Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đề thi thử THPT quốc gia môn lịch sử lần 1 năm 2015 trường THPT lý tự trọng, bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.46 KB, 6 trang )

1
SỞ GD & ĐT BÌNH ĐINH KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2015
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG Môn thi: LỊCH SỬ; Khối: C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu 1. (3,0 điểm)
Trình bày hoàn cảnh lịch sử và những quyết định của Hội nghị Ianta (2/1945).
Theo em những quyết định của Hội nghị Ianta đã ảnh hưởng như thế nào đến quan hệ
quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai?
Câu 2. (2,0 điểm)
So sánh hai tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên và Việt
Nam Quốc dân đảng.
Câu 3. (2,0 điểm)
Phân tích điều kiện bùng nổ của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Điều
kiện nào đã quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám
Câu 4. (3,0 điểm)
Trình bày và phân tích những thắng lợi quân sự của quân dân ta đã tác động trực
tiếp đến việc triệu tập Hội nghị và ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.
Hết
Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm.
Họ và tên thí sinh: ; Số báo danh:
ĐỀ THI THỬ
2
SỞ GD & ĐT BÌNH ĐINH KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2015
TRƯỜNG THPT LÝ TỰ TRỌNG ĐÁP ÁN Môn thi: LỊCH SỬ; Khối: C
Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề
Câu Đáp án Điểm
Câu 1 Trình bày hoàn cảnh lịch sử và những quyết định của Hội nghị Ianta
(2/1945). Theo em những quyết định của Hội nghị Ianta đã ảnh
hưởng như thế nào đến quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ
hai?
3,0


điểm
Hoàn cảnh lịch sử:
- Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết
thúc. Nhiều vấn đề quan trọng, cấp bách được đặt ra trước các cường
quốc Đồng minh như: Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn các nước phát xít;
Tổ chức lại thế giới sau chiến tranh; Phân chia thành quả chiến thắng của
các nước thắng trận.
- Trong bối cảnh đó, một Hội nghị quốc tế đã họp ở Ianta (Liên Xô) từ
ngày 4 đến 11/2/1945 với sự tham gia của nguyên thủ ba cường quốc Liên
Xô, Mỹ, Anh (Xtalin, Rudơven và Sơcsin).
0,5đ
Hội nghị Ianta đã đưa ra những quyết định quan trọng:
- Thống nhất mục tiêu chung là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức
và chủ nghĩa quân phiệt Nhật. Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, sau
khi đánh bại phát xít Đức, Liên Xô sẽ tham gia chống Nhật ở châu Á.
- Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế
giới.
- Thoả thuận vị trí đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát
xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á.
+ Ở châu Âu: Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông Béclin
và Đông Âu; quân đội Mĩ, Anh chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây
Béclin và các nước Tây Âu.
+ Ở châu Á: Giữ nguyên trạng Mông Cổ; trả lại cho Liên Xô miền Nam
đảo Xakhalin và các quần đảo xung quanh, Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc
quần đảo Curin; ….
Quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản. Ở bán đảo Triều Tiên, Liên Xô
đóng quân ở miền Bắc và Mĩ đóng quân ở miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm
ranh giới. Trung Quốc trở thành quốc gia thống nhất và dân chủ.
Toàn bộ những quyết định tại Hội nghị cùng những thỏa thuận sau đó
của ba cường quốc đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới sau

chiến tranh, thường được gọi là trật tự hai cực Ianta.
1,5đ
Hội nghị Ianta đã ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế 1,0đ
ĐỀ THI THỬ
3
giới thứ hai:
- Toàn bộ những quyết định của Hội nghị Ianta cùng những thỏa thuận
sau đó của ba cường quốc đã trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới
sau chiến tranh, thường được gọi là trật tự hai cực Ianta.
- Với việc hình thành trật tự hai cực Ianta, thế giới đã phân chia thành hai
phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa đối lập với nhau về hệ tư tưởng,
chế độ xã hội, kinh tế, chính sách đối ngoại.
- Cùng với việc hình thành trật tự hai cực Ianta đã dẫn đến cuộc “Chiến
tranh lạnh” sau chiến tranh thế giới thứ hai giữa Mĩ và Liên Xô kéo dài
đến cuối những năm 80 của thế kỉ XX.
- Quan hệ quốc tế từ sau khi hình thành trật tự hai cực Ianta đến khi
Liên Xô tan rã đều xoay quanh những vấn đề liên quan đến trật tự hai
cực Ianta.
Câu 2 So sánh hai tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
và Việt Nam Quốc dân đảng.
2,0 điểm
Từ nửa sau những năm 20 của thế kỉ XX, ở Việt Nam xuất hiện Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên và Việt Nam quốc dân đảng. Đó là những tổ
chức chính trị yêu nước nhằm đánh đổ đế quốc để giành độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, giữa những tổ chức chính trị có những điểm khác nhau:
- Về đường lối chính trị: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đi theo
khuynh hướng vô sản ngay từ đầu; Việt Nam quốc dân đảng lúc đầu chưa
rõ ràng, về sau chuyển sang lập trường dân chủ tư sản.
- Về địa bàn hoạt động: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên thành lập ở
nước ngoài, sau đó chuyển trọng tâm hoạt động về nước, có cơ sở ở cả 3

kì; Việt Nam quốc dân đảng chủ yếu ở Bắc kì.
- Về phương thức hoạt động: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên coi
trọng công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. Đặc biệt, Nguyễn Ái
Quốc rất coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ nòng cốt cho cách
mạng. Trong khi đó, Việt Nam quốc dân đảng nặng về bạo động, ám sát,
sau khi bị động thì chuyển sang khởi nghĩa mặc dù chưa có sự chuẩn bị
chu đáo.
- Về lực lượng tham gia: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chú trọng
vận động các tầng lớp cơ bản trong nhân dân lao động. Việt Nam quốc
dân đảng chú trọng vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp.
- Về kết cục: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân hóa thành các tổ
chức cộng sản để sau đó hợp nhất lại thành Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong khi đó, Việt Nam quốc dân đảng với vai trò là một đảng cách mạng
theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã tan rã sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Điều đó cho thấy thắng lợi của khuynh hướng vô sản và thất bại của
khuynh hướng tư sản. Đó là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, phản
4
ánh xu thế khách quan của cách mạng Việt Nam.
Câu 3 Phân tích điều kiện bùng nổ của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945. Điều kiện nào đã quyết định thắng lợi của cách mạng tháng
Tám?
2,0 điểm
* Điều kiện khách quan: Thuận lợi
- Chiến tranh thế giới thứ hai ở vào thời điểm kết thúc: Tháng 5/1945
phát xít Đức bị tiêu diệt; Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tiến công
mạnh mẽ vào các vị trí của quân Nhật ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Ngày 6 và 9/8/1945, Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản.
- Ngày 9/8/1945, Liên Xô tấn công làm tan rã đạo quân Quan Đông của
Nhật ở Trung Quốc. Ngày 15/8/1945, chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng

đồng minh. Bọn Nhật ở Đông Dương hoang mang, tạo cơ hội ngàn năm
có một cho cách mạng Việt Nam.
- Quân đội đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp phát xít chưa kéo vào nước
ta.
Điều kiện khách quan có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
0,75đ
* Điều kiện chủ quan:
- Đảng cộng sản Đông Dương đã có quá trình chuẩn bị chu đáo với ba
cao trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Trong cao
trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Đảng cộng sản Đông
Dương đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về mặt đường
lối, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước
đầu tập dượt cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền,
nhân dân sẵn sàng nổi dậy khi có lệnh khởi nghĩa.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cao trào kháng Nhật
cứu nước phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi Nhật đảo chính Pháp. Toàn
dân đoàn kết một lòng, Đảng kịp thời phát động tổng khởi nghĩa trong
toàn quốc.
- Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc, ban hành quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi
nghĩa trong cả nước.
- Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân
Trào (Tuyên Quang) thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc và quyết định những vấn đề về
đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền…
- Tiếp đó, từ ngày 16-17/8/1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào nhất
trí tán thành quyết định lệnh Tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách
của mặt trận Việt Minh, đồng thời lập uỷ ban dân tộc giải phóng Việt
Nam tức chính phủ cách mạng lâm thời do Hồ Chí Minh đứng đầu.
1,25đ

5
Trong những điều kiện trên, thì điều kiện chủ quan giữ vai trò quyết
định. Vì nếu không có sự chuẩn bị chu đáo của Đảng, thì cho dù điều kiện
khách quan có thuận lợi, cũng không thể nổ ra một cuộc tổng khởi nghĩa
được. Sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trò quan trọng nhất.
Câu
4
Trình bày và phân tích những thắng lợi quân sự của quân dân ta đã
tác động trực tiếp đến việc triệu tập Hội nghị và ký kết Hiệp định Pa-
ri về Việt Nam.
3,0 điểm
Những thắng lợi quân sự của quân dân ta đã tác động trực tiếp đến việc
triệu tập Hội nghị:
* Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
1968:
+ Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực
lượng có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử tổng
thống ở Mĩ(1968), ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên
toàn miền Nam, trọng tâm là các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quân
Mỹ, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính
quyền về tay nhân dân, buộc Mỹ phải đàm phán rút quân về nước.
+ Đêm 30 rạng 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra ở
hầu khắp các đô thị miền Nam.
- Cuộc tổng tiến công diễn ra qua 3 đợt.
+ Đợt 1, từ ngày 30/1 đến 25/2/1968, Quân ta đồng loạt tiến công và nổi
dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị, 64/242 quận lị, ở hầu khắp các “ấp chiến
lược”
Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công vào cơ quan đầu não của địch:
Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha cảnh sát, Đài
phát thanh, Sân bay Tân Sơn Nhất…làm rung chuyển cả miền Nam.

+ Đợt 2, trong tháng 5 và 6; đợt 3 trong tháng 8 và 9/1968.
- Trong đợt 1: Ta loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 tên địch (43.000 lính
Mỹ), phá hủy khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh. Trong đợt
2 và 3 ta gặp khó khăn và tổn thất.
- Mặt dù có những tổn thất, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968 vẫn có ý nghĩa to lớn: Đã giáng đòn bất ngờ làm địch
choáng ván, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mĩ phải tuyên
bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh, chấm dứt không điều kiện ném bom phá hoại
miền Bắc, chấp nhận đến bàn đàm phán ở Pari. Mở ra bước ngoặt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
* Miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ:
Trong hơn 4 năm (từ ngày 5/8/1964 đến 1/11/1968), miền Bắc đã bắn rơi
và phá hủy 3243 máy bay trong đó có 6B52, 3F111), bắn cháy và chìm143
tàu chiến.
1,5 đ
6
- 1-11-1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc.
Những thắng lợi quân sự của quân dân ta đã tác động trực tiếp ký kết
Hiệp định Pa-ri về Việt Nam
1,5 đ
* Cuộc tiến công chiến lược năm 1972:
- 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược vào Quảng Trị, lấy Quảng
Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng khắp chiến trường
miền Nam.
- Cuối 6-1972, quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch:
Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ loại 20 vạn quân địch, giải phóng
vùng rộng lớn.
Cuộc tiến công chiến lược 1972, đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh
xâm lược (thừa nhấn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến

tranh”).
*Thắng lợi trong trận “Điện Biên Phủ trên không”:
- Cuối tháng 12 năm 1972, quân dân ta đã đánh bại cuộc tập kích chiến
lược đường hàng không bằng máy bay B52 của Mĩ vào Hà Nội, Hải
Phòng. Cuộc tập kích của Mĩ bắt đầu từ 18 đến 29/12/1972, nhằm giành
thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải kí một hiệp định có lợi cho Mĩ.
- Kết quả, nhân dân ta làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, bắn rơi
81 máy bay Mĩ (trong đó có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F 111), bắt sống 43
phi công Mĩ, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường hàng không bằng
máy bay B52 của Mĩ. Thắng lợi này được coi là trận “Điện Biên Phủ trên
không”.
- Tính chung, trong cuộc chiến tranh phá họai lần thứ hai (4/1972 đến
tháng 1/1973), miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay Mĩ, bắn cháy và làm bị
thương 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.
=> “Điện Biên Phủ trên không” là trận thắng quyết định của ta, đã buộc
Mĩ phải ngừng hẳn các hoạt động ném bom bắn phá miền Bắc
(15/1/1973). Góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
của Mĩ. Mĩ phải quay lại bàn đàm phán và kí với ta Hiệp định Pari về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).

×