Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Hệ thống ôn tập kinh tế đầu tư theo đề có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.93 KB, 47 trang )

CÂU 1:Thế nào là cơ cấu đầu tư hợp lý?Những cơ cấu đầu tư trên phạm vi quốc
gia.Trình bày giải pháp chủ yếu xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý ở nước ta?
Trả Lời
1. Khái niệm cơ cấu đầu tư
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn,nguồn vốn,
cơ cấu huy động và sử dụng vốn . .quan hệ hữu cơ,tương tác qua lại giữa các bộ phận
trong không gian và thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý
và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế-xã hội.
2. Đặc điểm của cơ cấu đầu tư.
-Cơ cấu đầu tư mang tính khách quan: Quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu đầu tư ở
các nước đều tuân theo nhưng quy luật chung. Một cơ cấu đầu tư hợp lý phải phản ánh
được sự tác động của các quy luật phát triển khách quan.
- Cơ cấu đầu tư mang tính lịch sử và xã hội nhất định: Do đặc điểm riêng của quá trình
lịch sử phát triển của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. những xu thế thay đổi cơ
cấu chung sẽ được thể hiện qua hình thái đặc thù trong từng giai đoạn lịch sử phát triển
của mỗi nước. Cơ cấu đầu tư luôn luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế- xã hội.
3.Những cơ cấu đầu tư trên phạm vi quốc gia:
Thứ nhất, Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn bao gồm:Vốn trong nước và vốn nước ngoài
- Vốn trong nước:
+ Vốn ngân sách nhà nước
+Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
+Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
1
+Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư.
-Nguồn vốn nước ngoài:
+ Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
+Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức – ODA.
+Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
+Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế
Thứ hai,theo cơ cấu vốn đầu tư:thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn


đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự án.
Thứ ba, cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành:
+ Phân chia theo cách truyền thống: Nông - lâm- ngư nghiệp, công nghiệp - xây
dựng, dịch vụ
+ Phân chia theo nhóm ngành kết cấu hạ tầng và sản xuất sản phẩm xã hội
+ Phân chia theo khối ngành: Khối ngành chủ đạo và khối ngành còn lại.
Thứ tư,cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương, vùng lãnh thổ: là cơ cấu đầu tư theo
không gian, phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và phát huy lợi thế cạnh
tranh của từng vùng
4-Cơ cấu đầu tư hợp lý :
Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách quan, các
điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển, phù hợp và phục
vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng cơ sở,ngành, vùng và toàn nền kinh tế,
có tác động tích cực đến việc đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn,
khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp úng yêu cầu hội nhập, phù
hợp với xu thế kinh tế,chính trị của thế giới và khu vực.
2
5.Văn tắt vài nét chủ yếu về cơ cấu đầu tư ở nước ta.
Cơ cấu đầu tư của nước ta thể hiện những bất cập sau:
+Cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý
+Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao,còn dàn trải,thất thoát,lãng
phí,nhất là vốn NSNN.
+Cơ cấu đầu tư theo ngành,vùng chưa chuyển dịch mạnh theo hướng phát huy lợi thế
so sánh của từng ngành,từng vùng.
6.Giải pháp chủ yếu của Việt Nam trong việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
a.Xây dựng nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư tổng thể với một cơ cấu đầu tư
hợp lý.Các quy hoạch và kế hoạch đầu tư phải được xây dựng trên cơ sở:
-Coi trọng công tác điều tra nghiên cứu thị trường và các dự báo thay đổi cuả thị trường.
-Đánh giá đầy đủ:Nguồn lực thực hiện,cơ hội và thách thức khi thức hiện quy hoạch
tổng thể

-Dự báo tiến bộ khoa học kỹ thuật,các thay đổi về thể chế,chính sách.
-Phải gắn quy hoạch với chính sách và các giải pháp thực hiện
b.Giải pháp về nguồn vốn đầu tư:
-Một là,cần tích cực cho vấn đề thu hút vốn,tạo mọi điều kiên để thu hút vốn tham gia
đầu tư trong toàn xã hội,đa dạng hóa các hình thức đầu tư,có các chính sách khuyến
khích đầu tư tư nhân.
-Hai là,nâng cao khả năng sử dụng vốn,tăng hiệu quả sử dụng vốn,nâng cao mức sinh lời
của vốn,có kế hoạch quay vòng vốn đầu tư,tránh ứ đọng gây thất thoát ,lãng phí.
-Thứ ba, tạo lập thị trường tài chính lành mạnh,ổn định để vốn lưu thông một cách đẽ
dàng ,đặc biệt chú trọng đến nguồn vốn từ thị trường chứng khoán để khai thông các
3
nguồn vốn xã hội,tạo điều kiện cho chính phủ cũng như doanh nghiệp huy động các
nguồn vốn trung và dài hạn cho ĐT.
c.Giải pháp về chính sách đầu tư:
-Một là, chuyển hướng từ đầu tư chiều rộng sang chiều sâu trên tất cả các ngành cảu nền
kinh tế.
-Hai là, cân đối đầu tư theo lãnh thổ, đầu tư thích đáng vào các khu công nghiệp, đô thị,
nhưng cũng cần chú trọng cho nông thôn, khu chế xuất
-Ba là, tập trung đổi mới công nghệ một số ngành mũi nhọn, đi tắt đón đầu những ngành
có cơ hội tiếp cận và xây dựng được các công nghệ tiên tiến.
-Bốn là,vận hành công cụ kinh tế vĩ mô cho phù hợp với điều chỉnh của cơ cấu đầu tư.
d.Xác định cơ cấu từng ngành cụ thể:
-Nông nghiệp:cần đầu tư hợp lý cả ba lĩnh vực của nông nghiệp là trồng trọt –chăn nuôi-
đánh bắt thủy hải sản.
-Công nghiệp:Với các ngành công nghiệp của chúng ta cần áp dụng ngay các biện pháp
sau:
+Chuyển hướng vào những ngành có công nghệ cao,hướng vào xuất khẩu.
+Khuyến khích các DN đâu tư vào các khu công nghiệp và chế xuất.
+Tập trung xây dựng ngành mũi nhọn mà VN có lợi thế.
-Dịch vụ:xây dựng và đổi mới ngành dịch vụ ngang tầm với khu vực và thế giới.

Ngoài ra còn phải chú trọng tới ngành giáo dục,đào tạo và KH-CN.
CÂU 2:Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện ra sao trong lý thuyết số
nhân đầu tư và gia tốc đầu tư,vận dụng vào nước ta ra sao?
4
TRẢ LỜI
Lý thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại giữa đầu
tư và tăng trưởng.
a.Lý thuyết số nhân đầu tư:Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư với sản
lượng.Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư tăng một đơn vị.
Công thức tính :
K=(Gia tăng sản lượng)/(Mức gia tăng đầu tư)
K:số nhân đầu tư.
Hay Gia tăng sản lượng=k*(Gia tăng về đầu tư)
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân
lần.Trong công thức trên k là một số lớn hơn 1.Thực tế cho thấy gia tăng đâu tư đẫn đến
gia tăng về cầu các tư liệu sản xuất,qui mô lao động.Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho
sản xuất gia tăng và gia tăng sản lượng.
b.Lý thuyết gia tốc đầu tư:
Lý thuyết số nhân đầu tư xem xét đầu tư như thành tố của tổng cầu,lý thuyết gia tốc đầu
tư sẽ xem xét ĐT dưới góc độ tổng cung trong nền kinh tế.Theo lý thuyết này,để sản xuất
ra một đơn vị đầu ra cho trước phải có một lượng vốn đầu tư nhất định.
X=K/Y
K:Vốn ĐT tại kỳ nghiên cứu.
Y:Sản lượng tại kỳ nghiên cứu.
X:Hệ số gia tốc đầu tư.
Vậy thì:K=x*Y
5
Vậy chi tiêu ĐT tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về Tư liệu sản xuất và nhân công,nhu
cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.Như vậy ,sản
lượng cần tăng liên tục mới làm đầu tư tăng cùng tốc độ,hay không đổi so với kỳ

trước,như vậy,ĐT tăng tỷ lệ với sản lượng ít ra là trong trung và dài hạn.Lý thuyết phản
ánh tác động tăng trưởng kinh tế đến đầu tư.Khi nền kinh tế tăng trưởng cao,dẫn đến sản
lượng nền kinh tế tăng,cơ hội kinh doanh lớn ,dẫn đến tích kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
c.Vận dụng trong hoạt động đầu tư của Việt Nam sẽ được xem xét tren các vấn đề
sau:
-Áp dụng lý thuyết số nhân đầu tư:Chúng ta cần xem ĐT với tư cách một thành tố cấu
thành tổng cầu.
+Trong giai đoạn hiện nay,cần tăng vốn đầu tư xã hội của nền kinh tế,việc gia tăng
đầu tư này tạo ra một đòi hỏi chung đó là phải tăng số lượng lao động trong nền kinh
tế,chuẩn bị tốt nguồn cung lao động cho thị trường,hơn nữa phải tiếp tục nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực,không nên coi nguồn nhân lực rẻ là một lợi thế mà nên chuyển
hướng coi nguồn nhân lực chất lượng là một lợi thế,tiếp đó,chuẩn bị và cung ứng đầy đủ
hay tới mức có thể nguồn nguyên ,nhiên vật liệu cho hoạt động đầu tư,ở đây,chúng ta cần
nhấn mạnh là cần thiết phải đầu tư hơn nữa cho công nghiệp phụ trợ trong nước-ngành
công nghiệp cung cấp các sản phẩm đầu vào cho ngành công nghiệp chính,từ đó là cơ sở
cho chúng ta chủ động nguồn cung yếu tố đầu vào cho sản xuất ở trong nước được ổn
định hơn.
+Cần đâu tư có hiệu quả hơn nữa để nguồn vốn sử dụng cho đầu tư không lãng phí
và đạt kết quả cao,xứng tầm với nguồn lực bỏ ra.
+Hệ số k phụ thuộc khá nhiều vào MPC,MPC càng cao thì k càng cao,như vậy,chính
phủ cần có các biện pháp khuyến khích tiêu dùng trong nền kinh tế,các biện pháp này sẽ
đem lại hiệu quả trong việc tạo ra sản lượng cao hơn do cầu tiêu dùng tăng cao trong xã
hội.
6
-Với lý thuyết gia tốc đầu tư:Trong những năm qua chúng ta đã đạt được những gì mình
mong muốn là có được tăng trưởng cao,song bài học đắt giá đó chính là ngay tại thời
điểm này,VN đang phải đối mặt với các yếu tố vĩ mô bất lợi,tăng trưởng cao mà dựa trên
nền tảng không vững chắc đã cho thấy hậu quả là ngăn cản đầu tư trong nền kinh tế,vì
vậy,việc đặt ra bây giờ là tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô,để các
nhà đầu tư yên tâm và tiếp tục đầu tư.

Hơn nữa,cần có chính sách tăng trưởng hướng tới mục tiêu trung và dài hạn để đảm bảo
đầu tư có được mội trường nhất quán,ổn định,tầm nhìn xa trong việc hoạch định chính
sách là yếu tố quan trọng và thành công của các quốc gia.
CÂU 4:Cho ví dụ qua đó giải thích ý nghĩa của ICOR trong công tác dự báo kinhtế?
TRẢ LỜI
ĐT vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng
trưởng.Việc tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả là một
công việc quan trọng và cần cân nhắc ký của các doanh nghiệp và của chính các nhà
hoạch định chính sách quốc gia.
Biểu hiện tập trung giữa mối quan hệ giữa đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế
thể hiện ở hệ số ICOR.
Hệ sô ICOR là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức sản lượng tăng thêm.
ICOR=(Vốn đầu tư tăng thêm)/(GDP tăng thêm)
Hay ICOR=(Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP)/(Tốc độ tăng trưởng kinh tế)
ICOR chịu ảnh hưởng của khá nhiều các yếu tố như thay đổi cơ cấu đầu tư
ngành,sự phát triển của KH-CN,sự thay đổi của chính sách
7
Như vậy,nhìn vào ICOR của một quốc gia,chúng ta có thể phân tích phần nào mặt
chất và cả mặt lượng trong sự phát triển của một quốc gia.Một trong những nội dung
chúng ta có thể nhìn nhận qua ICOR chính là tác dụng của con số này trong công tác dự
báo tăng trưởng GDP của quốc gia và dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt tốc độ
tăng trưởng nhất định.
Ví dụ,giả định như trong thời kỳ 2001-2005,tốc độ tăng trưởng bình quân là
7,5%/năm,tỷ lệ vốn đầu tư XH trên GDP là 33,5% thì ICOR là 4,5.Như vậy nếu như
trong giai đoạn 2006-2010,nếu chỉ số này không có sự biến đổi gì quá lớn thì nếu các nhà
hoạch định chính sách mong muốn tăng trưởng đạt tốc độ 8,5% thì lượng vốn cần có của
xã hội trên GDP là 38%.Đây là cách dự báo giản đơn,muốn dự báo chính xác hơn chúng
ta cần có những phương cách làm chi tiết và quy mô hơn.
Như vậy,ICOR đã cho thấy tác dụng không nhỏ của mình trong công tác dự báo
của các nhà hoạch định chính sách quốc gia,cũng như là với từng địa phương,vùng miền.

CÂU2 : Trình bầy đặc điểm, bản chất và mối qh giữa đt theo chiều rộng và đt theo
chiều sâu, những đk cơ bản để lựa chọn đt theo hình thức này .
Trả lời
1.Đầu tư theo chiều rộng: Theo quan điểm ngày nay thì đầu tư theo chiều rộng là đầu tư
trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có,xây dựng mới các cơ sở vật
chất với những kỹ thuật công nghệ cơ bản như cũ.
Đặc điểm:
-Chỉ mở rộng qui mô sản xuất,không tiết kiệm nguyên liệu,không làm tăng NSLĐ
-Tốc độ tăng của lao động lớn hơn tốc độ tăng của vốn
-Vốn nằm khê đọng trong suốt thời gian thực hiện đầu tư
8
-Làm tăng thêm qui mô công nghệ nhưng không làm thay đổi mặt chất của công nghệ.
2. Đầu tư theo chiều sâu: Theo quan điểm ngày nay, đầu tư theo chiều sâu là hoạt động
đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo nâng cao, đồng bộ hoá, hiện đại hoá, cơ sở vật
chất kĩ thuật hiện có, hoặc xây dựng lại hoặc đầu tư mới một dây chuyền công nghệ, xây
dựng một nhà máy mới nhưng kĩ thuật công nghệ phải hiện đại hơn kĩ thuật công nghệ
hiện có hoặc kĩ thuật trung bình của ngành, vùng nhằm duy trì năng lực đã có
Đặc điểm:
-Đầu tư theo chiều sâu lam thay đổi mặt chất công nghệ,giảm chi phí,tăng NSLD,nâng
cao hiệu quả đầu tư.
-Vốn đầu tư chiều sâu lớn,mang tính chất mạo hiểm hơn đầu tư theo chiều rộng
-Trong quá trình thực hiện đầu tư việc sản xuất vẫn diễn ra song song
-Tốc độ tăng của vốn lớn hơn tốc độ tăng của lao động
3. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu:
Thứ nhất, Đầu tư theo chiều rộng là nền tảng để đầu tư theo chiều sâu
Trên phạm vi của nền kinh tế, những nước đang trong giai đoạn đầu của phát
triển kinh tế cơ sở hạ tầng cũng như máy móc không có hoặc còn thiếu, trong khi vốn để
đầu tư chưa nhiều,do đó yêu cầu cần đầu tư theo chiều rộng để có một nền tảng cơ bản.
Tuy nhiên khi cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ trở nên lạc hậu, việc tiếp tục đầu tư theo
chiều rộng không những không mang lại hiệu quả tăng trưởng mà còn làm cho năng suất

của cả nền kinh tế thấp, không tạo ra tăng trưởng. Nền kinh tế tất yếu sẽ chuyền sang
phát triển theo chiều sâu. Nếu nền móng được tạo nên nhờ đầu tư theo chiều rộng trước
đó tốt thì việc đầu tư theo chiều sâu sau đó sẽ dễ dàng đạt hiệu quả cao.
Ở phạm vi doanh nghiệp, đầu tư theo chiều rộng tạo ra tiền đề để đầu tư theo
chiều sâu tốt về những điều kiện sau:
9
-Tạo điều kiện tích luỹ vốn để đầu tư theo chiều sâu.
-Tích luỹ được kinh nghiệm trong việc lựa chọn chiến lược và phương thức đầu tư theo
chiêù sâu có hiệu quả
- Hiểu được trình độ công nghệ của ngành và doanh nghiệp khác từ đó lựa chọn trình độ
công nghệ đầu tư.
-Dựa trên kết quả đầu tư theo chiều rộng để tiến hành đầu tư theo chiều sâu để sản xuất
với năng suất cao hơn.
Đầu tư theo chiều rộng thường chiếm tỷ trọng lớn trong đầu tư của các doanh
nghiệp mới thành lập cũng như các nước trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế.tuy
nhiên các doanh nghiệp mới có thể đầu tư theo chiều rộng vào những công nghệ hiện đại
cơ sở tốt ngay từ đầu tạo điều kiện đầu tư theo chiều sâu nâng cao hơn về sau hoặc tạo
điều kiện đồng bộ hoá nâng cao năng lực công nghệ hơn những doanh nghiệp đi trước.
Khi đã có chỗ đứng nhất định trên thị trường thì phải kết hợp hai hình thức đầu tư
trong đó cần nhấn mạnh đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng giúp doanh nghiệp
duy trì năng lực kinh doanh, giữ được uy tín và thị phần của mình. Tuy nhiên, trước tình
hình cạnh tranh gay gắt buộc doanh nghiệp phải đầu tư theo chiều sâu để tăng tính cạnh
tranh cho sản phẩm của mình, như đổi mới công nghệ,nâng cao tay nghề của công
nhân Để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, đầu tư theo chiều
rộng chỉ đem lại hiệu quả trong một giới hạn nhất định của công nghệ, trình độ sản xuất.
Đầu tư theo chiều rộng quá mức sẽ làm cho doanh nghiệp cồng kềnh hoạt động không
hiệu quả nhanh chóng bị tụt hậu so với những doanh nghiệp cùng ngành.
Thứ hai,Đầu tư theo chiều sâu tạo điều kiện để đầu tư theo chiều rộng ở cả những
khía cạnh cũ và mới:
Khi tiến hành đầu tư theo chiều sâu một cách hiệu quả sẽ làm tăng năng suất lao

động, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị
trường, đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp nâng cao được tỷ
10
lệ tích lũy vốn tạo ra nguồn lực mới để doanh nghiệp có thể mở rộng cơ sở sản xuất, tăng
khối lượng sản phẩm truyền thống vốn của doanh nghiệp từ trước sản xuất được và từ đó
cũng giải quyết thêm công ăn việc làm cho người lao động tức là tiến hành các hoạt động
đầu tư theo chiều rộng.
Bên cạnh đó đầu tư theo chiều sâu giúp doanh nghiệp cho ra đời những sản phẩm
mới chiếm lĩnh được những thị trường tiềm năng khác và từ đó tiếp tục đầu tư theo
chiều rộng ở những lĩnh vực mới đó tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường với tư
cách là một doanh nghiệp lớn đa ngành. các sản phẩm mới nếu có thể tận dụng được
nguyên liệu sản xuất hay phế liệu từ hoạt động sản xuất những sản phẩm trước đó còn có
thể tiết kiệm được chi phí cho doanh nghiệp
Tuy nhiên đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả cũng không tạo được điều kiện
cho đầu tư theo chiều rộng. Nếu nhập về những dây chuyền sản xuất quá hiện đại hoặc
quá lạc hậu, hay sản xuất ra những sản phẩm giá thành quá cao, quá tân tiến mà người
tiêu dùng không sử dụng được hoặc đã lỗi thời không phù hợp với nhu cầu của thị
trường sẽ gây lãng phí nguồn vốn, không tạo ra được lợi nhuận cao như mong muốn
thậm chí lợi nhuận âm khiến doanh nghiệp bị giảm khả năng cạnh tranh, hạn chế cơ hội
cho đầu tư theo chiều rộng mở rộng sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư đan
xen, bổ sung lẫn nhau trong hoạt động đầu tư và đầu tư theo chiều sâu là chiến lược
lâu dài
Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư đan xen,
bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động đầu tư: Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều
rộng và đầu tư theo chiều sâu dựa trên mối quan hệ giữa lượng và chất trong đó đầu tư
theo chiều rộng làm tăng mặt lượng còn đầu tư theo chiều sâu tạo ra những biến đổi về
mặt chất của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần
lựa chọn hình thức đầu tư nào là phù hợp và hình thức đầu tư nào là không thích hợp vào
11

thời điểm này hoặc có sự kết hợp giữa hai hình thức đầu tư trong cùng một thời điểm để
có được một chính sách đầu tư hợp lý nhằm thu được kết quả và mục tiêu đã đặt ra.
+ Khi thị trường có nhu cầu ngày càng tăng về mặt số lượng của sản phẩm thì lựa chọn
hợp lý cho doanh nghiệp là tiếp tục đầu tư theo chiều rộng để mở rộng sản xuất cung ứng
đầy đủ và kịp thời cho thị trường.
+ Nếu thị trường yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp
không đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm thì sản
phẩm của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng lạc hậu và bị thị trường đào thải.
Với nhu cầu của thị trường hiện nay thì chiến lược tốt cho doanh nghiệp là kết hợp
đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý: đầu tư theo chiều rộng ở
những sản phẩm đang thịnh hành và nhu cầu của thị trường đang đòi hỏi, đồng thời
không ngừng đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm đã có mặt trên thị
trường và cho ra đời những sản phẩm mới.
Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược lâu dài: Việc đầu tư theo chiều rộng không
thể kéo dài quá lâu. Bất kỳ nền kinh tế nào không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng
bằng cách tăng vô hạn vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài nguyên vì các nguồn này đều có
giới hạn. Nếu tiếp tục phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu thì nền kinh tế sẽ có
nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn vật chất và các yếu tố bên ngoài.
Đối với một doanh nghiệp, việc mở rộng quy mô sản xuất với trình độ công nghệ như cũ
chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. nếu không đầu tư theo chiều sâu để nâng cao năng
lực công nghệ cũ, chất lượng sản phẩm thì sẽ nhanh chóng tụt hậu sản phẩm không thể
tiêu thụ được dẫn đến không thể tồn tại được là điều tất nhiên. Đầu tư theo chiều sâu có
thể nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư bỏ ra theo hướng gia tăng tỷ trọng đóng góp của
yếu tố công nghệ - một yếu tố không có giới hạn như những yếu tố khác và tạo ra một
nền tảng bền vững cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần
vận dụng chiến lược này một cách hiệu quả trong dài hạn.
12
4. Điều kiện lựa chọn theo hình thức đầu tư kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu.
Khi thị trường có nhu cầu ngày càng tăng về mặt số lượng của sản phẩm đồng thời
yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp nên kết hợp đầu tư theo

cả hai hình thức. Ngoài ra để tiến hành đầu tư kết hợp hai hình thức này doanh nghiệp
cũng cần chuẩn bị tốt những điều kiện cơ bản như:
- Cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN theo hướng tạo quyền chủ động cho nhà
khoa học phải thực hiện đồng bộ và phù hợp.
- Phải có đội ngũ công nhân lành nghề trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ
mới, cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn.
Câu 3 đề 4:Vì sao phải đầu tư trọng tâm,trọng điểm.Giải thích nội dung của yêu cầu
này trong quản lý hoạt động đầu tư của nước ta
Trả Lời
Khái niệm: Trong quĩ vốn đầu tư có nhiều hạng mục lựa chọn, người ta lấy một dự án
làm trọng điểm tập trung vốn, sức lực thì gọi là đầu tư trọng tâm trọng điểm.
Nước ta cần phải đầu tư trọng tâm, trọng điểm, bởi những lí do sau:
Thứ nhất,Nước ta là một nước đang phát triển nên những nguồn lực cho phát triển kinh
tế xã hội còn thiếu hụt rất nhiều,đặc biệt là nguồn vốn đầu tư.Trong khi đó hoạt động
ĐTPT đòi hỏi qui mố vốn,vật tư là rất lớn nên với một nguồn vốn hạn hẹp như vậy thì
việc đầu tư cào bằng,dàn trải ở tất cả các ngành,các lĩnh vực,các địa phương là không khả
khi,như thế sẽ vừa lãng phí vốn mà hiệu quả đầu tư không cao.Nếu ta coi nguồn vốn đó
13
là những chùm ánh sáng thì việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm sẽ là những chùm sáng
hội tụ tập trung vào những gì then chốt,mũi nhọn,phát huy được lợi thế để có sức lan tỏa
lôi kéo những ngành,lĩnh vực khác. Hiện nay,công cuộc đổi mới đòi hỏi phải giải quyết
hàng loạt vấn đề phức tạp, cấp bách trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, chính trị, văn hoá
v.v…Trong khi đó thực lực của nước ta cả về vật chất lẫn lý luận lại rất hạn hẹp, nên
không thể làm đồng loạt, vì vậy phải biết chọn lĩnh vực trọng yếu và khâu đột phá. Thí
dụ: đột phá vào việc nâng cao tính tự chủ của đơn vị kinh tế cơ sở, nhất là khu vực kinh
tế tư nhân, và thúc đẩy tự do lưu thông hàng hoá theo giá cả thị trường. Hai việc trên đã
tác động đến mọi người, mọi ngành, kể cả các doanh nghiệp nhà nước, buộc phải từ bỏ
cơ chế bao cấp, thích nghi với cơ chế thị trường.
Thứ hai,trong đầu tư, tiết kiệm và hiệu quả là 1 trong những nguyên tắc của quản lý
hoạt động đầu tư, thể hiện ở chỗ: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu

quả kinh tế - xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất. Chính vì thế, việc đầu tư theo
kiểu dàn trải, tức là triển khai quá nhiều dự án trong cùng một thời kỳ, qúa nhiều mũi
nhọn, không có trọng tâm trọng điểm, không phù hợp với năng lực quản lý và khả năng
tài chính của các chủ thể, hoặc việc nghiên cứu triển khai các dự án thường sơ sài, không
tính toán kỹ hiệu quả đầu tư,…sẽ làm cho việc đầu tư trở nên kém hiệu quả, gây thất
thoát, lãng phí nguồn lực, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước. Ngoài ra, việc đầu
tư dàn trải, không có trọng tâm trọng điểm khiến cho nước ta không phát huy được lợi thế
so sánh và lợi thế cạnh tranh của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ ba,trước khi đổi mới, việc bố trí cơ cấu kinh tế thường chỉ xuất phát từ lòng
mong muốn đi nhanh không tính tới điều kiện và khả năng thực tế. Do chủ trương ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng, đầu tư không thích đáng cho nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, ham xây dựng các công trình quy mô lớn, khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều
khiến cho vốn bị đọng quá lâu, không tập trung giải quyết về căn bản vấn đề lương thực,
thực phẩm, phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Bởi vậy, đầu tư nhiều,
nhưng hiệu quả thấp.
14
Thành tựu nổi bật nhất của những năm đầu đổi mới trước đây là bố trí lại cơ cấu sản
xuất và cơ cấu đầu tư, hướng vào thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực –
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là từ chỗ thiếu ăn triền miên đã
đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước, có dự trữ và bắt đầu xuất khẩu. Hàng hoá
tiêu dùng trên thị trường dồi dào, đa dạng và lưu thông thuận lợi. Kinh tế đối ngoại phát
triển nhanh, mở rộng hơn về quy mô và hình thức, góp phần quan trọng vào việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.Thông qua đó để thấy được tác dụng của việc thưc hiện
đầu tư trong tâm trọng điểm.
Tuy nhiên,một thực tế hiện nay ở nước ta cho thấy đó là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
chưa cao,còn dàn trải,lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản,nhất là
nguồn vốn NSNN.Vì thế,đã đến lúc các nhà quản lý quy hoach phát triển cần nghiên cứu
và đưa ra một chiến lược đầu tư trọng tâm trọng điểm nhằm khắc phục những tiêu cực
nói trên là một yêu cầu cấp bách của xã hội
Nội dung của yêu cầu này trong quản lý hoạt động đầu tư ở nước ta:Đổi mới cơ cấu

đầu tư gắn liền nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước và đảm bảo vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước,đồng thời động viên mọi nguồn lực cho ĐTPT.Đối với vốn đầu tư của
nhà nước chỉ nên tập trung vào những ngành then chốt của nền kinh tế,những ngành có
tính chất đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển.Mục tiêu là kinh tế nhà nước phải
thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,đồng thời phải giải quyết
các vấn đề xã hội,mở đường,hỗ trợ và hướng dẫn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh
của các thành phần phi kinh tế nhà nước.Có như vậy mới quán triệt được quan điểm
trọng tâm trọng điểm trong hoạt động ĐTPT của nước ta hiện nay.

15
CÂU4:Giải thích luận điểm“trả lương đúng và đủ cho người lao động cúng là
ĐTPT?
Trả Lời
Mức lương được trả cho người lao động dựa trên quan hệ cung cầu và giá cả sức
lao động trên thị trường. Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao
động của hội. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của hết thảy mọi người lao động.
Mục đích này tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động
của mình. Mặt khác,tiền lương là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người tái tạo sức lao
động, kỹ năng, trí tuệ để đầu tư cho phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nâng cao khả năng cống hiến của đội ngũ cán bộ, công chức trong
hoạt động công vụ và cũng là yếu tố để hạn chế, khắc phục tệ nạn tiêu cực, tham nhũng
do lương không đủ sống.
Trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng được xem là ĐTPT bởi vì lao động
là yếu tố đặc biệt hơn so với các yếu tố khác dành cho ĐT.Lao động sử dụng kỹ năng của
mình tham gia vào đầu tư,nhưng lại có một yếu tố khác thường xuyên chi phối chất lượng
kỹ năng này của người lao động là tâm lý và đời sống của người lao động,do vậy để giải
thích cho luận điểm trên,chúng ta có thể xem xét trên vài luận cứ như sau:
Thứ nhất,Người lao động khi nhận lương đúng và đủ sẽ có được tâm trạng thoải
mái khi mà thành quả lao động của họ được ghi nhận,từ đó , người lao động sẽ tiếp tục
duy trì và phấn đấu năng suất , chất lượng công việc tốt trong quá trình sản xuất mà họ

tham gia. Thực tiễn cho thấy,các vụ đình công của công nhân thời gian qua có rất nhiều
vụ việc liên quan tới vấn đề trả lương chậm của giới chủ,công nhân chán nản khi họ
thường xuyên bị trả chậm lương dẫn đến tâm lý bi quan và xa rời công việc của họ,họ
thường tổ chức các cuộc đình công tự phát,điều này trên tổng thể có ảnh hưởng khá xấu
tới vận hành các kết quả đầu tư của giới chủ do sản xuất bị đình trệ.
Thứ 2,người lao động trong phạm vi nền kinh tế quốc dân còn được xem xét như là
những người tiêu dùng,họ luôn có xu hướng duy trì và nâng cao đời sống của họ thông
16
qua việc mua các hàng hóa,việc trả lương đúng và đủ sẽ là điều kiện tốt để người lao
động mua hàng,qua đó tăng sức mua của nền kinh tế,hàng hóa tiêu thụ nhiều lại đòi hỏi
cung hàng hóa ,từ đó lại tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động,vấn đề này xét
trên tổng thể nền kinh tế là có lợi.
Vì vậy trong hoạt động ĐTPT cần chú trọng đến vấn đề trả lương đúng,đủ cho người
công nhân một cách đúng mức:
+Tiền lương phù hợp khuyến khích nhân viên làm việc , duy trì nhân viên giỏi và
thu hút nhân tài cho doanh nghiệp. Nhận thức r€ vai trò của tiền lương tới cung cách, thái
độ và hiệu quả làm việc của người lao động các doanh nghiệp đều đưa ra những chiến
lược phù hợp trong việc trả lương cho lao động. Tùy vào điều kiện cụ thể vào chiến lược
phát triển và điều kiện làm việc của lao động để từng DN đề đưa ra mức lương cụ thể phù
hợp với cả người lao động và doanh nghiệp.
+Bên cạnh việc xác định mức lương phù hợp cho lao động thì điều quan trọng là phải
trả lương đúng và đủ cho người lao động. Tăng lương hợp lý có thể coi là biện pháp kích
cầu lành mạnh để thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào tăng trưởng chung của nền
kinh tế. Tiền lương và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nền kinh tế
có tăng trưởng thì tiền lương mới tăng và ngược lại thu nhập tăng kích thích nền kinh tế
tăng trưởng.
Kết Luận:Trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng là ĐTPT
Câu 1:Trình bày đặc điểm của ĐTPT và và vận dụng
Trả Lời
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau :

17
Thứ nhất, quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn: Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Quy
mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng
các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư,
bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm.
→Nguồn vốn huy động cho dự án có thể do ngân sách nhà nước cấp phát, ngân hang cho
vay, vốn góp cổ phần, vốn liên doanh do các bên liên doanh góp, vốn tự có hoặc vốn huy
động từ các nguồn khác. Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án và tránh ứ đọng
vốn thì các nguồn tài trợ không chỉ xem xét về mặt số lượng mà còn phải đảm bảo thời
điểm nhận được tài trợ( sao cho chi phú sử dụng vốn là rẻ nhất).Bên cạnh đó thì các
nguồn vốn này phải đảm bảo sự chắc chắn( thể hiện ở tính pháp lý và cơ sỏ thực tế của
các nguồn vốn huy động)
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm
quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân thủ một kế
hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ đầu
tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự
án” tạo ra như việc bố trí lao động, giải quyết lao động dôi dư…
Thứ hai, Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án
đén khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có
thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn nằm khê đọng trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn
và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt
chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản.
→ Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động rrất phức tạp, và trong một thời gian dài. Do
đó, cần phải đề ra các kế hoạch thực hiện đầu tư một cách khoa học. bài bản, bố trí vốn
đầu tư hợp lý, thực hiện phân kì đầu tư, hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình,
18
tránh tình trạng ứ đọng, không sinh lời. Tuy nhiên, việc thực hiện đầu tư vừa phải đảm

bảo đúng tién độ vừa phải đảm bảo tốt về chất lượng công trình
Thứ ba,Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: Thời gian này tính từ khi dưa
công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào thải công trình.
Nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự
tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở
Cam-pu-chia… Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai
mặt, cả tích cực và tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…Do đó,
công tác quản lý kế hoạch đầu tư cần chú ý một số nội dung:
+ Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cấp vĩ mô và vi mô về
nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai ,dự kiến khả năng cung hàng
năm và toàn bộ vòng đời dự án. Nếu như sản phẩm không có toàn bộ thông tin về nhu
cầu thị trường thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không được đảm
bảo theo đúng quy luật cung - cầu , đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay của
nước ta. Mặtkhác nếu như việc dự báo không được khoa học và chính xác thì hoạt động
của doanh nghiệp có thể sẽ bị mất phương hướng
+Quản lý tốt quá trình vận hành nhanh chóng đưa các thành quả hoạt động đầu tư vào
sử dụng, hoạt động tối đa công suất, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư tránh hao mòn vô
hình . Đồng thời tuân thủ chiến lược về công suất, sử dụng công suất ở mức thấp để đối
phó với những thay đổi của thị trường.Vì trong giai đoạn đầu này sản phẩm mới được
tung ra thị trường cần có thời gian để sản phẩm thích ứng với người tiêu dùng . Phần nữa
do máy móc mới được đưa vào sử dụng cần phải hoạt động dưới mức công suất để đảm
bảo cho máy móc lâu bền và cũng cần thời gian để người công nhân lao động quen với
tay nghề .
Thứ tư, Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực
hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các
19
nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng. Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã
đầu tư từ nơi này đến nơi khác, nên công tác quản lí hoạt động đầu tư phát triển cần chú
ý:

+Cần phải có chủ trương đầu tư và quyết đinh đầu tư đúng đắn. Đầu tư cái gì, đầu tư
bao nhiêu là đủ cần phải được nghiên cứu kĩ lưỡng dựa trên những căn cứ khoa học
+Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý dực trên các căn cứ khoa học, dựa vào một hệ
thống các chỉ tiêu kinh tế chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá. Cần xây dựng một bộ
tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu
tư cuj thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ
thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư
Thứ năm, Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu
tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của
hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó, có
nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm
không đạt yêu cầu… có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản
phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
→ Để quản lí hoạt động đầu tư phát triển hiệu quả cần phải thực hiện các biện pháp quản
lý rủi ro:
+Nhận diện rủi ro. Có nhiều nguyên nhân rủi ro, do vậy nhận diện đúng nguyên nhân
rủi ro sẽ là khâu quan trọng đầu tiên để tìm ra giải pháp phù hợp
+Đánh giá mức độ rủi ro để đưa ra các biện pháp phòng và chống cho phù hợp
+Xây dựng các biện pháp phòng và chống rủi ro phù hợp với từng loại và từng mức
độ rủi ro
20

Câu 2: Trình bày hoạt động đầu tư trong Doanh nghiệp
Trả Lời
Gồm 2 hoạt động là đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình:
1. đầu tư vào tài sản hữu hình:
Khái niệm: Đầu tư vào tài sản hữu hình chính là hoạt động đầu tư vào phần giá trị hữu
hình của nhà máy, xí nghiệp: Nhà cửa và vật kiến trúc, Nhà cửa và vật kiến trúc Phương
tiện vận tải Thiết bị và dụng cụ quản lý Nguyên, nhiên vật liệu…. nhằm mục đích nâng
cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí.Bao gồm:Đầu tư xây dựng

cơ bản và hàng tồn trữ
1.2.1. Đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định của danh nghiệp.
Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động chính như: xây dựng cơ sở hạ tầng, mua
sắm thiết bị, lắp đặt và sửa chữa nâng cấp.
_Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Là đầu tư nhằm tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ hàng hoá hoặc
nguyên vật liệu. Chất lượng của nhà xưởng và tính hợp lý của nó ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài
21
nên tầm quan trọng của hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ
lưỡng để tránh gây ra những hậu quả lâu dài.
_ Hoạt động mua sắm thiết bị
+Mua sắm thiết bị sản xuất: Thiết bị sản xuất không những ảnh hưởng đến số
lượng và chất lượng và chất lượng sản phẩm mà còn tác quyết định đến chi phí thường
xuyên của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần sử dụng thiết bị phù hợp với khả năng
sản xuất, định hướng phát triển và khả năng tài chính của mình.
+Mua sắm phương tiện vận tải và thiết bị truyền dẫn:
Hệ thống phương tiện vận tải đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định đến doanh số
bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt với các doanh
nghiệp kinh doanh thương mại.
_ Lắp đặt máy móc thiết bị:
Mặc dù đầu tư cho việc xây lắp chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đó là phần không thể thiếu
trong doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến khả năng vận hành máy móc của doanh nghiệp.
_ Sửa chữa và nâng cấp:Trong quá trình sản xuất doanh nghiệp cần chú trọng đến việc
bảo trì máy móc để tránh làm gián đoạn hoạt động sản xuất khi máy móc bị hỏng và gây
lãng phí vì thiết bị tốn quá nhiều nguyên liệu. Việc sửa chữa và nâng cấp tuy không thực
hiện thường xuyên nhưng là phần không thể thiếu trong doanh nghiệp vì ảnh hưởng đến
tình hình sản xuất kinh doanh, chi phí sản phẩm…

1.2.2. Đầu tư vào hàng tồn trữ
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm và
sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.
22
_ Đầu tư vào nguyên nhiên vật liệu:
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của doanh nghiệp sản xuất
nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại dịch vụ . Đầu tư bổ sung nguyên vật
liệu đem tồn trữ là cần thiết khi mà nguyên vật liệu đầu vào có tính chất không ổn định
về số lượng hay chất lượng ở mỗi thời kỳ hoặc mùa vụ. Doanh nghiệp dự trữ các nguyên
vật liệu cần thiết để duy trì hoạt động sản xuất.
_ Đầu tư vào bán thành phẩm:
Bán thành phẩm là sản phẩm chỉ mới trải qua một nửa trong chu trình sản xuất cần phải
trải qua một số công đoạn để thành một sản phẩm hoàn chỉnh để có thể đem ra tiêu thụ
trên thị trường. Đầu tư vào dự trữ bán thành phẩm làm giảm bớt rủi ro đối với hàng hoá,
đối với một số mặt hàng có yêu cầu bảo quản cao khi ở dạng thành phẩm
_ Đầu tư vào sản phẩm hoàn thành:
Sản phẩm hoàn thành là những sản phẩm đã là thành phẩm có thể xuất ra thị trường.Các
sản phẩm này thường được các doanh nghiệp tồn trữ bảo quản một phần. gọi là hàng tồn
kho
Vai trò của tồn kho:
+Tồn kho để giảm thời gian cần thiết đáp ứng nhu cầu
+Làm ổn định mức sản xuất của đơn vị trong khi nhu cầu biến đổi
+Bảo vệ đơn vị trước những dự báo thấp về nhu cầu

2. Đầu tư vào tài sản vô hình:
2.1. Khái niệm đầu tư vào tài sản vô hình:
23
Đầu tư vào tài sản vô hình là việc sử dụng những nguồn lực có ở hiện tại như tiền, sức
lao động, trí tuệ để tiến hành các hoạt động nhằm phát triển và tăng giá trị các tài sản
vô hình trong tương lai.

2.2. Các hình thức đầu tư vào tài sản vô hình:
2.2.1. Đầu tư vào nguồn nhân lực:
Đối với doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vị trí quan trọng. Đó là yếu tố duy nhất đưa
lại lợi ích kinh tế, làm tăng của cải cho doanh nghiệp. Người lao động là yếu tố cách
mạng nhất của quá trình sản xuất. Mặt khác, nguồn nhân lực có chất lượng cao góp phần
làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng thu hút đầu tư. Do vậy cần phải đầu
tư phát triển nguồn nhân lực.
Các hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực gồm:
_Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động bao gồm: đào tạo ngắn hạn, dài hạn, chính
quy, không chính quy bồi dưỡng nghiệp vụ…Đầu tư cho đào tạo đội ngũ lao động có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đất nước nói chung. có
nhiều lí do để một doanh nghiệp thực hiện đào tạo lao động:
_ Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế.: Công tác chăm sóc sức khỏe, y tế là công
tác bắt buộc phải có tại các doanh nghiệp hiện nay vừa thực hiện theo qui định của nhà nước vừa
đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp.
24
_ Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động: Nhân tố con người
đóng vai trò quyết định đến sự thành bại của công ty, do vậy việc đảm bảo môi trường làm việc tốt
cho người lao động là điều hết sức quan trọng để họ sản xuất và sáng tạo.
2.2.2. Đầu tư nghiên cứu và phát minh sáng chế, ứng dụng khoa học công nghệ:
Đầu tư vào nghiên cứu công nghệ mới để chế tạo sản phẩm mới giúp doanh nghiệp tạo được
lợi thế cạnh tranh trên thị trường( nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm).Công nghệ
càng cao sẽ càng giúp doanh nghiệp tối thiểu chi phí sản xuất Mặt khác, những công nghệ tiên
tiến còn giúp bảo vệ môi trường.Bao gồm:
Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển(R&D).
R&D chính là chìa khóa quyết định khả năng cạnh tranh thành công của DN. Sự phát triển bền
vững của một DN phải gắn chặt với hoạt động R&D. R&D giống như việc bỏ tiền trước mà kết
quả thu lại sau, nếu lãnh đạo DN không nhận thức đúng về R&D, không có quan điểm, định
hướng đầu tư lâu dài, xuyên suốt cho hoạt động R&D thì DN khó có thể sống sót trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt như hiện nay.

Chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận những công nghệ sản xuất mới, tăng
tính cạnh tranh trên thị trường đồng thời tiết kiệm được chi phí.
2.2.3. Đầu tư cho hoạt động Marketing, quảng cáo phát triển nhãn hiệu, thương hiệu:
Hoạt động marketing, quảng cáo giúp doanh nghiệp tiếp cận gần hơn với người tiêu
dùng ,về lâu dài nó sẽ giúp doanh nghiệp tạo được niềm tin cũng như uy tín trên thị
trường, từ đó nâng cao giá trị thương hiệu cũng như nhãn hiệu của doanh nghiệp. Đầu tư
cho hoạt động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại,
xây dựng thương hiệu
25

×