạt
32
3.2. Một số đặc điểm sinh thái của loài cỏ Xoan
33
3.2.1. Một số thông số môi trƣờng trong đầm nuôi
33
3.2.1.1. Nhiệt độ nƣớc
34
3.2.1.2. Cƣờng độ ánh sáng
34
3.2.1.3. Nồng độ muối
34
3.2.1.4. Nền đáy
35
3.2.2. Sự biến động theo mùa của cỏ biển trong đầm nuôi
36
3.2.2.1. Phân bố và diện tích
36
3.2.2.2. Biến động các chỉ tiêu sinh lƣợng
37
3.2.3. Mùa ra hoa của cỏ Xoan

42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

3.3. Khả năng nảy mầm của hạt cỏ Xoan
43
3.3.1 Kết quả thu hạt
43
3.3.1.1. Thu trực tiếp trên cây
43
3.3.1.2. Thu trong trầm tích
43
3.3.2. Kết quả ƣơm hạt
44
3.3.3. Kết quả gieo trồng
45
3.3.3.1. Hình thái
45
3.3.3.2. Tỷ lệ sống
46
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
47
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
50
PHỤ LỤC
57













MỞ ĐẦU
Cỏ biển (Seagrass) là nhóm thực vật bậc cao (ngành Anthophyta, lớp
Monocotyledons, bộ Helobiae), sống trong môi trƣờng nƣớc mặn và lợ. Hệ
sinh thái cỏ biển (Seagrass ecosystem) là một trong những hệ sinh thái
điển hình của vùng biển nhiệt đới (cùng với san hô và rừng ngập mặn), có
năng suất sơ cấp cao, khả năng ổn định nền đáy, tổng hợp các chất hữu cơ
từ vô cơ, tham gia vào chuỗi thức ăn, chu trình dinh dƣỡng và là nơi sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

cho nhiều loài sinh vật có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trên các thảm cỏ
biển, con ngƣời thu đƣợc nhiều lợi ích trực tiếp và gián tiếp khác nữa [6].
Cho đến nay, tại các vùng ven biển Việt Nam đã phát hiện đƣợc khoảng
14 loài cỏ biển, trong đó có loài cỏ Xoan - Halophila ovalis (R. Br) Hook. f.
(thuộc chi Halophila, họ Hydrocharitaceae). Về hình thái, loài cỏ Xoan tƣơng
đối giống rong biển (các loài thuộc chi Caulerpa) nhƣng thực chất lại hoàn
toàn khác ở chỗ cỏ biển là thực vật bậc cao có thân, rễ, lá, hoa và quả [8], [9],
[11].
Chi Halophila là một trong số ít các chi có liên quan tới nguồn gốc xuất
hiện sớm nhất của cỏ biển trong quá trình tiến hóa [19]. Halophila có khả
năng tồn tại ở những vùng luôn bị tác động, ánh sáng yếu và độ đục cao.
Halophila có vùng phân bố rộng và giữ vai trò “tiên phong” trong khả năng

mở rộng những vùng biển sâu hơn với các loài khác [62]. Ở Việt Nam, chi
Halophila có 4 loài, phân bố tƣơng đối rộng và cỏ Xoan Halophila ovalis là
một loài cỏ biển nhiệt đới phân bố ở các vùng triều và cả vùng nƣớc sâu [19],
[38], [62] có sinh khối thấp so với các loài khác [17], nhƣng lại có chu kỳ sinh
trƣởng nhanh hơn các loài các bởi kích thƣớc nhỏ bé của chúng [22], [62].
Chịu nhiều tác động (nơi có nhiều hoạt động của con ngƣời (nhƣ đổ thải, khai
hoang lấn biển, xây dựng, v.v) và các tác động bất lợi từ thiên nhiên (nhƣ
sóng, dòng chảy, phù sa, v.v) nên diện tích phân bố ngày càng bị thu hẹp. Tại
một số vùng trƣớc kia có cỏ Xoan thì đến nay hầu nhƣ không còn nữa [9].
Ở các vùng ven biển Đông Nam Á, các nghiên cứu cho thấy các thảm cỏ
biển đang dần biến mất. Ở Indonesia khoảng 30 - 40% các thảm cỏ biển bị
mất trong khoảng 50 năm qua, trong đó riêng ở Java bị mất khoảng 60% [58].
Ở Philippin các thảm cỏ biển bị mất khoảng 30 – 50%, còn ở Thái Lan, con số
này khoảng 20 – 30%. Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng trên với
50% tổng diện tích cỏ biển đã biến mất trên khắp các vùng ven biển cả nƣớc
[6].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Cát Hải là một huyện đảo thuộc thành phố Hải Phòng. Trong những
năm trƣớc đây (trƣớc 1995), có thể thu đƣợc mẫu cỏ Xoan tại nhiều nơi (trong
và ngoài đầm nuôi trồng hải sản) nhƣng đến nay, cỏ Xoan chỉ còn thấy trong
một số đầm nuôi. Kết quả nghiên cứu về cỏ biển (nói chung) và cỏ Xoan (nói
riêng) ở nƣớc ta chƣa nhiều và tại Cát Hải thì hầu nhƣ chƣa có. Một vài công
trình về cỏ biển tại Cát Hải chủ yếu nghiên cứu về thành phần loài, phân bố
chƣa nghiên cứu về đặc điểm sinh học, mùa vụ, sinh sản, [1], [10].
Việc phục hồi các hệ sinh thái trên cạn đã đƣợc nghiên cứu từ lâu và
đang có một số kết quả khá tốt, nhƣng phục hồi các hệ sinh thái dƣới nƣớc,
nhất là ở biển mới chỉ đƣợc bắt đầu trong vài thập niên gần đây. Phục hồi hệ
sinh thái cỏ biển còn gặp khó khăn hơn nhiều do cỏ biển thƣờng phân bố tại
các vùng nƣớc nông ven bờ, nơi có nhiều hoạt động của con ngƣời (nhƣ đổ

thải, khai hoang lấn biển, xây dựng, v.v) và các tác động bất lợi từ thiên nhiên
(nhƣ sóng, dòng chảy, phù sa, v.v). Một khó khăn nữa khi trồng phục hồi cỏ
biển bằng chồi là kinh phí rất tốn kém, khó thực hiện trên diện rộng vì không
đủ nguồn giống cung cấp và hiệu quả thấp. Hơn nữa, phƣơng pháp trên còn
làm ảnh hƣởng không nhỏ tới bãi cỏ biển hiện có. Việc trồng bằng hạt các
loài cỏ biển có rất nhiều ƣu thế và có thể trồng đƣợc trên diện tích rộng,
nhƣng việc trồng phục hồi các thảm cỏ biển bằng hạt chƣa đƣợc nghiên cứu
nhiều hoặc mới ở mức ý tƣởng.
Kết quả nghiên cứu về một số đặc điểm sinh học, sinh thái, biến động
theo mùa, khả năng cho nảy mầm hạt loài cỏ Xoan sẽ góp phần quan trọng
không những trong việc bổ sung những hiểu biết chung về hệ sinh thái cỏ biển
mà còn có ý nghĩa rất lớn trong việc trồng phục hồi loài này ngoài tự nhiên.
Chính vì thế, chúng tôi đã chọn đề tài: “Đặc điểm sinh học loài cỏ Xoan -
Halophila ovalis (R.Br.) Hook. f. trong đầm nuôi thủy sản huyện Cát Hải -
Hải Phòng và khả năng nảy mầm của hạt trong phòng thí nghiệm” làm báo
cáo cho luận văn tốt nghiệp cao học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN



Chƣơng I - TỔNG QUAN
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vào đầu thế kỷ 20, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học sinh
học, lần đầu tiên cỏ biển đã đƣợc các nhà khoa học nghiên cứu tại trạm Sinh
thái học Copenhagen, Đan Mạch. Ngay sau đó, đã đạt đƣợc những thành tựu
đáng kể. Trong đó, Ostenfeld (1905) và Pertersen và Boyer - Jensen (1905) là
những ngƣời đã bƣớc đầu mở rộng việc nghiên cứu sinh thái trên cỏ lƣơn
[52], [53]. Những đặc điểm sinh học và sinh thái của cỏ biển đã sự quan tâm
của các nhà khoa học ngay từ khi đối tƣợng này đƣợc biết đến. Đến nay, công
việc điều tra nguồn lợi biển này đã đƣợc mở rộng trên phạm vi toàn thế giới,

số lƣợng các công trình nghiên cứu đã và đang tăng lên một cách nhanh
chóng.
Công việc định loại của cỏ biển chủ yếu dựa vào đặc điểm hình thái của
các cơ quan trên cây, nhất là cơ quan sinh sản bởi ngay trong một chi các loài
thƣờng có hoa khác nhau. Để làm đƣợc điều đó, phải kể đến Den Hartog
(1970), Phillips và Meñez (1988) là những nhà phân loại học cỏ biển. Họ đã
có những đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu về sinh thái học cỏ biển.
Điều đó thể hiện ở hai cuốn sách về hệ thống phân loại: “Cỏ biển thế giới -
The seagrass of the world” của Den Hartog (1970) và “Cỏ biển - Seagrass”
của Phillips và Meñez (1988). Các nhà phân loại học đã đƣa ra đƣợc những
đặc điểm cơ bản để phân loại cỏ. Hệ thống phân loại cỏ biển chủ yếu dựa trên
các đặc điểm chung giống nhƣ với thực vật có hoa khác nhƣ: cụm hoa, hoa,
quả, hạt, hệ gân lá, chất tanin, răng cƣa ở mép lá và đỉnh lá [15], [53].
Xác định hệ thống phân loại cỏ biển là rất cần thiết, nó là tiền đề cho các
hƣớng nghiên cứu về cỏ biển ở các khía cạnh khác nhau của hệ thực vật biển
này. Do đó không thể chỉ dựa trên việc giải phẫu hình thái mà ngày nay ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

ta còn dựa trên di truyền học, phân tích phân tử [29]. Đó là bƣớc tiến mới
trong khoa học sinh học nói chung và trong nghiên cứu cỏ biển nói riêng.
Nhiều tác giả cũng đã có những bất đồng về số loài thuộc ba chi Halophila,
Zostera và Posidonia [29]. Quả thật, khi sử dụng phƣơng pháp đánh dấu phân
tử Les và cộng sự (1997) nhận thấy sự khác biệt về di truyền giữa
Heterozostera và Zostera giống với các loài thuộc chi Zostera, điều đó cho
thấy 2 chi này nên xác định trong cùng 1 chi [36]. Nhƣng cho đến nay, điều
này vẫn đang tiếp tục bàn luận và cần tiếp tục nghiên cứu. Cũng có thể do sự
phân bố của cỏ biển rộng khắp trên địa cầu, nên nó chịu tác động rất lớn của
điều kiện địa lý và có thể do điều kiện tự nhiên đã tác động đến hình thái
ngoài của cỏ biển. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm di truyền bộ nhiễm sắc thể
của chúng để phân loại là rất cần thiết. Và cần có sự kết hợp giữa hình thái

học và di truyền học để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong định loại cỏ
biển.
Năm 1950, đã có sự thay đổi trong hƣớng nghiên cứu về cỏ biển
với một báo cáo hoàn thiện về sự phân bố và sinh thái của cỏ biển ở bang
Florida (Mỹ). Sau bài báo này, nhiều nhà nghiên cứu bƣớc đầu tập trung
nghiên cứu các thành phần trong hệ sinh thái cỏ biển nhiệt đới. Từ năm
1960 đến năm 1970 nghiên cứu cỏ biển đã rộng hơn về mô tả định tính và
các nghiên cứu về định lƣợng. Các quan niệm về hệ sinh thái cỏ biển đã
đƣợc hoàn chỉnh và đẩy đủ hơn. Một nghiên cứu đồ sộ về cỏ Lƣơn ở
Alaska đã đƣợc hoàn thiện vào năm 1966 bởi McRoy [53].
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học cỏ biển, thì cần phải có sự
phối hợp, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức giữa các nhà khoa học nghiên
cứu về cỏ biển. Do vậy, lần đầu tiên một cuộc hội thảo quốc tế đƣợc tổ chức
vào năm 1973 tại Leiden, Hà Lan, do Viện Khoa học Quốc gia Hà Lan tài trợ,
bao gồm 38 nhà khoa học từ 11 nƣớc trên thế giới. Hội thảo này chủ yếu đƣa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

ra những kết quả và thảo luận về những nghiên cứu đã đƣợc thực hiện và
những ý kiến đóng góp về những vấn đề sẽ làm trong tƣơng lai. Từ sau hội
thảo quốc tế này, số lƣợng các công trình nghiên cứu cỏ biển đã tăng lên
nhanh chóng ở nhiều nơi trên thế giới đặc biệt ở Nhật, Úc, Pháp, Hà Lan, Ấn
Độ, Canada, Papua New Guinea và Phillipine. Và cho đến năm 1978, các nhà
khoa học đã liệt kê đƣợc một thƣ mục sách tham khảo về nghiên cứu sinh thái
cỏ biển bao gồm hơn 1400 bài trên toàn thế giới [64]. Vào năm 1982, một
phân tích về cỏ biển ở Nam Florida đã bao gồm hơn 550 tài liệu tham khảo
[53]. Điều đó chứng tỏ rằng số lƣợng các nghiên cứu về cỏ biển đã tăng lên
nhanh chóng. Và từ cuộc hội thảo về hệ sinh thái cỏ biển lần thứ I ở Leiden,
Hà Lan cho đến nay, thì các cuộc hội thảo quốc tế về cỏ biển lần thứ II, III và
thứ IV nữa đã lần lƣợt đƣợc diễn ra. Vào năm 1998 - năm quốc tế đại dƣơng,
hơn 100 nhà khoa học đã tập trung tại cuộc hội thảo cỏ biển lần thứ III đƣợc

tổ chức tại Philippine. Hội thảo về cỏ biển vào năm quốc tế đại dƣơng đã
phản ánh đƣợc sự trƣởng thành của khoa học cỏ biển và những tiền đề cho
việc quản lý hệ sinh thái quan trọng này và những việc cần làm trong tƣơng
lai. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học trên thế giới, sự tạo lập một
mạng lƣới nghiên cứu trên toàn cầu là mục tiêu của cuộc hội thảo quốc tế lần
thứ IV vào năm 2000 tại đảo Corsica, Pháp. Những cuộc hội thảo nhƣ vậy đã
thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà khoa học, nhất là các nhà khoa học trẻ
muốn đi sâu nghiên cứu hơn nữa.
Kiến thức về cỏ biển ngày càng đƣợc mở rộng và nâng cao thể hiện ở số
lƣợng các bài báo về cỏ biển đƣợc công bố ngày càng nhiều trên các tạp trí
lớn trên thế giới [20]. Trong những năm gần đây, mỗi năm đã có khoảng 100
bài báo đƣợc xuất bản, nhƣng chủ yếu tập trung ở một số tạp trí lớn nhƣ:
Thuỷ sinh học (Aquatic Botany), Sinh thái học Biển (Marine Ecology
Progress Series) và Tạp chí Sinh học và Sinh thái Biển (Journal of
Experimental Marine Biology and Ecology). Tuy số lƣợng các công trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

nghiên cứu tăng lên nhƣng chƣa đồng đều. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung
ở các nƣớc phát triển, nhất là Châu Âu còn ở các nƣớc đang phát triển thì cỏ
biển thực sự là một đối tƣợng mới mẻ, chƣa đƣợc sự quan tâm đúng đắn của
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ [20]. Vì vậy, trong những năm gần
đây, đã có nhiều dự án phối hợp giữa các nƣớc có nền khoa học cỏ biển phát
triển với những nƣớc đang phát triển nhằm đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ cho
các nƣớc này để tạo khả năng bảo vệ và quản lý nguồn lợi thực vật biển và để
có đƣợc một mạng lƣới nghiên cứu hệ sinh thái cỏ biển hoàn thiện hơn trên
toàn cầu. Trong đó, Việt Nam cũng là một trong những nƣớc Đông Nam Á
bƣớc đầu đã có sự trao đổi sinh viên trong đào tạo về sinh thái cỏ biển với các
nƣớc trong cộng đồng Châu Âu và các nƣớc trong vùng có hệ sinh thái thực
vật biển này.
Trong các nghiên cứu về cỏ biển, các nhà khoa học đã nhận thấy ý nghĩa

sinh thái của sự biến động cấu trúc thân, rễ, tốc độ sinh trƣởng và sự phân
nhánh của thân cỏ và các cơ quan khác. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu tập
trung điều tra tỷ lệ sinh khối trên mặt đất (chồi lá và chồi hoa) và sinh khối
dƣới mặt đất (rễ và thân) của cỏ biển. Trong đó, Verhagen và Nienhuis
(1983), đã mô tả sự thay đổi có tính mùa vụ của sinh khối trên mặt đất và sinh
khối dƣới mặt đất của ở cỏ lƣơn bởi kỹ thuật đánh dấu trên lá [62]. Xác định
sinh khối (sinh khối trên và dƣới mặt đất) của cỏ biển và đánh giá vai trò của
chúng trong hệ sinh thái là rất quan trọng [17], [51]. Trong đó hệ thân, rễ cỏ là
cơ quan giúp cây sinh sản vô tính, một thành phần quan trọng của hệ sinh thái
này. Tuy nhiên, Nelsson (1997) cho rằng sinh khối trên và tổng sinh khối có
mối liên quan chặt chẽ với nhau, nhƣng sinh khối dƣới thì không [48]. Kiểm
tra sinh khối dƣới đƣợc coi nhƣ sự đánh giá khả năng đâm sâu vào trong nền
đáy của cỏ biển và điều đó cũng có thể đƣợc giải thích rằng các chồi mới sinh
ra cần năng lƣợng từ thân hơn là những chồi đã trƣởng thành [17], [64]. Các
cơ quan bên dƣới mặt đất giữ vai trò quan trọng trong dinh dƣỡng, cố định và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

phát triển của cỏ biển. Sự sinh trƣởng và sự phân nhánh của thân ảnh hƣởng
đến biến động, sinh trƣởng và tồn tại của quần thể sinh sản vô tính [51]. Điều
đó rất cần thiết trong môi trƣờng biển, nơi có nhiều tác động đến những biến
động của hệ thực vật là vô cùng quan trọng.
Bên cạnh sự duy trì và phát triển quần thể bằng cách sinh sản vô tính
bằng thân chồi, cỏ biển còn sinh sản bằng hạt. Cách đánh giá khả năng sinh
sản của cỏ biển là số lƣợng các cây con đƣợc nảy mầm từ hạt vào mùa ra hoa,
hay số lƣợng hạt từ cây mẹ. Những hạt ở trạng thái ngủ dài bị chôn vùi trong
nền đáy và có khả năng hình thành nguồn dự trữ mà cho phép nó nảy mầm
trong điều kiện thích hợp đƣợc gọi là ngân hàng hạt. Theo nghiên cứu của
Hootsmans và cộng sự (1987), hạt thƣờng nảy mầm ở nhiệt độ cao và nồng độ
muối thấp, và sự nảy mầm sẽ giảm ở nhiệt độ thấp và nồng độ muối cao. Vì
vậy, có hiện tƣợng ngủ đông của hạt [30].

Việc thí nghiệm di trồng cỏ biển trong phòng thí nghiệm đƣợc tiến hành
từ rất lâu. Trƣớc tiên là những thí nghiệm để tìm hiểu khả năng phát triển của
cỏ biển trong điều kiện môi trƣờng đƣợc kiểm soát và sau đó là trồng cỏ trong
phòng thí nghiệm cho mục đích tìm hiểu khả năng ra hoa, tạo quả và lấy hạt.
Có thể nói Setchell (1924) [56] là ngƣời đầu tiên đã trồng cỏ Kim
(Ruppia maritima) trong các bể sinh cảnh. Sau đó, từ thập niên 60 trở đi, có
nhiều công trình nuôi cỏ biển nhƣ Fuss và Kelley (1969) và Kirkman (1989)
nghiên cứu trồng cỏ Thalassia testudium đƣợc 12 tháng trong bể nuôi có nƣớc
biển chảy lƣu thông [26], [32]. Họ đã lƣu ý rằng thân ngầm của cỏ biển phát
triển chậm và đề nghị chỉ dùng phần nhỏ còn non ở đầu ngọn của thân ngầm
(có thân đứng) để trồng và họ cũng cho rằng nuôi cỏ ngoài trời, dƣới ánh sáng
tự nhiên thành công hơn là nuôi trong điều kiện ánh sáng đèn. Các thí nghiệm
trồng cỏ biển ở quy mô trong phòng thí nghiệm đƣợc thực hiện bởi
McMillan[ 39], [40], [41], [42], [43], [44], [45], [46] đã dùng bể nhựa dung
tích 500 lít. Kết quả là họ đã nuôi cỏ biển đƣợc 2 năm, họ đã nuôi thử nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

các loài cỏ biển thƣờng có hoa thuộc 10 chi cỏ biển khác nhau là: Thalassia,
Thalassodendron, Syringodium, Halodule, Halophila, Enhalus, Zostera,
Amphibolis, Posidonia và Cymodocea. Các thí nghiệm này đƣợc nuôi ngoài
trời và cả trong bể sinh cảnh (ánh sáng đèn điện), nhằm mục đích xem xét khả
năng phát triển thân ngầm, thân đứng, các sự biển đổi về hình thái và khả
năng ra hoa, quả. Các loại cỏ này đƣợc trồng từ cơ quan sinh sản sinh dƣỡng
(thân đứng, thân ngầm) thu hái trong các thảm cỏ ngoài tự nhiên. Yếu tố chất
đáy rất quan trọng. Các thử nghiệm đã dùng nhiều loại chất đáy khác nhau.
Thí nghiệm có kết quả tốt nhất đối với chất đáy là cát mịn có nguồn gốc đá
vôi lục địa của bang Texas, cách vịnh Mexico khoảng 300 km. Sử dụng nƣớc
biển nhân tạo có độ mặn 35‰ và ánh sáng nhân tạo đƣợc duy trì ở mức 8.000
– 40.000 lux. Nhiệt độ đƣợc điều chỉnh giống nhƣ điều kiện nơi lấy giống (18
- 30

0
C).
Orth và Moore (1983) đã kiểm tra sự nảy mầm của hạt thông qua số
lƣợng cây con thu đƣợc trong năm. Tại cùng Thái Bình Dƣơng, số lƣợng hạt
nảy mầm cao nhất trong thời điểm từ tháng 4 đến tháng 7, trong khi ở vùng
biển Đại Tây Dƣơng có hai giai đoạn hạt nảy mầm. Giai đoạn thứ nhất hạt
nảy mầm vào cuối thu, giai đoạn hai có khoảng 66% hạt nảy mầm từ tháng 12
đến tháng 3 năm sau. Các cây con rất dễ bị tổn thƣơng, tỷ lệ sống là rất thấp
(xấp xỉ 2%) và cỏ biển có tỷ lệ sống dạng cổ chai trong suốt vòng đời của nó.
Nghĩa là có khoảng 10% cây trƣởng thành ra hoa, 10% số hoa trên sẽ hình
thành quả, 1% - 10% số quả ấy có hạt hình thành và 1% - 10% số hạt trên sẽ
nảy mầm, 1% - 10% hạt nảy mầm phát triển thành cây con, cuối cùng chỉ có
10% số cây con trên phát triển trƣởng thành và ra hoa [49].
Các yếu tố về hình dạng ngoài và các đặc điểm sinh thái, sinh lý của
từng loài quyết định phƣơng pháp trồng chúng. Có 5 mục tiêu chính đƣợc đặt
ra cho việc nghiên cứu di trồng và trồng phục hồi thảm cỏ biển đó là:
- Độ phủ của các thảm thực vật biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

- Cân bằng diện tích bao phủ của các thảm thực vật và các diện tích phân
bố của chúng đã bị suy giảm hoặc mất đi
- Gia tăng diện tích của các thảm thực vật này nếu có thể
- Thay thế đúng loài chúng ta mong muốn vào các khu vực cỏ biển bị
mất đi
- Sau cùng là để bảo đảm sự đa dạng sinh học và phát triển các quần xã
động vật sống trong hệ sinh thái.
Có nhiều phƣơng pháp di trồng cỏ biển nhƣng tổng quát có thể tập hợp
thành 3 phƣơng pháp chính [16]:
- Đào bứng thân đứng cùng với nguyên rễ và phần trầm tích còn dính với
rễ (phƣơng pháp 1)

- Dùng hạt (phƣơng pháp 2)
- Dùng thân đứng, thân ngầm không có rễ (phƣơng pháp 3)
Ở phƣơng pháp 1, có nhiều cách để lấy phần thân đứng với cùng nguyên
bộ rễ. Đối với những loài cỏ nhỏ có thể dùng ống nhựa hoặc ống kim loại cắm
xuống bùn để lấy, sau đó vận chuyển nguyên cả khối này đặt vào các hốc đã
đào sẵn ở nơi định di trồng. Thuận lợi của phƣơng pháp này là một lƣợng lớn
thân ngầm còn nguyên rễ và trầm tích đƣợc di chuyển đến nơi trồng mới làm
cho cỏ biển dễ thích nghi và phát triển, tuy nhiên sự bất lợi của phƣơng pháp
này là phải đào hố, làm đục nƣớc, xáo trộn nơi cƣ trú sinh vật, có thể gây xói
lở, thêm vào đó rất tốn công.
Phƣơng pháp 2, dùng hạt dễ dàng hơn nhờ việc thu thập các cây đã có
quả đã gần chín từ các bãi cỏ ngoài tự nhiên rồi giữ các cây này trong nƣớc
biển cho đến khi hạt đƣợc phóng thích. Thuận lợi của phƣơng pháp này là
một số lƣợng lớn hạt thu đƣợc, kiểm soát đƣợc nguồn giống, không gây xáo
trộn và việc trồng đƣợc dễ dàng, nhanh chóng trên một diện tích lớn. Tuy
nhiên bất lợi của phƣơng pháp này là tác động cơ học của nƣớc biển có thể
làm cho hạt cỏ bị vùi lấp, di chuyển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Phƣơng pháp 3, dùng thân đứng và phần thân ngầm không có rễ với các
đoạn ngắn từ 2 – 20 cm tuỳ loài. Các đoạn thân này có thể đƣợc trồng riêng lẻ
hay ghép thành nhóm. Có thể dùng một đoạn thép để cắm xuống nền đáy nhƣ
là một cái neo cài. Hoặc 5 - 6 cây có thể đƣợc buộc chung rồi neo cắm xuống
đáy bằng một đoạn thép.
Là thực bậc cao trong môi trƣờng biển, khả năng sinh sản bằng hạt là
cách ƣu việt trong việc bảo tồn giống cũng nhƣ việc phát tán và lan truyền các
thảm cỏ. Sự tạo hoa và quả của các loài cỏ biển phụ thuộc vào nhiều điều kiện
môi trƣờng, chủ yếu là các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ và độ mặn. Mc Millan
(1982), đã nghiên cứu thực nghiệm ở Taxas trong các điều kiện để cho các
loài cỏ biển phân bố ở miền Tây Đại Tây Dƣơng và ấn Độ - Thái Bình Dƣơng

có thể tạo hoa và quả. Các chi Halodule, Thalassia, Syringodium và
Halophila xuất hiện cơ quan sinh sản trong điều kiện chiếu sáng liên tục và
nhiệt độ từ 20 - 26
0
C. Một vài loài của chi Halophila chỉ ra hoa ở nhiệt độ
26
0
C [43].
Cỏ biển có tuổi thọ trung bình từ vài tuần đến hang chục năm, phụ thuộc
vào kích thước của từng loài. Những loài cỏ có kích thước lớn với thân dày,
lá rộng và rễ dày có thể sống rất lâu trong nhiều năm, nhưng những loài có
kích thước nhỏ thì thời gian sống ngắn hơn chỉ dưới một tháng. Do chu kỳ
sống của chúng rất ngắn, nên những loài cỏ có kích thước nhỏ thường có khả
năng tái sinh chồi rất nhanh, ví dụ kích thước cỏ Halophila ovalis nhỏ nhưng
chu kỳ sống của chúng chỉ khoảng vài tháng, còn Posidonia oceanica có thể
sống tới 11 năm [16].
Cấu trúc của cỏ biển còn phụ thuộc vào đặc điểm vùng phân bố. Các
loài có kích thước nhỏ thường mọc trên các vùng triều, còn cỏ có kích thước
lớn thường thấy ở vùng thấp triều và dưới triều. Thêm vào đó, cỏ trên nền đáy
nhiều cát có lá hẹp hơn cỏ trên nền đáy nhiều bùn. Hơn nữa, vùng nước nông
là nơi chịu ảnh hưởng của sự thay đổi môi trường nhiều hơn vùng nước sâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Thực vật sống ở vùng nước nông thường bị ảnh hưởng của ánh nắng mặt trời
nhiều, trong khi thực vật vùng nước sâu chỉ nhận được rất ít [38]. Nhưng khả
năng chịu tác động và khả năng phục hồi của thảm cỏ biển ở vùng nước sâu
rất khác với các quần xã cỏ biển ở vùng nước nông, chúng có khả năng chống
chịu trước những cơn bão nhưng khả năng phục hồi thì chậm chạp. Đây là
một đặc trưng rất điển hình đối với cỏ biển vùng nhiệt đới [63].
Cỏ biển là thực vật hạt kín sống hoàn toàn trong môi trường biển.

Những nhu cầu về sinh trưởng cũng giống với thực vật hạt kín trên cạn. Tuy
nhiên, trong môi trường biển cỏ biển vẫn có những khác biệt về một số đặc
điểm đối với thực vật sống trên cạn. Các nhà khoa học đều nhất trí rằng sự
phân bố và sự phát triển của cỏ biển bị tác động bởi các yếu tố môi trường.
Tất cả những biến đổi đó đều rất quan trọng đối với cỏ biển. Các yếu tố môi
trường quan trọng tác động lên các thảm cỏ biển như ánh sáng, độ đục, trầm
tích Trong đó, cỏ biển bị tác động mạnh bởi hai nhât tố chính là: ánh sáng
và sự lắng đọng trầm tích. Sự sinh trưởng và phát triển của cỏ biển chịu sự
chi phối của ánh sáng, một nhân tố quan trọng cho khả năng quang hợp của
cỏ biển. Sự phân bố theo độ sâu của cỏ biển chủ yếu phụ thuộc vào thời gian
chiếu sáng ngày. Vào thập kỷ trước, các nhà nghiên cứu cỏ biển đã tìm hiểu
về khả năng quang hợp của cỏ biển trong môi trường nước biển bị hạn chế
ánh sáng. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu sản lượng và sinh khối của cỏ và
vai trò của chế độ ánh sáng lên sự sinh trưởng của cỏ [38].
Khả năng quang hợp của cỏ biển đã được nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm đối với các mức ánh sáng khác nhau [15]. Ánh sáng không chỉ bị chi
phối bởi độ cao triều và độ đục của nước, mà nó còn chịu ảnh hưởng bởi mật
độ thực vật biểu sinh sống bám trên bề mặt của phiến lá cỏ. Hiện tượng phì
dinh dưỡng ở vùng bờ biển Hà Lan đã phá huỷ các thảm cỏ biển Z. marina và
Z. noltii. Hiện tượng phì dinh dưỡng kết hợp với sự lắng đọng bùn làm giảm
ánh sáng khuyếch tán tới các thảm cỏ biển. Hạn chế sự phát triển của cỏ biển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

cũng chính làm giảm các yếu tố bảo vệ cho nền đáy hay tăng sự xáo trộn nền
đáy vì vậy giảm ánh sáng là làm hạn chế sự phát triển của các thảm cỏ.
Trong giai đoạn từ năm 1968 đến 1981, hàm lượng chlorophyll tăng lên gấp
đôi ở vùng biển phía tây Hà Lan, và điều đó cũng ảnh hưởng đến thực vật
biểu sinh tăng nhanh. Tất cả những điều đó đã tác động tiêu cực đến sự
quang hợp và sự sinh trưởng của cỏ biển gây ra sự cạnh tranh về các-bon và
nguồn dinh dưỡng làm giảm sút chất lượng nguồn lợi cỏ biển [29].

Các loài cỏ biển có kích thƣớc nhỏ thƣờng rất dễ bị tổn thƣơng dƣới sức
ép của nƣớc và sự lắng đọng trầm tích. Đó cũng là một trong những nguyên
nhân làm giảm khả năng phát triển diện tích một cách nhanh chóng của các
thảm cỏ biển ở vùng biển đông nam Châu Á [24]. Sự nhiễu loạn ở các vùng
biển cũng dẫn đến các thảm cỏ biển có hệ số đa dạng Shanon - Weaver thấp
hơn so với các tổ chức thực vật biển khác. Các thảm cỏ biển thƣờng là đơn
loài, với hệ số đa dạng thấp nhất là 0. Chỉ số đa dạng Shanon - Weaver cao
(1,56) là thảm cỏ biển gồm 7 loài ở vùng biển Bolinao (Philippines), và chỉ số
lớn hơn 1 là vùng Ấn Độ - Thái Bình Dƣơng [29].


1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Việt Nam là một nƣớc có vùng bờ biển dài hơn 3000 km thuộc vùng
biển Đông Nam Á, là nơi có sự đa dạng sinh học cao trên thế giới. Trong
những năm gần đây, Đông Nam Á đƣợc coi là vùng có khả năng phát triển
nền khoa học về cỏ biển nhanh bởi sự đa dạng về thành phần loài (nhất là
Philippines, có chỉ số đang dạng thuộc loại cao 1,56) [9]. Cũng nhƣ các vùng
bờ biển khác, Việt Nam cũng có các hệ sinh thái thực vật biển phong phú,
trong đó có hệ sinh thái cỏ biển. Tuy nhiên, những hiểu biết về hệ sinh thái
này vẫn còn hạn chế và chƣa đƣợc sự quan tâm nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Việc phát hiện và nghiên cứu cỏ biển trƣớc năm 1960 hoàn toàn do
ngƣời nƣớc ngoài thực hiện. Năm 1885, Halophila ovalis đã đƣợc một ngƣời
nƣớc ngoài tên là Balansa phát hiện thấy ở gần Quảng Yên. Năm 1939, Tsang
đã thu đƣợc một loài có phiến lá dài và mỏng ở Hà Cối - Quảng Ninh, đó là
phát hiện đầu tiên về loài Zostera japonica ở Việt Nam; hai loài Thalassia
hemprichii và Halodule pinifolia đƣợc tìm thấy ở Cửa Bé - Khánh Hoà vào
năm 1949 bởi chuyên gia cỏ biển tên là Deroux [9].
Từ những phát hiện bƣớc đầu về sự có mặt của một số loài cỏ biển ở

vùng biển nƣớc ta, những nhà khoa học trong nƣớc cũng bắt đầu nghiên cứu
cỏ biển từ năm 1960 trở về đây. Phạm Hoàng Hộ đã ghi lại những phát hiện
về cỏ biển ở Qui Nhơn (1960) và ở Phú Quốc (1985) [9]. Tổng số 15 loài cỏ
biển đƣợc phát hiện từ trƣớc đến nay, nhƣng số lƣợng loài thay đổi giữa 3
miền (miền Bắc 5 loài, miền Trung 7 loài và nhiều nhất là ở miền Nam có 11
loài). Thành phần loài giữa các miền cũng khác nhau, có nhiều loài chỉ xuất
hiện tại một miền mà không có ở nơi khác.
Ở Việt Nam, các hoạt động gây mất hay suy giảm các thảm cỏ biển xảy
ra mạnh khoảng hai thập niên gần đây. Theo thống kê, diện tích các thảm cỏ
biển của nƣớc ta đã giảm đi 40 – 60% (riêng ở vùng biển Hải Phòng, nơi mà
các hoạt động nuôi thủy sản, du lịch và xây dựng xảy ra mạnh mẽ, các thảm
cỏ biển này gần nhƣ đã biến mất) [1], [2], [3], [6], [9], [10].
Các loài cỏ biển đều có thể sinh sản bằng hạt (sinh sản hữu tính) và bằng
chồi (sinh sản sinh dƣỡng). Cho đến nay, tại Việt Nam đã có nghiên cứu về
trồng phục hồi cỏ biển (trồng bằng chồi) và kết quả bƣớc đầu đạt đƣợc còn
hạn chế, vì phần lớn các bãi cỏ biển đƣợc trồng phục hồi đều đã bị tàn phá bởi
con ngƣời và tự nhiên [1], [8].
Việc di trồng cỏ biển lần đầu tiên thực hiện với loài cỏ lá Dừa Enhalus
acoroides. Loài này đã đƣợc di trồng trong tự nhiên vùng Đầm Già, Hòn Tre,
vịnh Nha Trang về khu vực gần cảng Cầu Đá, Nha Trang, trong khuôn khổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

thử nghiệm nhỏ [1]. Khoảng 300 thân đứng cỏ Lá dừa đƣợc di trồng (Phƣơng
pháp 2). Sau 2 năm chúng phát triển gần nhƣ tự nhiên với mật độ tăng gấp 3
lần, có nơi bao phủ đến 60%.
Việc thu quả đã già của cỏ lá Dừa (140 hạt) và cỏ Vích (180 hạt) ở Sông
Lô (vịnh Nha Trang) cho vào các bể thí nghiệm, sau 2 – 4 ngày hạt đƣợc giải
phóng. Số hạt trên đƣợc gieo trong các bể kính có kích thƣớc 40 x 80 x 60
cm, đáy phủ một lớp bùn pha cát dày khoảng 20 cm có tỷ lệ bùn và cát là 1: 3
(bùn nhuyễn ở biển và cát mịn). Nƣớc biển đƣợc để lắng trong và cho chảy

tràn liên tục qua bể từ 8 giờ sang đến 4 giờ chiều hằng ngày với khả năng có
thể thay đƣợc khoảng 200 lít/giờ (100% nƣớc trong bể/ngày). Dùng ánh sáng
tự nhiên, có che lƣới đen, mỏng để giảm bớt cƣờng độ ánh sáng và nhất là
bức xạ nhiệt. Kết quả sau 10 ngày, hạt cỏ Vích nảy mầm với tỷ lệ 98,4% và
97,2% với cỏ Lá Dừa, các cây mầm khi đƣợc 15 ngày tuổi đều xuất hiện rễ và
có từ một đến ba lá. Sau ba tháng ƣơm nuôi ở điều kiện phòng thí nghiệm,
mật độ các cây mầm cỏ Vích là 927 cây/m
2
, cỏ lá Dừa là 708 cây/m
2
[1].
Tại Phân viện Hải dƣơng học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên
và Môi trƣờng biển), Nguyễn Văn Tiến và cộng sự (1998) [7] đã có những
nghiên cứu về các loài cỏ biển ven bờ biển Việt Nam và ông đã đƣa ra
đƣợc một bức tranh tổng quát về sự phân bố và thành phần cỏ biển nƣớc
ta, đặc biệt là nghiên cứu cỏ biển ở vùng biển phía Bắc Việt Nam. Năm
2002, Nguyễn Văn Tiến và cộng sự đã thử nghiệm trong việc trồng một số
loài cỏ biển mang từ miền Nam ra trồng tại miền Bắc, và đã thu đƣợc một
số kết quả nhất định. Đó cũng là những bƣớc khởi đầu cho các nghiên cứu
về hệ sinh thái quan trọng này ở vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, do còn
có những hạn chế nên mới chỉ ở một số bài báo công bố. Vì vậy, những
hiểu biết đầy đầy đủ về đặc điểm sinh học và sinh thái của cỏ biển ở Việt
Nam, nhất là những nghiên cứu về sinh sản phục hồi vẫn còn những giới
hạn nhất định.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

1.3. Khái niệm và đặc điểm hình thái của cỏ biển
Cỏ biển là những thực vật bậc cao, có thân, rễ, lá, hoa, quả và phân bố
chủ yếu ở vùng biển ven bờ. Cỏ biển bao gồm khoảng 60 loài thuộc ngành
Anthophyta, lớp Monocotyledoneae, bộ Hydrocharitales, 2 họ

Potamogetonaceae và Hydrocharitaceae, chia thành 12 chi sống hoàn toàn
trong môi trƣờng nƣớc biển với nồng độ muối trung bình [60]. Các loài cỏ
biển có khả năng chịu đƣợc tác động của sóng và thuỷ triều bởi khả năng bám
chắc vào nền đáy hệ thống rễ phát triển và khả năng thụ phấn trong nƣớc.
Do có hệ rễ phát triển và bám chặt trên nền đáy nên cỏ biển có khả năng
năng chịu đƣợc những tác động của dòng chảy và sóng biển. Vì sống ở vùng
nƣớc nông ven bờ nên cỏ biển thích nghi rộng với các điều kiện sinh học, lý
hóa học và có vai trò quan trọng đối với nguồn lợi cũng nhƣ môi trƣờng ven
biển. Là thực vật một lá mầm có hai hình thức sinh sản: vô tính và hữu tính.
Các quần thể đƣợc duy trì và phát triển chủ yếu nhờ sự phát triển của chồi.
Đặc điểm hình thái của các loài cỏ biển đã đƣợc C. Den Hartog [15] và C.
Phillips and G. Menez [53] mô tả và so sánh. Hầu hết cỏ biển có hình thái
ngoài khá giống nhau, bao gồm thân bò phân đốt, thân đứng, rễ, chồi mang lá,
hoa và quả tùy thuộc vào từng thời điểm sinh trƣởng (hình 1.1). Về cấu trúc,
cỏ biển gồm các phần chính nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


Hình 1.1. Hình thái chung của cỏ biển
Thân:
Thân gồm có phần thân bò (thân ngầm) và chồi đứng (thân đứng). Thân
thƣờng có dạng hình trụ tròn hoặc dẹp; chia nhánh theo kiểu đơn trục hoặc
không có qui luật. Trên thân bò có nhiều đốt, khoảng cách giữa các đốt là
lóng (gióng). Tùy loài mà thân bò mọc ngầm dƣới lớp bùn (cát) đáy hoặc bò
lan trên mặt nền đáy. Từ đốt mọc lên một hay nhiều chồi đứng, mang các lá.
Rễ:
Rễ thƣờng mọc ra từ phần dƣới của thân bò, rễ của mỗi loài đều có đặc
điểm riêng (rễ đơn, phân nhánh) và mang lông hút.
Lá - phiến lá:
Lá hình thành từ mô sinh trƣởng ở các mấu thân; có hình dải dài, ô van

hay trụ tròn. Phiến lá hầu hết đều mỏng, bề mặt phẳng, diện tích lớn, trừ cỏ
Năn biển (Syringodium isetifolium) có lá trụ tròn, tất cả các loài khác đều có
lá dẹp. Ngoài chức năng quang hợp, phiến lá còn có khả năng hấp thụ dinh
dƣỡng và trao đổi khí. Lá cỏ biển còn là nơi sống bám của nhiều loài rong và
động vật không xƣơng sống.
Bẹ lá:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Bẹ lá là phần cuống lá phình ra ôm lấy chồi đứng (thân đứng) và bọc lấy
những lá non đang phát triển. Bẹ lá có dạng lƣỡi nhỏ, màu trắng do không có
lục lạp nên không có chức năng quang hợp.
Hoa, quả và hạt:
Hoa, quả và hạt là cơ quan sinh sản hữu tính của cỏ biển. Ở cỏ biển, một
số có hoa đực và hoa cái trên cùng một cây (lƣỡng tính), số khác có hoa đực
và hoa cái riêng biệt trên mỗi cây (đơn tính). Quả đƣợc hình thành từ sự phát
triển của bầu sau thụ tinh (giao phấn) và mang các hạt bên trong. Hạt đƣợc
hình thành từ sự phát triển của noãn. Hoa, quả và hạt của mỗi loài tùy vào
điều kiện sống mà chúng có cấu trúc và hình dạng khác nhau.
1.4. Vai trò của cỏ biển
Cỏ biển có vai trò rất quan trọng và là một hệ sinh thái biển điển hình
của vùng biển Nhiệt đới [4] và có những vai trò chính nhƣ sau:
Vai trò điều chỉnh: những thảm cỏ biển có thể làm thay đổi các quá trình
sinh thái thủy vực, đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định vùng đới bờ,
góp phần chống xói lở vùng bờ biển. Chúng còn là chỉ thị sinh học và tham
gia làm sạch nƣớc thải công nghiệp và sinh hoạt.
Vai trò cung cấp: nơi nuôi trồng, khai thác, nơi cƣ trú, bãi đẻ, bãi ƣơng
giống, nguồn thức ăn của nhiều loài sinh vật thủy sinh.
Vai trò sản xuất: vật chất hữu cơ, nguồn gen, thực phẩm, nguyên liệu
công nghiệp và năng lƣợng.
Vai trò thông tin: nghiên cứu học tập, du lịch và giải trí.

1.5. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, môi trƣờng sống của Cỏ biển
1.5.1. Chất đáy
Các loài cỏ biển khác nhau có thể phân biệt bởi sự thích nghi của chúng
với các loại chất đáy (bảng 1.1). Zostera japonica thƣờng xuất hiện ở vùng
triều kín, cửa sông hay đầm phá nƣớc lợ trên nền đáy bùn sét bột và bùn nhão.
Halophila ovalis, H. beccarii và Ruppia maritima phổ biến ở vùng triều ven
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

sông, đầm nuôi thủy sản với trầm tích bùn sét và vùng có nền đáy là cát nhỏ.
Một số loài có thể sống trên nền đá, ví dụ loài Phyllospadix spp. có thể mọc
trên nền đá ở vùng bờ biển Thái Bình Dƣơng [29] và một số loài khác nhƣ
Posidonia oceanica và Thalassodendron spp. [35]. Tất cả những loài sinh
trƣởng trên đá cần có bộ rễ cứng cáp, chúng có thể xâm nhập và bám chắc vào
các kẻ hở trên đá. Tuy nhiên, hầu hết các loài cỏ biển đều sinh trƣởng trên nền
đáy cát, bùn nơi bộ rễ của chúng rất dễ dàng bám giữ vào nền đáy và tạo điều
kiện cho hạt cỏ nảy mầm. Ở những vùng có dòng chảy và sóng hoạt động
mạnh làm xáo trộn nền đáy, gây ra sự xói mòn làm tổn thƣơng cỏ biển.
Bảng 1.1. Phân bố cỏ biển với đặc điểm chất đáy
Loại nền
đáy
Dạng nền
đáy
Loài cỏ biển đặc
trƣng
Địa điểm
Bùn
Bùn bột nhỏ
Zostera japonica
Đầm Buôn (Quảng
Ninh)

Bùn sét bột
Halophila ovalis
Cát Bà (Hải Phòng)
Bùn
Ruppia maritime,
Halophila beccarii
Xuân Lộc (Thanh Hóa),
Kim Trung (Ninh Bình)
Bùn cát
Bột lớn
Halodule pinifolia
Hòn Nôm (Quảng Bình)
Cát nhỏ
Halodule pinifolia
Tam Giang – Cầu Hai,
Lăng Cô (Thừa Thiên –
Huế), Côn Đảo (Bà Rịa
– Vũng Tàu)
Bùn cát
Enhalus acoroides
Cam Ranh (Khánh
Hòa),
Phú Quốc (Kiên Giang)
San hô -
cát
Cát san hô
Cymodocea
serrtulata,
Cồn Đảo (Bà Rịa –
Vũng Tàu)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

Thalassia
hemprichii
Cát
Syringodium
isoetifolium
Phú Quốc (Kiên Giang)
(Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2002, 2004, 2008 [8], [9], [11])
1.5.2. Độ muối
Việt Nam là nơi có thành phần cỏ biển nhiệt đới đa dạng với ngƣỡng độ
muối dao động từ 5‰ - 32‰ (Zostera japonica, Halodule pinifolia,
Halophila ovalis), dƣới 25‰ (Halophila beccarii, Ruppia maritima) và trên
25‰ (Enhalus acroides, Thalassia hemprichii, Cymodocea serrulata, C.
rotundata, Thalassodendron ciliatum, Halodule uninervis, Halophila
decipiends, H. minor). Đa số các loài đều sinh trƣởng ở độ muối cao. Khi độ
muối hạ thấp và kéo dài kéo theo sự tàn lụi của cỏ biển [8].
1.5.3. Nhiệt độ
Các loài cỏ biển sinh trƣởng và phát triển ở vùng biển ven bờ do đó
chúng thích nghi với chế độ nhiệt của vùng ven bờ miền bắc nƣớc ta. Nhiệt độ
nƣớc biển có giá trị cực tiểu vào tháng 1, cực đại vào tháng 7 hàng năm. Kết
quả đo ngày 09/01/1997 tại thảm cỏ Ruppia maritima ở Đình Vũ (Hải Phòng
nhiệt độ nƣớc đạt 16
0
C. Các đợt khảo sát cỏ biển chủ yếu thực hiện vào tháng
5 và tháng 8, nhiệt độ nƣớc thay đổi từ 24 – 34
0
C. Cá biệt ở cửa sông Hàn (Đà
Nẵng) lúc triều xuống, thảm cỏ phơi bãi, nhiệt độ nƣớc trong các vũng lên
đến 37

0
C [8].
1.5.4. Độ đục
Độ đục tác động mạnh đến các hoạt động quang hợp của cỏ biển. Chúng
sẽ không nhận đƣợc năng lƣợng từ ánh sáng cần thiết cho quang hợp nên
không phát triển. Ngoài ra độ đục gia tăng có nghĩa là có nhiều trầm tích bùn
nhuyễn bám lên bề mặt của lá làm giảm quang hợp [8].
1.5.5. Ánh sáng

×