Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.76 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình:
TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM
Thuộc nhóm ngành khoa học: KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ 3
HÀ NỘI, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “ TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình:
TÁC ĐỘNG CỦA GIÀ HÓA DÂN SỐ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM
Thuộc nhóm ngành khoa học: KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ 3
Họ và tên sinh viên (nhóm sinh viên):
1. HOÀNG PHI HÙNG Nam
2. NGUYỄN CÔNG CẢNH Nam
3. NGUYỄN TIẾN DŨNG Nam
4. NGÔ VĂN HẢI Nam
5. NGUYỄN HỒNG SƠN Nam
Lớp, Khoa:KINH TẾ HỌC 53 Năm thứ: 3/4
Ngành học:KINH TẾ HỌC
Người hướng dẫn: PGS. TS. GIANG THANH LONG
HÀ NỘI, 2014
3
TÓM TẮT
Là một quốc gia có mức thu nhập trung bình, song Việt Nam đã bắt đầu
bước vào giai đoạn “già hóa dân số” từ năm 2011 với tỷ lệ người trên 65 tuổi là 7%


so tổng dân số. So với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước
phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân
số Việt Nam khá cao. Hay thời gian cần thiết để chuyển từ giai đoạn “già hóa”
sang “già” là ngắn hơn nhiều nước: Pháp mất 115 năm, Mĩ mất 69 năm, Nhật Bản
và Trung Quốc mất 26 năm, trong khi Việt Nam chỉ mất có 20 năm. Từ thực trang
này, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tĩnh để xem xét tác động của già hóa dân
số đến lao động bình quân đầu người, một trong những nhân tố ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Từ đó chỉ ra già hóa dân số tác động đến tăng trưởng kinh tế
như thế nào? Kết quả hồi quy cho thấy già hóa dân số tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế trong giai đoạn trước (1990 – 2012) thông qua lao động bình quân
đầu người, điều này là dễ hiểu khi Việt Nam mới chính thức bước vào giai đoạn
già hóa từ năm 2011 và bùng nổ dân số của thời kì trước. Theo kết quả dự báo mà
nhóm nghiên cứu thu được thì tác động của già hóa sẽ là tác động tiêu cực tăng dần
trong các giai đoạn tiếp theo. Sau khi thực hiện phân tích dự báo tác động của biến
đổi dân số, cụ thể ở đây là già hóa dân số đến tăng trưởng kinh tế, chúng tôi đưa ra
một số khuyên nghị chính sách nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong tương lai
trước thực trạng già hóa dân số ở Việt Nam và tác động của vấn đề này đến tăng
trưởng kinh tế. Nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần có đồng bộ các chính sách tăng
trưởng, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội nhằm đảm bảo duy trì được
mức tăng trưởng trong tương lai. Cụ thể là:đặt chiến lược thúc đẩy phát triển kinh
tế gắn liền với các mục tiêu xã hội lên hàng đầu, tập trung vào nâng cao năng suất
lao động vì đây là sẽ yếu tố chính quyết định tăng trưởng của Việt Nam trong
tương lai, thúc đẩy người cao tuổi tham gia hoạt động kinh tế, đặc biệt là những
người có trình độ chuyên môn, kĩ thuật cao, góp phần duy trì số lượng lao động
trong nền kinh tế.
4
MỤC LỤC
5
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam, 1979 – 2011………………6

Bảng 2.2: Chỉ số già hóa và tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng của ở Viêt Nam, 1979–2049….8
Bảng 4.1: Thông kê tóm tắt số liệu dung để hồi quy …………………….………17
Bảng 5.1: Kết quả kiểm định Engler – Granger……………………….………….19
Bảng 5.2: Kết quả hồi quy mô hình (4.1)………………………… ………… 20
6
DANH MỤC HÌNH
Biểu đồ 2.1: Dân số tăng so với năm 1979…………………………………………7
Hình 2.1: Thời gian để dân số quá độ từ “già hóa” sang “già” của một số nước… 9
Biểu đồ 5.1: Tốc độ tăng trưởng lao động bình quân đầu người của Việt Nam,
1990 – 2012 18
Biểu đồ 5.2: Log(GDP bình quân đầu người) của Việt Nam, 1990 – 2012………18
Biểu đồ 5.3: Tỷ lệ phụ thuộc người già Việt Nam, 1990 – 2012……………… 19
7
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
WB : World Bank
: Ngân hàng Thế giới
GSO : General Statistics Office
: Tổng cục Thống kê
VHLSS : Viet Nam Household Living Standerds Survey
: Điều tra mức sống hộ gia đình
DS – KHHGD: Dân số - kế hoạch hóa gia đình
I. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Sự biến động của dân số luôn có được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia
trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Trong thời gian gần đây, sự thay đổi của
dân số có thể thấy rõ nhất là hiện tượng dân số già hoá nhanh. Già hóa dân số là
một điều tất yếu sẽ xảy ra đối với mỗi quốc gia trên toàn thế giới nhưng nó đang
xảy ra với một số nước có thu nhập trung bình và các nước đang phát triển trong
đó có Việt Nam. Với một nền kinh tế đang phát triển với mức thu nhập trung bình,
già hóa dân số thách thức tới lực lượng lao động nói riêng và tăng trưởng kinh tế
nói chung. Một quốc gia có dân số trẻ sẽ năng suất hơn một quốc gia có dân số già

vì nó sẽ có một lực lượng lao động tương đối so với quy mô dân số lớn hơn. Nhiều
người lao động hơn đông nghĩa với việc sản xuất ra nhiều hàng hóa dịch vụ hơn, vì
vậy các quốc gia có dân số trẻ thường có xu hướng phát triển nhanh hơn về kinh tế
so với các quốc gia có dân số già(Feyer 2007, Tang and MacLeod 2006).Bloom và
cộng sự (2011), Renuga Nagarajan và cộng sự (2013) và nhiều nhà nghiên cứu
khác đã chỉ ra điều này bằng việc nghiên cứu thực chứng cho nhiều nước với trình
độ phát triển kinh tế khác nhau.
Việt Nam cũng không ngoài xu thế đó, ở Việt Nam tỷ suất sinh và tỷ suất
chết giảm cùng với tuổi thọ tăng, người già Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng
8
cả về số lượng và tỷ lệ so với tổng dân số. Theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực
châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP), dân số một nước sẽ
bước vào thời kì già hóa khi tỷ lệ người cao tuổi (người trên 60 tuổi) so với tổng
dân số chiếm hơn 10%. Theo Tổng cục thống kê (2010) thì tỷ lệ người cao tuổi sẽ
đạt con số 10% tổng dân số ở Việt Nam vào năm 2017 hay nói cách khác Việt
Nam sẽ chính thức bước vào giai đoạn “già hóa” và năm 2017. Nhưng thực tế Việt
Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011, đến năm 2012 tỷ lệ người
cao tuổi ở Việt Nam đã là 10,2% so với tổng dân số. Đến khoảng năm 2037 thì
Việt Nam chính thức trở thành một nước có dân số “già” tức là Việt Nam chỉ mất
20 năm để quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già”. Chính vì vậy già hóa dân số là
một vấn đề lớn cần được chúng ta quan tâm ngay từ lúc này, để có được sự chuẩn
bị tốt cho việc giải quyết những hậu quả kinh tế do tác động của sự già hóa dân số
để duy trì tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn.
Mục tiêu của chúng tôi là xem xét tác động của già hóa dân đến tăng trưởng
kinh tế tại Việt Nam từ năm 2014 đến năm 2059, bằng việc sử dụng bộ số liệu thứ
cấp, được lấy từ cơ sở dữ liệu của tổ chức Ngân hàng Thế giới (WB) và Dự báo
dân số của tổng cục thống kê (GSO). Đầu tiên chúng tôi sử dụng số liệu của quá
khứ để ước lượng ảnh hưởng của tỷ lệ phụ thuộc của người già đến một trong
những yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế đó là lao động bình quân đầu
người. Trên cơ sở ước tính được, có thể thấy được tác động của già hóa dân số đến

tăng trưởng kinh tế.Tiếp theo, chúng tôi sẽ sử dụng dự báo dân số của tổng cục
thống kê (GSO) để dự báo tác động của biến đổi dân số hay cụ thể là già hóa dân
số đến tăng trưởng kinh tế trong thời kì 2014 - 2059.
Nhìn chung, mục tiêu của nghiên cứu là xem xét tác động của già hóa dân số
đến lao động bình quân đầu người. Hiểu được mối quan hệ giữa già hóa dân số và
tăng trưởng kinh tế. Từ đó đề xuất các giải pháp, ý kiến góp phần cải tiến, điều
chỉnh và đưa ra các chính sách phù hợp cho sự phát triển trong tương lai. Để đạt
được mục tiêu này, bài nghiên cứu xem xét, tập trung trả lời những câu hỏi sau:
1. Già hóa dân số có ảnh hưởng như thế nào đên lao động bình quân đầu
người?
9
2. Già hóa dân số có ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam?
3. Chúng ta cần phải có những chính sách, giải pháp phù hợp ngay hiện tại
và trong tương lai để ổn định tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn?
Nội dung bài nghiên cứu của chúng tôi gồm 7 phần chính. Trong phần II tiếp
theo chúng tôi sẽ chỉ ra tính cấp thiết của đề tài chúng tôi nghiên cứu. Phần III sẽ
tóm tắt một số nghiên cứu trước đây có liên quan và đưa ra khung lý thuyết cho
toàn bộ nghiên cứu. Phần IVnhóm nghiên cứu sẽ sử dụng số liệu và mô hình để
ước lượng đưa ra kết quả. Trong phần V chúng tôi phân tích kết hồi quy và sử
dụng dự báo dân số để dự báo cho thời kì tiếp theo. Phần VI đề xuất một số chính
sách. Cuối cùng là phần VII đưa ra một số kết luận cho bàu nghiên cứu.
II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Những người 60 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi (Điều 2, Luật người
cao tuổi Việt Nam). Ở một số quốc gia thì người cao tuổi là người 65 tuổi trở lên.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam người cao tuổi đang tăng nhanh cả về số lượng
và tỷ lệ. Quá trình tăng dần tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số gọi là “già hóa
dân số”. Đây là môt đặc điểm lớn về dân số và xã hội của những năm gần đây,
được cộng đồng quốc tế rất quan tâm. “Già hóa dân số” đang là một trong những
thách thức chủ yếu của quá trình phát triển đặc biệt đối với các nước nghèo. Theo

Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc
(UNESCAP) thì một nước được gọi là “bắt đầu già” khi số dân từ 60 tuổi trở lên
đạt 10% hoặc số dấn trên 65 tuổi chạm ngưỡng 7% so với tổng dân số. Một nước
được gọi là “già” khi hai tỷ lệ này tương ứng là 20% và 14%.
Có thể thấy người cao tuổi ở Việt Nam đang tăng nhanh cả về tỷ lệ và con số
tuyệt đối qua bảng 1. Cụ thể là nếu năm 1989 người cao tuổi (người trên 60 tuổi)
chỉ tăng thêm 93 vạn và tỉ lệ nâng cao thêm 0,3% thì năm 1999, các con số tương
ứng là 155 vạn và 0,9%. Đến năm 2011 thì số người cao tuổi đã lên đến 8.65 triệu
người và tỷ lệ người cao tuổi đã chạm ngưỡng 9.9%. Điều đó cho thấy tốc độ già
10
hóa dân số ở Việt Nam cáo chưa từng có và đã bước vào giai đoạn “bắt đầu già” từ
năm 2011.
Bảng 2.1: Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi Việt Nam

m
Tổng dân số
(triệu người)
Người cao tuổi60+
(triệu người)
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ 65+ (%)
1979 53,74 3.71 6.9 4.7
1989 64,38 4.64 7.2 4.7
1999 76,33 6.19 8.1 5.8
2009 85,84 7.54 8.68 6.4
2010 86,75 8.15 9.4 6.8
2011 87,61 8.65 9.9 7.0
Nguồn: GSO, Tổng điều tra dân số & nhà ở 1979,1989,2009 và Điều tra Biến động DS–KHHGD,2010,2011
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999 và 2009 của GSO
Biểu đồ 2, cho thấy dân sô cao tuổi tăng nhanh nhất trong các nhóm dân số.
Trong giai đoạn 1979 – 2009, nếu lấy năm 1979 làm năm cơ sở thì tổng dân sốtăng

1.6 lần, dân số trẻ em chỉ giảm chỉ bằng 0.92 lần, dân số trong độ tuổi lao động
2.08 lần, còn dân số cao tuổi tăng gấp 2.13 lần.
Dân số tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng sẽ giảm mạnh, trong khi chỉ số già hóa tăng lên
(Bảng 2).
Bảng 2.2: Chỉ số già hóa và tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng ở Việt Nam, 1979 -
2049
Năm
197
9
198
9
199
9
200
9
201
9
202
4
202
9
203
4
203
9
204
4
2049
Chỉ số già
hóa

16 17 24 36 50 65 85 107 124 141 158
Tỷ lệ hỗ
trợ tiềm
năng
7.44 7.43 7.33 7.27 5.29 4.60 3.83 3.27 2.88 2.51 2.20
Nguồn: Tổng điều tra dân số năm 1979,1989,1999 và 2009 và Dự báo dân số của GSO (2010)
Bảng 2 cho thấy, chỉ số già hóa sẽ vượt ngưỡng 100 vào khoảng năm 2033.
Đây là thời điểm Việt Nam bắt đầu có dân số cao tuổi nhiều hơn dân số trẻ em. Dự
báo dân số cũng cho thấy tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng trong thời gian
tới khi tốc độ tăng của dân số cao tuổi ngày càng lớn. Nếu năm 2009, cứ 7 người
11
trong độ tuổi lao động sẽ hỗ trợ 1 người cao tuổi thì đến năm 2049, tỷ số này chỉ
còn là 2, tức giảm hơn 3 lần.Việc tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng cho
thấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của người già phụ thuộc ngày càng đè nặng lên
dân số ở độ tuổi lao động. Làm cho lực lượng lao động thu nhỏ và số lượng người
cao tuổi phụ thuộc tăng lên sẽ có nghĩa là giảm sút về thu nhập bình quân đầu
người, tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư và năng suất cũng như việc tăng chi tiêu công cho an
sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi của người cao tuổi. Không những thế,
tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm còn dẫn đến nguy cơ vỡ quỹ Bảo hiểm xã hội,đặc biệt
đối với các hệ thống trả lương hưu nhưở Việt Nam theo kiểu cứ nghỉ hưu là trả
lương hưu trong đó những người lao động hiện tại chi trả cho những người đang
nghỉ hưu.
Hình 2.1: Thời gian để dân số quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già” của
một số nước
Nguồn: Kinsella và Gist, 1995; U.S. Census Bureau, 2005; Việt Nam: GSO (2010), theo
UNFPA (2011)
So với các quốc gia khác trên thế giới, thậm chí với nhiều nước phát triển
hoặc có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn, tốc độ già hóa dân số Việt
12
Nam khá cao. Hay thời gian cần thiết để chuyển từ giai đoạn “già hóa” sang “già”

là ngắn hơn nhiều nước (Hình 1): Pháp mất 115 năm, Mĩ mất 69 năm, Nhật Bản và
Trung Quốc mất 26 năm, trong khi Việt Nam chỉ mất có 20 năm.
Từ tất cả các yếu tố nêu trên, có thể thấy Việt Nam đang đối diện với “sự già
hóa” nhanh chóng. Với điều kiện phát triển kinh tế và xã hội như hiện nay thì đây
là một thách thức lớn cho Việt Nam trong việc thích ứng với dân số “già hóa”
nhanh. Việt Nam có thể sẽ trở thành một nước già trước khi giàu. Nhiều nước già
hóa dân số diễn ra từ lâu, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm đối phó với thực
trạng này. Trong khi đó, ở Việt Nam thời gian qua chính sách dân số ở nước ta tập
trung vào vấn đề giảm sinh nên các công trình nghiên cứu cũng mới chỉ tập trung
vào mức sinh và kế hoạch hóa gia đình, còn rất ít các công trình nghiên cứu toàn
diện và sâu về người cao tuổi. Do vậy, ngay từ bây giờ cần đẩy mạnh nghiên cứu
quá trình già hóa dân số ở nước ta làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi chính
sách, chiến lược quốc gia nhằm đối phó với xu hướng già hóa dân số diễn ra ngày
càng nhanh, mạnh. Nhằm nâng cao chất lượng sống của người cao tuổi cũng như
ổn nền kinh tế trong trung và giài hạn.
III. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Trong nhiều thập niên qua, các nhà kinh tế và các nhà học giả nghiên cứu xã
hội đã tranh luận về ảnh hưởng của biến động dân số đối với tăng trưởng kinh tế.
Người ta đưa ra 3 luận điểm về khả năng tác động: Dân số tăng làm hạn chế tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hoặc trung tính, không liên quan gì đến
tăng trưởng kinh tế. Có nhiều lập luận được đưa ra nhằm lý giải cho những luận
điểm này. Tuy nhiên, những lập luận đó đều dựa trên vấn đề quy mô và tăng trưởng
dân số. Trong những năm gần đây, cuộc tranh luận đã nêu và nhấn mạnh một số vấn
đề cốt yếu, cơ cấu tuổi của dân số (phân bố của các nhóm tuổi khác nhau của dân
số). Cơ cấu tuổi thay đổi đáng kể khi dân số tăng trưởng.
Theo Blooom, Canning và Sevilla (2011) thìhành vi kinh tế của con người
thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau của cuộc đời, những thay đổi trong cơ
cấu tuổi của một quốc gia có thể gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh tế
13
của quốc gia đó. Các quốc gia có tỷ lệ trẻ em cao sẽ phải dành nguồn lực nhiều

hơn đầu tư cho chăm sóc trẻ em do vậy làm chậm đi nhịp tăng trưởng của kinh
tế. Ngược lại, nếu phần lớn dân số quốc gia nằm trong độ tuổi lao động, năng
xuất lao động tăng thêm của nhóm dân số này có thể tạo ra lợi tức dân số và
kéo theo tăng trưởng kinh tế với giả thiết có được các chính sách phát huy lợi
thế này. Thực tế, hiệu quả tổng hoà của việc có nhóm dân số độ tuổi lao động
với quy mô lớn và sức khỏe, gia đình, lao động, tài chính và các chính sách
nguồn nhân lực có thể tạo ra những chu kỳ phát triển của cải vật chất tốt. Và
nếu người già chiếm một tỷ lệ lớn trong dân số quốc gia, thì cũng chịu ảnh
hưởng như quốc gia có dân số rất trẻ. Phân chia nguồn lực cho các bộ phận
dân số có năng xuất lao động tương đối kém là cần thiết, nhưng điều đó có thể
cản trở việc tăng trưởng kinh tế. Sau khi lần lại các bước phát triển của các lý
thuyết về ảnh hưởng của tăng trưởng dân số, các tác giả đã xem xét lại các
bằng chứng cho thấy những ảnh hưởng tương tự đối với tăng trưởng kinh tế do
thay đổi cơ cấu tuổi. Nghiên cứu cũng đánh giá mối quan hệ giữa biến động
dân số và phát triển kinh tế ở một số vùng cụ thể như: Đông Á, Nhật Bản,
OECD, Bắc Mỹ và Tây Âu; Trung -Nam Á và Đông Nam Á; Mỹ La tinh;
Trung Đông và Bắc Phi; Tiểu Xa-ha-ra Châu Phi; Đông Âu và Liên Xô cũ. Sau
hết, các tác giả bàn luận xoay quanh các biến chính sách chủ yếu, gắn kết giảm
mức sinh với tăng nhóm dân số trong độ tuổi lao động, đã góp phần vào tăng
trưởng kinh tế ở một số khu vực của thế giới đang phát triển.
Trong khi đó theo Nguyễn Thị Minh(2009)- nghiên cứu thực nghiệm về tác
động của cơ cấu tuôi của dân số tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Thống kê cho
thấy, trong những năm gần đây, số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam
đang tăng lên đáng kế đi liền với sự suy giảm của tỉ lệ phụ thuộc trong dân số. Sự
thay đôi này đã và đang tạo ra cơ hội tốt cho nền kinh tế đê thúc đấy tăng trưởng,
ít nhất là trong ngắn và trung hạn. Các kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy cũng
chỉ ra rằng Việt Nam đang tận dụng được cơ hội này: sự thay đổi trong cơ cấu
tuôi của dân số đã đóng góp tới 15% cho tăng trưởng trong những năm gần đây.
Bên cạnh đó khác với nhóm tuổi trẻ em, mặc dù bị xếp vào nhóm người phụ thuộc
14

nhưng những người già ở Việt Nam dường như không hề gây nên những tác động
tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế.
Cũng trong một nghiên cứu gần đây, GS.TS. Nguyễn Đình Cử (2012) đã chỉ
ra rằng Những biến đổi dân số có tác động đến tăng trưởng kinh tế trong quá khứ
và tương lai:Từ 1989 đến 1999, tỷ lệ tăng dân số giảm, tỷ lệ dân số trong độ tuổi
lao động tăng đã đóng góp vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm là 0,83%.
Tương tự, giai đoạn 1999-2009 là 1,19% và giai đoạn 2009-2019 là 0,2%.
Cũng theo ThS. Bùi Thị Minh Tiệp (2011) Tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam thời gian qua cũng đã có những cải thiện rõ rệt nhờ vào quá trình đổi
mới kinh tế và có sự đóng góp tích cực của lực lượng lao động ngày càng gia
tăng do quá trình biến đổi cơ cấu tuổi dân số mang lại. Dân số trong độ tuổi lao
động tăng là yếu tố tác động tích cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi tỷ lệ dân
số trong tuổi lao động (15-60 tuổi) tăng thêm 1% thì tăng trưởng kinh tế tăng thêm
2,78%. Hiện nay, lực lượng lao động trẻ và dồi dào là đặc trưng cơ bản và rõ rệt
nhất của cơ cấu dân số nước ta. Lực lượng lao động lớn và có kỹ năng sẽ giúp
Việt Nam thâm nhập nhanh hơn và sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
Cần phải quan tâm thích đáng tới vấn đề tạo việc làm và đào tạo lao động bằng các
chính sách cụ thể như: chính sách giáo dục đào tạo, chính sách lao động, việc
làm…. Dân số trong tuổi lao động tăng mạnh làm cho tiết kiệm tăng lên, từ đó
đóng góp cho đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Khi dân số trong độ tuổi lao động tăng
làm gia tăng tiết kiệm và tái đầu tư trong xã hội, 1% gia tăng của vốn đầu tư sẽ làm
tăng 0.4% GDP. Lực lượng lao động dồi dào, có việc làm với thu nhập ngày càng
cao sẽ là nguồn đóng góp lớn cho quỹ an sinh xã hội, bên cạnh đó đóng góp tích
cực cho tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội, chuẩn bị sẵn sàng cho một tương lai
dân số già ở giai đoạn tiếp theo.
Trong bài nghiên cứu Impact of population aging on Asia’s future growth
của Donghyun Park and Kwanho Shin 2 tác giả đã ước tính được ảnh hưởng của tỷ
lệ người cao tuổi phụ thuộc và tỷ lệ thanh thiếu niên tới bốn nguồn tăng trưởng
15
trong 12 nền kinh tế: lực lượng tham gia lao động, TFP, vốn tỷ lệ lao động, và tỷ lệ

tiết kiệm. Chính xác hơn, đo lường tác động của việc già hóa tới tốc độ tăng trưởng
GDP/người (=Y/P) dựa trên phương trình
Giả sử rằng tốc độ tăng trưởng GDP/người đã thay đổi. Khi đó, dựa vào
phương trình có thể thấy rằng đã có những sự thay đổi trong bất kì thành phần nào
của vế bên phải. Thật hợp lý khi hy vọng rằng bốn thành phần được xác định cùng
một lúc, vì vậy mặc dù đây là điều tốt nhất để tạo thành một hệ thống bốn phương
trình, nhưng hệ thống đó sẽ quá phức tạp. Để đơn giản hóa việc phân tích, 2 nhà
nghiên đã giả định rằng thành phần đầu tiên và cuối cùng, lực lượng tham gia lao
động và giáo dục, được xác định một cách độc lập. Chúng tôi cho rằng tỷ lệ tham
gia lao động được xác định chủ yếu bởi mức độ GDP bình quân đầu người và bởi
các yếu tố nhân khẩu học
Biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng của lực lượng lao động bình quân đầu
người, đó là, lực lượng lao động chia cho tổng dân số. Các biến độc lập là tỷ lệ phụ
thuộc tuổi già, tỷ lệ trẻ em phụ thuộc GDP/người và GDP/ người bình phương. Cả
hai biến phụ thuộc và biến giải thích là giá trị trung bình mười năm.
Hồi quy trong 2 trường hợp hiệu ứng ngẫu nhiên hiệu ứng cố định cho kết quả là:
tỷ lệ phụ thuộc tuổi già đóng vai trò đáng kể trong cả hai kết quả, trong khi tỷ lệ
phụ thuộc trẻ chỉ đáng kể duy nhất trong hiệu ứng hồi quy cố định. Theo dự kiến,
cả hai hệ số đều tiêu cực. Các hệ số cho thấy nếu tỷ lệ phụ thuộc người già tăng
10% thì tốc độ tăng trưởng lao động bình quân đầu người sẽ giảm, hoặc bằng
0,56% (hiệu ứng ngẫu nhiên) hoặc 0,68% (hiệu ứng cố định). Hiệu ứng này dự
kiến sẽ kéo dài trong mười năm. Vì vậy, như mong đợi, kết quả của nghiên cứu chỉ
ra rằng sự thay đổi nhân khẩu học có tác động đáng kể đến lực lượng tham gia lao
động.
Với kết quả hồi quy của Donghyun Park and Kwanho Shin chúng tôi thấy
có thể bỏ biến tỷ lệ trẻ em phụ thuộc để đơn giản hóa mô hình nếu cần thiết bởi tác
động của nó tới tang trưởng là không lớn.
Tuy nhiên Bloom, Canning xem xét sự ảnh hưởng của già hóa dân số qua
mô hình khác
16

Với WA là số người trong độ tuổi lao động giả định WA=L với tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động có tính liên tục
Với những giả định trong nghiên cứu
1)y=log ,z=log ,w=log
2)Có một mức độ trạng thái ổn định thu nhập cho người trong độ tuổi lao động
z
*
đặt z
*
=βx
3)Với x là vector bao gồm một tập hợp các biến để xác định thu nhập trạng thái
ổn định mỗi người trong độ tuổi lao động
mô hình cấu trúc cho các yếu tố ảnh hưởng đến cân bằng dài hạn như sau
x=α
1
x
_1
+ α
2
w +α
3
y w=y
1
x+ y
1
w
-1
+ y
3
y

(Bloom, Canning, and Malaney (2000), Bloom, Canning, and Sevilla (2003), and
Bloom and Canning (2003)
Hai nhà nghiên cứu thể thể hiện mức độ trạng thái ổn định của thu nhập bình quân
đầu người y
*
như sau:
y* =z
*
+w=βx+w
(y*-y
-1
)=βx+w- y
-1
)= δ
1
x
-1
+ δ
2
w
-1
+ δ
3
y
-1
Hệ số δ là sự kết hợp của các hệ số cấu trúc.
Ưu điểm của hình thức nay là tất cả các biến bên phải thê hiện giá trị của
thời kỳ trước của thời điểm xem xét nó là yếu tố ngoại sinh với cú sốc tăng trưởng
điều này khăng định cung ứng lao động WA và tổng sản lượng Y được gắn chặt
với kích thước dân số độ tuổi lao động.

IV. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý thuyết
Để xem xét mối quan hệ giữa già hóa dân số với tăng trưởng kinh tế, trước
hết chúng tôi xem xét sự tăng trưởng và các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Rồi tìm hiểu biến đổi nhân khẩu học tác động thế nào tới các nhân tố đó thông qua
hàm sản xuất Cobb-Duglas.
Để nắm bắt được tác động của sự thay đổi nhân khẩu học, chúng tôi phân
biệt giữa dân số, P, và lực lượng lao động, L. GDP bình quân đầu người (Y/P) là
sản phẩm của lực lượng lao động bình quân đầu người – tỷ lệ người lao động trên
tổng dân số - và tỷ lệ sản lượng trên lực lượng lao động.
17
=
trong đó Y = tổng GDP, P = dân số, L = lực lượng lao động, A = năng suất
tổng yếu tố, K = tổng vốn hiện vật, h = nguồn nhân lực, và ∞ = phần vốn trong thu
nhập.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người (=Y / P) bằng với tốc độ tăng
trưởng của lực lượng lao động bình quân đầu người cộng với tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân lao động.
Có thể phân tách tốc độ tăng trưởng GDP bình quân lao động (=Y/L) tiếp
tục như sau:
Dẫn đến
Phương trình cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người được
tạo thành từ bốn thành phần: tốc độ tăng trưởng của bình quân lao động, TFP, vốn
hiện vật bình quân mỗi lao động, và vốn con người.
Tuy nhiên, trong phạm vi bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ xem xét tác
động của già hóa tới yếu tố tốc độ tăng trưởng của bình quân lao động. Trong đó,
việc sử dụng biến bình quân lao động chủ yếu xem xét tới sự thay đổi về mặt số
lượng lao động. Thay vì việc xem xét các yếu tố liên quan tới chất lượng của lao
động như giáo dục, y tế, kỉ luật lao động…, bài nghiên cứu sẽ tập trung vào sự thay
dổi về số lượng của lao động. Đây là một kênh quan trọng, mà qua đó ảnh hưởng

tới tăng trưởng kinh tế.
Sự tăng trưởng của lực lượng lao động phụ thuộc vào các yếu tố về kinh tế,
xã hội và các yếu tố nhân khẩu học (Department of Labour New Zealand 2013).
18
2. Phương pháp nghiên cứu
Theo nghiên cứu của Donghyun Park và Kwanho Shin (2012) và nghiên cứu
của Jong-Wha Lee và Kiseok Hong (2010),đã chỉ ra rằng già hóa dân số có tác
động một cách gián tiếp đến tăng trưởng kinh tế thông qua 4 nhân tố cơ bản có ảnh
hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia đó là: lao động bình quân
đầu người, năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), tỷ lệ vốn trên lao động và tỷ lệ tiết
kiệm. Nhưng trong phám vi bài nghiên cứu này chúng tôi chỉ xem xét ảnh hưởng
của già hóa dân số đến lao động bình quân đầu người, là một trong những nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế thông qua phương trình (4.1):
Trong đó: L – là lao động, P – là tổng dân số, – là GDP bình quân đầu
người, Old
t
- tỷ lệ phụ thuộc người già.
Chúng tôi xem xét lực lượng lao động thông qua số người trong độ
tuổi lao động với giả định rằngtỷ lệtham gia lực lượng lao động là không thay
đổi.Trong thực tế con số này không phải là cố định với việc tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động của nữ giới có xu hướng tăng lên ở các nước đang phát triển, nhu
cầu học tập của các thế hệ thanh niên tăng lên đã làm cho xu hương giảm tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động của nhóm dân số này.Nhóm nghiên cứu sử dụng , làm
biến phụ thuộc hàm ý rằng già hóa dân số tác động đến tốc độ tăng trưởng của lao
động bình quân đầu người,được tính cụ thể theo công thức sau:
Để đại diện cho yếu tố già hóa dân số chúng tôi sử dụng biến tỷ lệ phụ
thuộc người già (). Được tính bởi công thức:
Trong đó: Pop65 – là tỷ lệ người trên 65 tuổi trên tổng dân số, Pop14_65 –
là tỷ lệ người từ 14 đến 64 tuổi trên tổng dân số.
Biến độc lập còn lại là GDP bình quân đầu người (ln(yt)).Sở dĩ chúng tôi

đưa biến đại diên cho sự thay đổi của nền kinh tế vì đây là một trong những yếu tố
này ảnh hưởng tới số lượng lao đông (Theo Chương Lao động – Việc Làm với
Phát triển kinh tế, Giáo trình kinh tế phát triển Đại học Kinh Tế Quốc Dân). Ở đây
19
sử dụng biến ln(yt) chỉ mang tính kĩ thuật nhằm mục địch làm “mượt” số liệu. Việc
này nhằm mục đich làm rõ hơn mối quan hệ của chúng với các chuỗi số liệu khác
trong mô hình (4.1).
Tiếp theo để trả lời cho câu hỏi:già hóa dấn số cóảnh hưởng như thế nào
đến tăng trưởng kinh tế? chúng tôi sử dụng phương trình (4.2)
Trong đó: Y=Tổng thu nhập quốc dân, P=Dân số, L=Lực lượng lao động,
K=Vốn hiện vật, A=Năng xuất tổng hợp các nhân tố (TFP), h=Nguồn nhân lực,
α=phần vốn trong thu nhập.
Từ phương trình (4.2), có thể thấy rằng tốc độ thay đổi của lao động bình
quân đầu người ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế theo tỷ lệ 1:1. Điều này
chứng tỏ nếu ước lượng được tác động của già hóa dân số tới lao động bình quân
đầu người thì ta sẽ đánh giá được ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế.
Cần phải nói thêm rằng, việc sử dụng mô hình với các số liệu phổ biến như:
dân số, lao động và GDP bình quân đầu người trong điều kiện Việt Nam trở nên
phù hợp hơn các mô hình khác.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp hồi quy tính (Static
time series regression) để ước lương mô hình (4.1).
3. Số liệu
Số liệu mà chúng tôi sử dụng để phục vụ cho bài nghiên cứu là bộ số liệu
thứ cấp của Viêt Nam, được lấy từ cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB).Cụ
thể các số liệu mà chúng tôi sử dùng để phục vụ cho bài nghiên cứu đó là: GDP
bình quân đầu người, dân số, cơ cấu dân số và lực lượng lao động, được tổng hợp
từ cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), truy cập ngày 30 tháng 3 năm
2014).
Bảng 4.1: Thông kê tóm tắt số liệu
Các biến Trung Bình Độ lệch chuẩn

Tốc độ thay đổi tỷ lệ lao động 0.008330 0.002942
20
Tỷ lệ phụ thuộc tuổi già 9.937716 0.359311
Log(GDP bình quân đầu người) 6.158837 0.800968
Số quan sát 23
Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu chỉ sử dụng số liệu trong
giai đoạn 1990 – 2012 để tính toán. Từ bộ sô liệu thứ cấp lấy được từ cơ sở dữ liệu
của WB, nhóm nghiên cứu tính toán được số liệu các biến: tốc độ thay đổi tỷ lệ lao
động (), tỷ lệ phụ thuộc tuổi già (Old) và log(GDP bình quân đầu người) (ln(yt))
trong giai đoạn 1990 – 2012.
V. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ VÀ DỰ BÁO
1. Phân tích kết quả
Bởi số liệu trong bài nghiên cứu là các chuỗi thời gian, nên việc sử dụng
phương pháp hồi quy tĩnh sẽ đánh giá được mối quan hệ giữa các biến độc lập với
biến phụ thuộc. Tuy nhiên bản thân các chuỗi số này là các chuỗi số tích hợp bậc
nhất I(1) vì vậy có khả năng tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp giữa các chuỗi số
trong mô hình (4.1). Nếu điều này xảy ra thì chứng tỏ rằng có sự tồn tại của mỗi
quan hệ trong dài hạn giữa tỷ lệ phụ thuộc người già và GDP bình quân đầu người
đến lao động bình quân đầu người hay nói cách khác có mối quan hệ giữa già hóa
dân số và lao động bình quân đầu người.
Biểu đồ 5.1: Tốc độ tăng trưởng lao động bình quân đầu người Việt
Nam giai đoạn 1990 -2012 (Nguồn: Ngân hàng Thế giới (WB))
21
.002
.004
.006
.008
.010
.012
.014

90 92 94 96 98 00 02 04 06 08 10 12
DLNL
Biểu đồ 5.2: Log(GDP bình quân đầu người) của Việt Nam giai đoạn
1990 – 2012 (Nguồn: WB)
4.5
5.0
5.5
6.0
6.5
7.0
7.5
90 92 94 96 98 00 02 04 06 08 10 12
LYT
Biều đồ 5.3: Tỷ lệ phụ thuộc người già của Việt Nam giai đoạn 1990 –
2012 (Nguồn: WB)
22
9.2
9.4
9.6
9.8
10.0
10.2
10.4
90 92 94 96 98 00 02 04 06 08 10 12
OLD
Chúng tôi sử dụng phương pháp Engle – Granger để kiểm định mỗi quan hệ
đồng tích hợp giữa các chuối số.
Bảng 5.1: Kết quả kiểm định Engle – Granger (Nguồn: MacKinnon (2010)
1% 5% 10%
Biến kiểm định -3.90 -3.34 -3.04

Phần dư của mô hình hồi quy (3.1) t-Statistic -3.955
Kết quả kiểm định cho thấy sai số của hồi quy (3.1) là chuối dừng với mức
ý nghĩa 5% và 10%, thông kê kiểm định ADF (-3.955069) nhỏ hơn giá trị tới hạn
(-3.74) ở mức ý nghĩa 5% và (-3.45) ở mức ý nghĩa 10%. Điều này chứng tỏ có
mối quan hệ giữa già hóa dân số và lao động bình quân đầu người trong dài hạn.
Tiếp theo chúng tối xem xét tác động cụ thể của già hóa dân số đến tỷ lệ lao
động thông qua kết quả hồi quy mô hình (3.1). Biến phụ thuộc là tốc độ tăng
trưởng của lực lương lao động bình quân đầu người, lực lượng lao động chia cho
23
tổng dân số. Các biến độc lập là t Các biến độc lập là tỷ lệ phụ thuộc tuổi già,
log(GDP bình quân đầu người).
Bảng 5.2: Kết quả hồi quy mô hình (4.1)
Biến phụ thuộc: Tốc độ thay đổi tỷ lệ lao động
Biến giải thích
Coeff
T-
statistics
Sig.
Tỷ lệ phụ thuộc tuổi già 0.0108 11.20 0.000
Log(GDP bình quân đầu người) 0.0057 12.10 0.000
R-squared 0.891134
Bảng (3.3) cho thấy, tỷ lệ phụ thuộc người giàcó tác động dương () đến tốc
độ tăng trưởng lao động bình quân đầu người . Hệ số cho thấy nếu tỷ lệ phụ thuộc
người già tăng 10% thì tốc tăng trưởng lao động bình quân đầu người sẽ tăng
0.10845%. Sở dĩ tốc độ tăng trưởng lao động bình quân đầu người tăng trong tỷ lệ
phụ thuộc người già cũng tăng lên bởi vì cơ cấu tuổi trong thời kì này ở Việt Nam
là dân số trẻ. Bên cạnh đó các chính sách về kế hoạch hóa gia đình thời kì bấy giờ
làm cho tỷ lệ trẻ em giảm cũng là một nguyên nhân khiến cho tỷ lệ của nhóm
người trong độ tuổi lao đông (tờ 15 đến 64 tuổi) và già tăng.
Già hóa dân số sẽ tác động lên tăng trưởng kinh tế thông qua kênh lao động,

một trong những kênh có ảnh hương trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Theo
phương trình (3.2), thì tỷ lệ phụ thuộc người già cũng ảnh hưởng đến tốc độ tăng
GDP bình quân đầu người cũng với hệ số .
2. Dự báo
Để dự báo tác động của già hóa dân số tới tăng trưởng kinh tế, chúng tôi sử
dụng phương trình sau:
= + (5.1)
Trong đó:
24
: Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người
: Tốc độ tăng năng suât lao động
: Tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động
: Tốc độ tăng dân số
Giả định rằng tốc độ tăng năng suất lao động trong thời kì tới là bằng nhau và
bằng tốc độ tăng năng suất lao động bình quân thời kì trước (giai đoạn 1990 –
2012), tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng chủ bởi tốc độ tăng lao động và
tốc độ tăng dân số. Dựa vào phương trình (5.1), chúng tôi sẽ tính được tác động cụ
thể sự thay đổi cơ cấu dân số tới kinh tế như thế nào.
Để thực hiện dự báo, chúng tôi sử dụng số liệu Dự báo dân số thời kì 2009-
2059 của Tổng cục thống kê (GSO).
Năm 2009 2014 2019 2024 2029 2034 2039 2044 2049 2054 2059
Dân số
85.8
5
90.8
2
95.4
7
99.4
2

102.6
5
105.2
2
107.0
2
107.9
1
107.8
8
107.0
3
105.5
5
p15-64
59.3
4
63.8
7
66.9
4
69.0
6
70.87 71.96 71.97 71.20 69.49 67.24 64.50
p65+ 5.51 5.69 6.76 8.93 11.68 14.30 16.65 18.53 20.57 22.58 24.51
Old 9.29 8.90
10.1
0
12.9
4

16.48 19.87 23.14 26.03 29.60 33.58 37.99
Tỷ lệ
tăng dân
số
1.13 1.00 0.82 0.64 0.50 0.34 0.17 0.00 -0.16 -0.28
Tỷ lệ
tăng lao
động
1.48 0.94 0.63 0.52 0.30 0.00 -0.21 -0.49 -0.65 -0.83
Tỷ lệ
tăng năng
suất giả
0.13 0.13 0.13 0.13 0.13 0.13 0.13 0.13 0.13 0.13
25
định
Tác động 0.48 0.07 -0.06 0.01 -0.07 -0.21 -0.25 -0.36 -0.36 -0.42
Thay đổi
tỉ lệ phụ
thuộc
người già
-0.08 0.24 0.57 0.71 0.68 0.65 0.58 0.71 0.80 0.88
Từ bảng số liệu trên ta thấy, Trong giai đoạn 2009-2059, tác động của cơ cấu
dân số tới tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm dần. Tác động này là âm từ thời
kì 2019 – 2024 trở đi. Giá trị âm hàm ý rằng, trong điều kiện tốc độ tăng năng suất
lao động không đổi, sự thay đổi cơ cấu dân số ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng
kinh tế.
Giá trị của số liệu: “ Thay đổi tỉ lệ phụ thuộc người già” tăng dần qua các
năm cho thấy xu hướng biến đổi cơ cấu dân số theo hướng già đi, tỉ lệ người già
tăng nhanh hơn tỉ lệ tăng lao động.
Đóng góp của biến đổi dân số tới tăng trưởng kinh tế dương trong giai đoạn

2014-2024 và bắt đầu âm từ giai đoạn 2024-2029 trở đi. Điều này là do tốc độ
tăng lao động giảm mạnh và tỷ lệ phụ thuộc người già tăng lên. Sau thời kì này,
tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào năng suất lao động. Do đó, về dài hạn, nâng
cao năng suất lao động là giải pháp quyết định cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
VI. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Những phân tích trên đây cho thấy già hóa dân số đang tạo ra những sức ép
lớn về chính sách đối với Việt Nam trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế khi mà
già hóa tác động trực tiếp tới lực lượng lao động. Nói cách khác, nếu không chuẩn
bị một cách chu đáo các chiến lược, chính sách kinh tế và xã hội để thích nghi với
dân số ngày càng già, Việt Nam có thể chịu ảnh hưởng trong việc phát triển kinh
tế, bên cạnh các vấn đề xã hội liên quan tới người cao tuổi trong tương lai.

×