Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận tâm lý học lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.69 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Họ là những người được Đảng,
Nhà nước và nhân dân tin tưởng, trao cho chức vụ, quyền hạn, với trọng trách
thay mặt nhân dân điều hành việc thực hiện các chủ trương, chính sách, các
nhiệm vụ xây dựng đất nước. Bởi vậy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là
những người có tâm huyết, có năng lực nghiệp vụ, trình độ lí luận chính trị cao.
Đặc biệt phải có uy tín, có phẩm chất đạo đức cách mạng để xứng đáng là người
cầm lái, đứng mũi chịu sào.
Uy tín là một vấn đề trung tâm, một phạm trù cơ bản và quan trọng của
tâm lý học lãnh đạo, quản lý. Trong lịch sử xã hội loài người, uy tín xuất hiện và
phát huy tác dụng cùng với mối quan hệ giữa con người với con người, giữa
lãnh đạo, quản lý, người cầm quyền, với người bị lãnh đạo, quản lý, người dưới
quyền. Uy tín được xem xét và đánh giá như một hiện tượng tâm lý xã hội đặc
biệt, phản ánh thực chất các mối quan hệ đó. Trong thực tiễn lãnh đạo, quản lý,
uy tín trở thành một tiêu chuẩn có tính tổng hợp quan trọng bậc nhất của người
lãnh đạo, quản lý. Nếu thiếu uy tín, uy tín thấp hoặc mất uy tín thì không thể
lãnh đạo, quản lý có hiệu quả.
Hiện nay tình trạng giảm sút và mất uy tín ở một bộ phận không nhỏ
cán bộ lãnh đạo, quản lý đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của tổ chức
Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân. Như Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng ta đã nhận định: “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy
tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục”[4, tr.174]. Việc củng
cố và nâng cao uy tín của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp các ngành trở
thành một yêu cầu quan trọng, một nhiệm vụ bức thiết không chỉ đối với tổ
chức lãnh đạo, quản lý mà còn là yêu cầu và nhiệm vụ hàng đầu của chính
mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý.
1
Vì vậy, việc nghiên cứu về người lãnh đạo, quản lý, hiểu rõ bản chất
của uy tín, các yếu tố hợp thành uy tín, các điều kiện và biện pháp cần thiết


để gây dựng, củng cố, nâng cao uy tín người lãnh đạo, quản lý hiện nay là
một yêu cầu cấp bách trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhằm đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thực hiện được mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Phần thứ nhất
Quan niệm về uy tín và những yếu tố hợp thành uy tín người lãnh
đạo, quản lý.
* Quan niệm về uy tín
Uy tín là vấn đề xã hội được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Tâm lý
học nghiên cứu uy tín người lãnh đạo, quản lý với tư cách là một hiện tượng tâm
lý xã hội, một loại quan hệ đặc thù của con người.
Thuật ngữ “Uy tín” được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau: có nguồn ngốc từ tiếng La tinh Autortas – nghĩa là ảnh hưởng, quyền
uy và sự thừa nhận…
Uy tín là một hiện tượng xã hội đặc biệt, phản ánh mối quan hệ của con
người. Uy tín là sự kết hợp cả uy và tín. Là quyền uy của chủ thể và sự tín
nhiệm của khách thể.
Vậy uy tín của người lãnh đạo là quyền uy, sự ảnh hưởng, tác động của
chủ thể lãnh đạo, quản lý đối với khách thể bị lãnh đạo, quản lý và được sự
thừa nhận, tín nhiệm họ.
Sự ảnh hưởng, thừa nhận ở đây được thể hiện thông qua sự tiếp nhận, tín
nhiệm bằng nhận thức, trí tuệ tạo thành niềm tin và sức mạnh của ý chí. Đó
được gọi là uy tín đích thực, thuần khiết, uy tín thực chất không pha sự miễn
cưỡng và giả tạo của chủ thể có uy tín.
2
Uy tín là một vấn đề phức tạp, còn nhiều bàn luận. Thông qua các quan
điểm cơ bản có tính chất phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tương Hồ Chí Minh về những vấn đề thuộc về uy tín, càng thấy rõ hơn vai trò
của uy tín trong việc xây dựng và quản lý xã hội.
Ph. Ăngghen viết: “chúng ta vừa thấy được rằng một mặt, một uy quyền

nhất định, không kể uy quyền đó được tạo dựng bằng cách nào, và mặt khác một
sự phùng tùng nhất định đều là những điều kiện trong bất cứ tổ chức xã hội nào,
cũng đều do những điều kiện vật chất trong đó tiến hành sản xuất và lưu thông
sản phẩm làm cho trở thành tất yếu đối với chúng ta.”[1, tr.421]
Ph. Ăngghen giải thích rõ thêm: “Quyền uy nói ở đây là ý chí của người
khác mà người ta buộc chúng ta phải tiếp thu” [1, tr.418]. Mặt khác, “quyền uy
nhất định lấy sự phục tùng làm tiền đề”. Uy quyền phải được xác lập trên cơ sở
của sự phục tùng và làm theo, phải được mọi người thừa nhận, kính phục và làm
theo, thậm chí đến mức tự nguyện. Chúng ta thấy, uy tín bao giờ cũng thuộc về
một chủ thể nhất định. Đó có thể là một cá nhân, một tập thể hay một tổ chức
nào đó. Chính chủ thể quyết định uy tín của họ; quyết định về mức độ cũng như
phạm vi ảnh hưởng tác động, về sức cảm hóa, thuyết phục người khác. Uy tín
của một cán bộ lãnh đạo, quản lý không đơn thuần do uy quyền, hay ý chí chủ
quan của họ, mà nó còn gồm cả sự tín nhiệm của quần chúng. Uy tín của người
lãnh đạo, quản lý do bản thân của họ quyết định, nhưng không đồng nhất với uy
quyền, với uy thế, uy vũ, uy lực, uy danh, tín nhiệm…
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
người rất coi trọng, quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, đặc biệt là uy tín của người
cán bộ.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ có uy tín sẽ được nhân dân yêu mến,
quý trọng và hết lòng giúp đỡ, do đó làm việc gì cũng thuận lợi, thành công. Uy
tín của người cán bộ còn là lòng tin của quần chúng đối với phẩm chất, năng lực
3
và các giá trị xã hội của nhân cách người cán bộ đó. Người cán bộ có uy tín là
người nói phải đi đôi với làm, biết giữ lời hứa, nói tốt phải làm tốt. Bởi vì lời
nói, việc làm phản ánh cô đọng nhất toàn bộ những phẩm chất nhân cách người
cán bộ. Chính những phẩm chất này mới có khả năng thu hút, lôi cuốn mọi
người và mới tạo được lòng tin với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
uy tín của người cán bộ không phải tự nhiên có được, nó được hình thành và

phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết phụ thuộc vào quá trình tu
dưỡng, rèn luyện về đạo đức, năng lực và khả năng thu phục nhân tâm, xây dựng
lòng tin với quần chúng nhân dân của người cán bộ lãnh đạo.
Trong mọi hoạt động, người cán bộ phải có đủ đức, đủ tài, phải vừa hồng,
vừa chuyên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, được quần chúng tin
yêu. Chính những mặt đó đã tạo nên uy tín của người cán bộ đối với quần chúng
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là cái gốc của người
cán bộ. Theo quan niệm của Người, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở những
nội dung sau:
Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm Mác-xít, đứng vững trên lập trường của
giai cấp công nhân. Yêu nước nồng nàn, trung thành với sự nghiệp của Đảng,
hết lòng phục vụ nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân và quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, phải biết đặt lợi ích của Đảng ra
trước, lợi ích cá nhân lại sau, đó là biểu hiện cao nhất của đạo đức cách mạng ở
người cán bộ
Đạo đức cách mạng thể hiện ở tinh thần đoàn kết, kỷ luật nghiêm. Đây là
các yếu tố quan trọng giúp người cán bộ có thể tập hợp được năng lực quần
chúng tạo thành sức mạnh to lớn. Người luôn phê phán chủ nghĩa cá nhân, tư
duy vô kỷ luật. Chủ nghĩa cá nhân dễ đưa người cán bộ đến chỗ tự cao, tự đại,
cho mình những đặc quyền, đặc lợi,…làm cho người cán bộ dễ tha hoá về đạo
đức, lối sống. Người yêu cầu người cán bộ phải hết sức, hết lòng phục vụ nhân
dân, kính trọng quyền làm chủ của nhân dân, người cán bộ phải thật thà, ngay
thẳng, không dấu dốt, dấu khuyết điểm, phải: Luôn chăm lo đến đời sống quần
4
chúng, phải chí công vô tư và có tinh thần lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Đó
là đạo đức của người cộng sản.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng chỉ có “Đức” thì
chưa đủ, muốn hoàn thành nhiệm vụ, có uy tín cao với quần chúng ngoài phẩm
chất đạo đức người cán bộ cần phải có cả “Tài” nữa. Tài của người cán bộ được
biểu hiện ở trình độ lí luận, năng lực hoạt động thực tiễn, gắn với chuyên môn

nghề nghiệp mà người cán bộ đang đảm nhiệm.
Trình độ lí luận ở người cán bộ cách mạng thể hiện ở trình độ nhận thức và
hiểu biết sâu sắc những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn,
những kinh nghiệm đã được đúc rút, khái quát trong hoạt động thực tiễn. Trình độ
lí luận ở người cách mạng quan trọng nhất là sự hiểu biết sâu sắc lí luận Chủ
nghĩa Mác- Lênin. Chính chủ nghĩa Mác - Lê nin đã trang bị cho người cán bộ thế
giới quan Mác xít, phương pháp luận khoa học. Lí luận phải đi đôi với thực tiễn,
nói phải đi đôi với làm. Nếu coi thường lí luận người cán bộ sẽ rơi vào chủ nghĩa
kinh nghiệm, còn nếu coi thường thực tiễn thì lại là lí luận suông.
“Tài”của người cán bộ không những biểu hiện ở trình độ lí luận, mà còn
biểu hiện ở năng lực hoạt động thực tiễn gắn với chuyên môn nghiệp vụ mà họ
đang đảm nhiệm. Thể hiện ở trình độ kiến thức, kinh nghiệm, kỹ xảo chuyên
môn nghiệp vụ, kỹ năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo trong các quá trình xử lý,
giải quyết các tình huống thực tế. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp đến chất
lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của người cán bộ.
Tài trí, năng lực của người cán bộ còn thể hiện ở trình độ chỉ huy, lãnh
đạo, quản lý, giáo dục đơn vị, ở khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao, ở trình
độ hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực hoạt động nhưng phải sâu sắc về
chuyên môn nghề nghiệp, ở khả năng tổ chức quản lí cũng như nghệ thuật giáo
dục, hướng dẫn hoạt động, thuyết phục cảm hoá quần chúng.
Uy tín của người cán bộ, dù ở cương vị nào, cao hay thấp cũng đều được
xây dựng trên cơ sở hai yếu tố cơ bản, quan trọng đó là “ Đức” và “Tài”(đạo đức
5
cách mạng và năng lực chuyên môn nghề nghiệp). Tuy nhiên, để có được uy tín
cao với quần chúng xung quanh theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ cần
phải có một số phẩm chất tâm lý nhân cách cần thiết khác. Đó là phương pháp
làm việc, phong cách lãnh đạo, giao tiếp chân thực, tế nhị Các phẩm chất của
người cán bộ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là những nhân tố chủ quan
thuộc về chủ thể người cán bộ, nó giữ vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến
quá trình hình thành, củng cố, nâng cao uy tín của người cán bộ.

Thực chất uy tín là sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với con
người, quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo. Uy tín là một hiện tượng tâm lý xã
hội phản ánh mức độ quyền uy của một chủ thể được tín nhiệm và phục tùng.
Uy tín còn là sự thừa nhận chung có ý nghĩa xã hội quyền uy và ảnh hưởng của
một cá nhân, một nhóm hay một thiết chế xã hội nào đó trong một lĩnh vực nhất
định của xã hội. Điều này bắt nguồn từ các quan hệ xã hội và sự đòi hỏi tất yếu
của xã hội.
* Những yếu tố tạo thành uy tín của người lãnh đạo, quản lý
Khi nghiên cứu các yếu tố hợp thành uy tín nói chung và uy tín người
lãnh đạo, quản lý nói riêng, cần tránh tình trạng nghiên cứu đơn tuyến, tách rời
đối tượng bị lãnh đạo, quản lý và môi trường hoạt động. Đó là sự kết hợp cả
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Có nhiều yếu tố hợp thành uy tín
người lãnh đạo, quản lý, trong đó có các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, người lãnh đạo, quản lý phải có quyền lực, ưu thế do chức vụ
được giao, được bổ nhiệm hay bầu cử hợp pháp quy định. Người lãnh đạo, quản
lý nào cũng có địa vị, chức danh, chức vụ quyền hạn nhất định. Đây là điều kiện
cần thiết để tạo nên uy tín người lãnh đạo, quản lý cũng như vai trò và nhiệm vụ
của họ trước tập thể. Đồng thời yếu tố này còn là cơ sở để phân biệt uy tín người
lãnh đạo, quản lý với uy tín của những thành viên khác. Yếu tố này đòi hỏi
người lãnh đạo, quản lý phải nắm vững các loại quyền lực cần thiết, thực thi
đúng quyền lực để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý. Quyền lực ở đây
6
được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là quyền lực về chức vụ mà bao gồm tất cả
các loại quyền lực, ưu thế cần thiết cho hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Ở Việt Nam, quyền lực của người lãnh đạo, quản lý thể hiện ý chí thống
nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nó được bảo đảm bằng hệ thống chính
trị, pháp luật và cơ chế tổ chức xã hội. Quyền lực ấy được tạo bởi điều kiện
khách quan, trước hết là do chế độ sở hữu toàn dân quy định. Nhân dân lao động
là người làm chủ đất nước. Họ là người có quyền cao nhất với tư cách là người
làm chủ của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Họ có quyền cử ra người đại

diện. Đó là đội ngũ những người lãnh đạo, quản lý thay mặt mình để điều hành,
quản lý đất nước. Những người lãnh đạo, quản lý sử dụng những quyền hợp
pháp mà Đảng và nhân dân giao phó để phục vụ cho nhân dân lao động. Do đó,
uy tín của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý càng quan trọng. Nếu người
lãnh đạo, quản lý không có đầy đủ phẩm chất, năng lực chuyên môn, không
được trao đủ quyền lực và không có khả năng thực thi quyền lực thì chính họ
không hoàn thành nhiệm vụ, và chắc chắn đó là nguyên nhân chính làm giảm
hoặc mất uy tín.
Quyền lực tạo nên uy tín của người lãnh đạo phải là sự thống nhất giữa ưu
thế của cá nhân và quền lực chức vụ. Trong thực tế, có người có chức vụ, quyền
lực cao nhưng uy tín không cao và ngược lại. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải có trách nhiệm giữ gìn nâng cao uy tín chức vụ được giao, đồng thời củng
cố vững chắc bởi những ưu thế, ảnh hưởng cá nhân, tuyệt đối không được lạm
dụng quyền lực để tạo dựng uy tín.
Uy tín người lãnh đạo là sự thể hiện cụ thể và gắn chặt với uy tín của tổ
chức mà người đó đại diện, trước hết là uy tín của Đảng, của Nhà nước và các
đoàn thể xã hội. Uy tín của Đảng, của Nhà nước và các đoàn thể xã hội là chỗ
dựa vững chắc, là tiền đề tạo dựng uy tín người lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, uy
tín của người lãnh đạo, quản lý là biểu hiện thực tế và là điều kiện để góp phần
nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội.
7
Tóm lại, người lãnh đạo, quản lý phải ý thức đầy đủ trách nhiệm của mình
về quyền lực được giao phó, về quan hệ giữa uy tín của cá nhân với uy tín của tổ
chức Đảng, Nhà nước, của cả dân tộc Việt Nam. Đó chính là yếu tố cần thiết và
nhạy cảm nhất có ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân
dân, là tiền đề tạo uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, quyền lực cũng
là nguyên nhân đầu tiên làm mất uy tín nếu không biết sử dụng hoặc sử dụng sai
mục đích.
Các yếu tố khách quan tạo nên quyền uy của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý còn có cơ chế quản lý xã hội, sự tác động của công tác tổ chức cán bộ, môi

trường xã hội, nhóm và tập thể, các chuẩn mực đạo đức xã hội, các điều kiện
hoạt động giao tiếp của người lãnh đạo, quản lý. Các yếu tố khách quan còn có
trình độ nhận thức, tâm trạng, thái độ, lòng tin của tập thể, của xã hội. Các yếu
tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc xây dựng đội ngũ, lựa chọn,
giao phó và thực thi quyền lực của người lãnh đạo, quản lý. Trong giao tiếp nếu
như chủ thể và đối tượng giao tiếp có những trình độ gần nhau về nhiều mặt như
nhận thức, văn hóa, lối sống, nghề nghiệp…thì sự đồng cảm sẽ gần nhau hơn
khi đánh giá, xem xét và tín nhiệm. Có liên quan trực tiếp đến uy tín người lãnh
đạo, quản lý là cả một thể chế chính trị, xã hội, pháp luật, bộ máy nhà nước.
Trong đó, bộ máy tổ chức có vai trò to lớn đối với uy tín người cán bộ. Vì thế
trong quá trình giao nhiệm vụ phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, tạo điều
kiện để điều chỉnh kịp thời nhằm củng cố và nâng cao uy tín cho cán bộ.
Thứ hai, người lãnh đạo, quản lý có phẩm chất, năng lực tương xứng với
chức vụ, quyền lực được giao, phải có nhân cách mẫu mực, hoàn thiện để thực
thi quyền lực. Đây là yếu tố quan trọng nhất, vì uy tín người lãnh đạo, quản lý
phụ thuộc vào nhân cách của họ.
Đây là một yêu cầu rất cao đối với người lãnh đạo, quản lý. Họ phải có
nhân cách hoàn thiện mẫu mực. Nhân cách của họ phải có những đặc trưng phù
hợp với yêu cầu của hoạt động lãnh đạo, quản lý. Nghĩa là phải có phẩm chất
năng lực tương xứng với chức vụ, quyền lực được giao để thực thi quyền lực,
8
thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý. Sự tương xứng này trong thực tế luôn
luôn biến động hòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải chú ý điều chỉnh, bổ sung
thường xuyên. Biểu hiện rõ nhất là ở năng lực tổ chức thực tiễn và khả năng
chuyên môn.
Năng lực tổ chức thực tiễn được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc. Uy tín
người lãnh dạo, quản lý phụ thuộc chủ yếu vào kết quả hoạt động của họ đối với
tập thể và nhóm, vào năng lực tổ chức điều hành của người lãnh đạo, quản lý.
Năng lực này được biểu hiện rất phong phú trong hoạt động thực tiễn như khả
năng quyết đoán và sáng tạo, phân tích nhanh chóng, chính xác tình huống xảy

ra để quyết định kịp thời. Người lãnh đạo, quản lý không có óc quyết đoán và
sáng tạo thì sớm hay muộn cũng đưa tổ chức của mình đến tan rã. Ngược lại khi
người lãnh đạo, quản lý có óc quyết đoàn chính xác nhạy bén sẽ làm cho hiệu
quả công việc và uy tín của mình tăng lên gấp bội. Nhưng người lãnh đạo, quản
lý có tính quyết đoán mà không có năng lực tổ chức thực tiễn thì sẽ không hoàn
thành nhiệm vụ. Điều quan trọng không phải là chỉ thị được đề ra, mà là chỉ thị
đó được thực thi hay không. Cái khó của người lãnh đạo, quản lý là vừa phải
mềm mỏng, vừa phải có lập trường kiên định. Tính linh hoạt mềm mỏng, ý chí
mãnh liệt, thái độ kiên quyết, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, sự phấn đấu bền
bỉ, khát vọng vươn lên, mong muốn thành đạt cũng là những yêu cầu về phẩm
chất, năng lực đối với người lãnh đạo, quản lý có uy tín. Đồng thời năng lực ấy
còn biểu hiện ở chỗ, biết quan tâm đến tập thể, biết đánh giá và phát huy năng
lực của từng thành viên trong tập thể, sắp xếp công việc cho phù hợp, có hiệu
quả Người lãnh đạo, quản lý phải phát huy hết sở trường, hết khả năng sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật của từng người và của mình một cách hợp lý, sáng tạo.
Một người lãnh đạo bảo thủ, không năng động, sáng tạo trong công việc thì ít có
khả năng giải quyết tốt những mâu thuẫn phát sinh và điều đó sẽ ảnh hưởng
ngay tới uy tín của họ.
Khả năng chuyên môn là yếu tố cơ bản tạo nên uy tín của người lãnh đạo,
quản lý. Khả năng của người lãnh đạo, quản lý phải trội so với khả năng của các
9
thành viên trong tập thể và những người cộng sự. Khả năng chuyên môn này
được hiểu với nghĩa tổng hợp cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay lãnh đạo,
quản lý được xác định như một nghề nghiệp. Vì vậy, khả năng chuyên môn của
người lãnh đạo, quản lý còn phải là chuyên môn của nghề lãnh đạo, quản lý.
Người lãnh đạo, quản lý phải có tầm nhìn bao quát, có kiến thức đầy đủ về
những hoạt động chuyên môn và hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình. Nhờ vậy
mà những chỉ thị đưa ra mới có giá trị. Người càng có nhiều quyền hạn càng
phải chứng tỏ sự vững vàng trong chuyên môn. Năng lực điều hành công việc,
tổ chức tiên đoàn và sắp xếp để đưa tập thể giành được kết quả mong muốn là tố

chất đặc biệt cần thiết của người lãnh đạo. Thông qua quản lý công việc, chỉ đạo
con người mà khả năng nghiên cứu, tìm hiểu và tác động tâm lý, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của lãnh đạo, quản lý được hình thành và phát triển. Trình độ
chuyên môn giỏi người lãnh đạo sẽ biết đánh giá và giúp đỡ công việc của cấp
dưới và các thành viên trong tập thể. V.I. Lênin đã chỉ rõ, muốn quản lý phải là
người thông thạo chuyên môn, phải hiểu biết một cách đấy đủ và chính xác tất
cả những điều kiện sản xuất, phải hiểu được kỹ thuật của nền sản xuất đó, theo
kịp trình độ hiện đại kỹ thuật đó, phải có một trình độ khoa học nhất định. Chính
trình độ chuyên môn giỏi của người quản lý có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với
tập thể. Hơn nữa, để có trình độ chuyên môn giỏi thì chủ thể phải không ngừng
học tập, đi sâu vào khoa học kỹ thuật và thực tiễn, tránh tình trạng lạc hậu. Từ
đó sẽ giúp họ linh hoạt hơn khi giải quyết các tình huống phức tạp, linh hoạt hơn
trong tư duy, khi đó hiệu suất công việc cũng sẽ tăng lên. Người lãnh đạo, quản
lý không nhất thiết phải am tường tất cả các lĩnh vực, nhưng trong phạm vi
chuyên môn của mình họ phải thực sự uyên bác.
Ở đây cần lưu ý rằng, dân chủ và sự bình đẳng xã hội là ưu việt cơ bản của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc và yêu cầu
cao với uy tín người lãnh đạo, quản lý. Người bị lãnh đạo, quản lý có hiểu biết, có
văn hóa, do đó họ có thể đánh giá được uy tín người lãnh đạo, quản lý nhất là
trình độ chuyên môn. Người lãnh đạo, quản lý không thể chỉ dựa vào bằng cấp
10
hay chức vụ, mà họ phải tự nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lí luận, khả
năng nhạy bén về tâm lý, biết giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp
thu di sản văn hóa nhân loại. Để hiểu được con người thì phải trang bị nhiều tri
thức khoa học và không thể nhận thức con người bằng kinh nghiệm bản thân hạn
hẹp. Tất cả những yêu cầu đó đối với người lãnh đạo, quản lý sẽ không tự có nếu
họ không tích cực, chịu khó học tập, rèn luyện. Chỉ có như thế thì hoạt động của
người lãnh đạo, quản lý mới có kết quả thực sự và uy tín của họ mới được thường
xuyên củng cố và nâng cao.
Trong những yêu cầu về nhân cách, phong cách lãnh đạo, quản lý cũng có

liên quan đến uy tín người lãnh đạo, quản lý. Phong cách người lãnh đạo, quản
lý được hình thành và khẳng định từ hệ thống các phương pháp được người lãnh
đạo, quản lý lựa chọn và sử dụng để tác động đến những người dưới quyền.
Phong cách lãnh đạo, quản lý là sản phẩm của đời sống xã hội, nó phản ánh sự
vận hành của xã hội, trong đó có cơ chế quản lý. Có được phong cách quản lý
đúng đắn và thích hợp là rất quan trọng đối với người lãnh đạo, quản lý vì nó sẽ
ảnh hưởng ngay đến uy tín của họ. Phong cách lãnh đạo, quản lý là điều kiện và
phương tiện quan trọng để đem lại hiệu quả công việc. Người ta thường phân
loại phong cách lãnh đạo, quản lý theo từng cách tiếp cận khác nhau. Có thể nêu
ra một số loại tiêu biểu như phong cách độc đoán, phong cách dân chủ, phong
cách tự do, phong cách sâu sát, cụ thể… Điều quan trọng đối với người lãnh
đạo, quản lý không phải là cách phân chia mà là sự lựa chọn sử dụng phương
pháp lãnh đạo, quản lý cần thiết để có phong cách quản lý phù hợp với công
việc, với từng đối tượng, với từng yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn
hoạt động và trách nhiệm khác nhau. Sự lựa chọn và sử dụng các phương pháp
quản lý thích hợp còn phụ thuộc chủ yếu vào mục đích, nhiệm vụ, quan điểm lập
trường của từng người lãnh đạo, quản lý. Nhiều khi họ phải kết hợp các phương
pháp và phong cách quản lý có tính nghiệp vụ và tình huống thì mới đem lại
hiệu quả cao. Từ đó, yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải luôn xây dựng tâm
thế, bản lĩnh vững vàng và tính thích ứng cao.
11
Thứ ba, người lãnh đạo, quản lý phải có được sự tín nhiệm, phục tùng,
thậm trí đến mức tự nguyện của tập thể, của quần chúng, của cấp dưới. Đây là
yếu tố thuộc về chủ quan quyết định nhưng có quan hệ đến đối tượng khách thể
bị lãnh đạo, quản lý; có vai trò tiền đề quan trọng; có tính quyết định từ khách
thể của hoạt động lãnh đạo, quản lý và cũng là cơ sở, là gốc rễ vững bền để
người lãnh đạo, quản lý giữ gìn và củng cố uy tín của mình.
Để có được phạm vi ảnh hưởng sâu rộng, sự tín nhiệm và phục tùng tự
nguyện của quần chúng cấp dưới, trước hết người lãnh đạo, quản lý phải có tài,
đức toàn vẹn, nhưng đức là gốc. Một cán bộ dù có năng lực tốt nhưng đạo đức

kém thì không thể có uy tín với quần chúng. Một cán bộ có uy tín thì không thể là
người chỉ biết vun vén cho bản thân và gia đình mình, chỉ bảo vệ lợi ích riêng mà
quên đi tập thể.
Những biểu hiện cụ thể của đạo đức trong cuộc sống hàng ngày, luôn là
yếu tố được mọi người theo dõi và đánh giá. Vì thế, người cán bộ phải luôn luôn
tu dưỡng, xây dựng và giữ gìn phẩm chất đạo đức cá nhân về mọi mặt. Sự công
bằng, đoàn kết, mục tiêu vì con người, đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý không
bao giờ dùng các thủ đoạn hẹp hòi như chia rẽ để điều hành, tạo những kịch bản
để tạo mục đích… Những việc làm này chỉ có tính chất nhất thời và trái với bản
chất uy tín của người lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ba yếu tố quan trọng, có tính quết định trên đây, những phẩm chất
sinh hoạt, các yếu tố tâm lý tình cảm khác cá tính, thói quen, khí chất…cũng góp
phần tạo nên uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Người lãnh đạo, quản lý phải là
người đầy tớ trung thành của nhân dân, phải có quan hệ tình cảm gắn bó với mọi
người, đồng cam cộng khổ, giúp đỡ chia sẻ những vướng mắc của mọi người,
được tổ chức và cấp trên tin tưởng, đánh giá cao, được bạn bè, đồng nghiệp khâm
phục và ủng hộ.
Uy tín người lãnh đạo, quản lý còn chịu ảnh hưởng của các hình thức biểu
hiện bề ngoài trong giao tiếp, tác phong, dáng vẻ, cách đi đứng, nói năng…
12
Nghĩa là, phải có phong cách sống và làm việc thích hợp, có những nét hấp dẫn
cá nhân để tăng thêm sự chú ý và tín nhiệm của mọi người. Những yếu tố về
hình thức bên ngoài chỉ trở thành yếu tố góp phần củng cố, nâng cao uy tín khi
phù hợp với nội dung bên trong và phản ánh đúng những ưu thế về quyền lực,
những phẩm chất năng lực tương xứng của người lãnh đạo, quản lý. Khi nghiên
cứu uy tín ta còn thấy khát vọng làm lãnh đạo, quản lý cũng là yếu tố quan trọng
góp phần củng cố và nâng cao uy tín. Để giữ gìn, củng cố và nâng cao uy tín,
người lãnh đạo, quản lý còn phải luôn luôn đề cao tự phê bình và phê bình. Đây
là biện pháp để khôi phục, củng cố và nâng cao uy tín người lãnh đạo, quản lý
một cách nhanh nhất và có hiệu quả nhất. Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc

trong lãnh đạo và sinh hoạt. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tự phê bình và phê
bình là vũ khí sắc bén nhất.” Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) ban chấp hành
Trung ương khóa VIII cũng đã nhấn mạnh rằng: “Trong phê bình và tư phê bình
phải có tinh thần đồng chí trong sáng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, nghiêm
túc mà khoan dung, thấu lý và đạt tình, tự giác, tư nguyện và trung thực”[2,
tr.47]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Trên cơ
sở tổng kết cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiếp tục đưa việc tự phê
bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở
thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ.”[3, tr.35]
Tóm lại, người lãnh đạo, quản lý hiện nay cần nắm được những quy luật cơ
bản của hoạt động tâm lý con người, nhu cầu, lợi ích và động cơ hành vi của cá
nhân và tập thể, bản chất tâm lý xã hội của uy tín, các yêu cầu phẩm chất cá nhân
và nghề nghiệp lãnh đạo, quản lý thì chắc chắn họ có uy tín với tập thể và quần
chúng.
Tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan tạo nên uy tín người lãnh
đạo, quản lý ta cần phải nhấn mạnh những yếu tố hợp thành quan trọng nhất là
có đủ quyền lực và thực hiện quyền lực được giao phó, có sự thừa nhận và tín
nhiệm, có phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao; thực hiện
có hiệu quả những chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý; có sự
13
đánh giá cao của cấp trên và sự phục tùng tự nguyện của quần chúng, tập thể, có
phong cách lãnh đạo, quản lý phù hợp và dáng vẻ bề ngoài tạo được sức hấp dẫn
cá nhân, thu hút sự chú ý của mọi người. Trong những yếu tố này người lãnh
đạo, quản lý phải đặc biệt chú ý tự bồi dưỡng và rèn luyện phẩm chất, năng lực
sao cho tương xứng với chức vụ và thực hiện được quyền hạn, trách nhiệm đã
được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Qua sự phân tích ở trên chúng ta thấy uy tín người lãnh đạo, quản lý là sự
tổng hợp của nhiều yếu tố tạo thành. Đó là sự thống nhất giữa các yếu tố chủ
quan và các yếu tố khách quan. Trong đó các yếu tố khách quan đóng vai trò là
tiền đề và các yếu tổ chủ quan đóng vai trò quyết định. Để giữ vững và nâng cao

uy tín thì phải chú ý vai trò của cả những điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan bởi vì thực chất đó chính là sự kết hợp quyền uy của chủ thể lãnh đạo,
quản lý và sự tín nhiệm, phục tùng tự nguyện của khách thể bị lãnh đạo, quản lý.
Phần thứ hai
Những biểu hiện của uy tín thực và con đường gây dựng, củng cố và
nâng cao uy tín của người lãnh đạo, quản lý hiện nay
* Những biểu hiện của uy tín thực
Thứ nhất, thái độ, khả năng cung cấp và xử lý thông tin
Người lãnh đạo, quản lý phải biết nghe và chịu nghe những thông tin, biết
tiếp nhận và xử lý thông tin để đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời và có
chất lượng; biết tôn trọng người đưa tin và cung cấp thông tin. Đồng thời, cần biết
trang bị và sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại để nâng cao chất lượng và
hiệu quả quản lý. Thái độ và hiệu quả tiếp nhận, xử lý thông tin là dấu hiệu đầu
tiên xác định người lãnh đạo, quản lý có uy tín thực chất hay không. Việc quần
chúng và cấp dười quan tâm cung cấp những thông tin cần thiết là biểu hiện quan
trọng của uy tín thực chất. Bởi thông tin là nguyên liệu đầu vào của người lãnh
đạo, quản lý.
Thứ hai, kết quả thực hiện quyết định quản lý
14
Đây là biểu hiện thuộc về hiệu quả lãnh đạo, quản lý thể hiện sức mạnh
của người lãnh đạo, quản lý, là dấu hiệu đáng tin cậy của uy tín thực chất. Mỗi
quyết định dù đưa ra dưới hình thức nào đều góp phần thể hiện uy tín của người
lãnh đạo, quản lý; kết quả thực hiện nó, cách xử lý sau khi quyết định đã được
thực hiện đều có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín thực chất của người lãnh đạo,
quản lý. Những quyết định chưa đúng, thậm trí có sai lầm nếu biết tự phê bình,
rút kinh nghiệm kịp thời thì vẫn giữ được uy tín. Ngược lại, một quyết định
đúng cũng có thể làm mất uy tín nếu người lãnh đạo quản lý tỏ ra thiếu khiêm
tốn và phân phối kết quả thiếu công bằng.
Thứ ba, mức độ trả lời chân thành và thiện chí khi tổ chức lấy phiếu điều
tra dư luận và tín nhiệm

Kết quả khi lấy phiếu điều tra dư luận và tín nhiệm là một tiêu chí quan
trọng để đo mức độ uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Đây là việc làm cần thiết
để nâng cao thêm uy tín thực chất, nhưng tuyệt đối không dùng biện pháp này để
hạ thấp uy tín của người khác nhằm nâng cao uy tín của cá nhân mình.
Thứ tư, sự thống nhất giữa tín nhiệm của quần chúng, cấp dưới với đánh
giá cao của cấp trên, sự khâm phục và ủng hộ của bạn bè, đồng nghiệp
Đây là sự thống nhất có tính nguyên tắc. Nếu không thống nhất được thì
trách nhiệm thuộc về cấp trên, về tổ chức và chính bản thân người lãnh đạo,
quản lý. Nếu có sự khác nhau thì phải tìm cho ra sự thật. Nếu để kéo dài tình
trạng không thống nhất theo kiểu được lòng cấp trên thì mất lòng cấp dưới, được
quần chúng ủng hộ thì cấp trên lại không tin dùng là đã rơi vào tình trạng quan
liêu xa rời quần chúng giảm sút lòng tin vào người lãnh đạo và hệ thống tổ chức
đang cầm quyền, thậm trí có thể làm mất lòng tin của hệ thống. Nếu cấp trên
đánh giá cao mà quần chúng chưa hiểu và chưa tín nhiệm người lãnh đạo, quản
lý của họ thì bằng mọi cách cấp trên phải chứng minh, thuyết phục và cảm hóa,
làm cho quần chúng bị thuyết phục và tin theo. Nếu ngược lại, cấp trên phải tự
phê bình nghiêm túc, sửa sai theo ý kiến và tín nhiệm của quần chúng.
15
Thứ năm, sự khâm phục, kính nể của người đối lập và kẻ thù.
Đây là dấu hiệu khách quan rất đáng chú ý để đánh giá và cân nhắc uy tín
thực chất của người lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo có bản lĩnh, không
bị sa ngã trước các âm mưu, thủ đoạn mua chuộc, lôi kéo của kẻ thù, của phe đối
lập thì càng được quần chúng tin yêu, bảo vệ và do đó uy tín của họ càng cao,
càng bền vững.
Thứ sáu, sự quan tâm giúp đỡ thiện chí, chân thành, đúng mục đối với
việc riêng của cá nhân người lãnh đạo, quản lý
Trong thực tế rất khó phân biệt ranh giới giữa sự quan tâm đúng mực, có
thiện chí và quan tâm mang tính vụ lợi. Người lãnh đạo, quản lý phải biết tiếp
nhận đúng đắn sự quan tâm đó, không được làm tổn thương đến tình cảm chân
thành của đối tượng và phải cố gắng để xứng đáng với họ hơn nữa. Người có uy

tín thực chất và quan tâm đến giữ gìn uy tín phải tỉnh táo và chủ động trong việc
tiếp nhận đúng đắn sự quan tâm chăm sóc của mọi người, biết từ chối và ngăn
chặn các kiểu quan tâm kiểu vụ lợi, xu nịnh.
Thứ bẩy, thái độ của mọi người trong đơn vị đối với người lãnh đạo, quản
lý sau khi thôi chức vụ, quyền lực, chuyển công tác hay nghỉ hưu
Biểu hiện đáng chú ý nhất của uy tín thực chất là sự luyến tiếc, ngưỡng
mộ, đối xử chân thành gần gũi của mọi người, của quần chúng cấp dưới đối với
người lãnh đạo, quản lý khi chuyển công tác hay nghỉ hưu hoặc không còn giữ
chức vụ trong hệ thống lãnh đạo, quản lý nữa. Họ vẫn sống trong lòng mọi
người với sự cảm phục và tin yêu.
Những dấu hiệu trên liên quan đến các yếu tố hợp thành uy tín người lãnh
đạo, quản lý và cũng là tiêu chuẩn đánh giá uy tín thực chất của cán bộ lãnh đạo,
quản lý, là những yêu cầu cần thiết, thường xuyên để gây dựng, củng cố và nâng
cao uy tín người lãnh đạo, quản lý hiện nay.
* Con đường gây dựng, củng cố và nâng cao uy tín của người lãnh
đạo, quản lý
16
Gây dựng cho được một uy tín cần thiết đã khó, nhưng phấn đấu để giữ
vững và không ngừng nâng cao uy tín lại càng khó. Trong mỗi cán bộ đều có cái
tốt, cái xấu. Uy tín thật - cái tốt, uy tín giả - cái xấu. “Học cái tốt thì khó, ví như
người ta leo núi phải vất vả khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ, như ở
trên đỉnh chỉ trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.”[12, tr.374]. Điều đó đòi
hỏi người cán bộ phải có ý chí và nghị lực rất cao. Người ở cương vị càng cao
càng phải hết sức chăm lo giữ gìn uy tín, vì uy tín của họ không chỉ đơn thuần là
uy tín của cá nhân mà còn liên quan đến uy tín chung của tập thể. Gần đây có một
vài cán bộ trọng trách quên mất điều sơ đẳng này, chạy theo dục vọng cá nhân,
không biết kiềm chế, không dám hi sinh… phút chốc làm hoen ố uy tín cá nhân
và uy tín của tổ chức. Vì vậy, việc củng cố và nâng cao uy tín của cán bộ lãnh
đạo, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành trở thành một yêu cầu
quan trọng, cấp thiết không chỉ đối với tổ chức mà chính với mỗi cán bộ lãnh đạo.

Để xây dựng, củng cố và nâng cao uy tín của người lãnh đạo, quản lý, xin được
đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần nuôi dưỡng khát vọng vươn
lên, thực hiện lý tưởng của Đảng, phục vụ nhân dân, không được lấy uy tín làm
mục đích mà phải coi đó là phương tiện, điều kiện để thực hiện mục đích lãnh
đạo. Như thế uy tín mới được giữ gìn và bảo vệ từ mọi phía, nhất là từ phía nhân
dân và cấp dưới. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phương hướng, biện pháp
để tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn và nâng cao uy tín của mình. Đây là biện pháp
quan trọng và quyết định nhất. Phải thường xuyên tự giác tu dưỡng rèn luyện,
bồi dưỡng phẩm chất và năng lực cần thiết, có thái độ nghiêm khắc với bản thân,
đề cao tính tự chủ, tự kiềm chế, đặc biệt là luôn đề cao tự phê bình và phê bình.
Ở mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý dù là cấp nào cũng phải nghiêm túc rèn
luyện bản thân cả trong học tập, tích lũy kiến thức nhiều mặt, cả trong việc nâng
cao năng lực lãnh đạo, khả năng quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Cần
nói thêm rằng, trong thời đại kinh tế tri thức, không có chuyên môn nghiệp vụ
thì không thể lãnh đạo được. Cái thời “chỉ chỏ chung chung”, “chém tay, hùng
17
biện rỗng”, phát biểu theo các “Fom” có sẵn, thì chính bản thân người lãnh đạo
cũng thấy nhàm chán, vì nó quá vô vị, chẳng giải quyết được gì. Đi đôi với
chuyên môn nghiệp vụ các nhà lãnh đạo, quản lý phải thực sự lưu ý giữ gìn về
phẩm chất, lối sống. Cũng cần phải nhớ rằng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ
còn phải có một thờ gian mới bộc lộ hết nhưng lối sống luôn được biểu hiện ra
các hành vi hành ngày của người lãnh đạo, quản lý. Anh thực sự có cuộc sống
lành mạnh hay anh giả vờ nghiêm túc đều không qua được con mắt “giám sát”
của cấp dưới và quần chúng. Nói tóm lại, năng lực, phẩm chất, đạo đức thực sự
hay giả tạo, điều đó quyết định sự tồn tại vị trí lãnh đạo của mỗi người; đối với
lãnh đạo trẻ còn quyết định phát triển hay “thui chột”.
Thứ hai, phải đề cao trách nhiệm của các cơ quan làm công tác tổ chức bộ
máy và cán bộ. Việc quy hoạch, cất nhắc, đề bạt hay bầu cử một chức vụ lãnh
đạo, quản lý nào đó phải tuân theo tiêu chuẩn và quy trình chặt chẽ, nhưng nếu

vì lý do nào đó mà làm nhạt nhòa tiêu tiêu chuẩn, làm mờ mịt quy trình thì chắc
chắn sẽ không chọn đúng được người lãnh đạo tài, đức. Bởi vậy, người làm công
tác tổ chức phải là người trong sáng của trong sáng, công tâm của công tâm, bản
lĩnh của bản lĩnh, trí tuệ của trí tuệ và công minh của công minh… Có như vậy
mới lựa chọn được người đảm nhiệm được các chức danh lãnh đạo, quản lý
trong mỗi bộ phận của guồng máy cơ quan, đơn vị. Và khi đó bộ máy mới được
vận hành chạy đều và êm thấm.
Thứ ba, các cấp ủy đảng các cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện để cán bộ
lãnh đạo, quản lý phát huy hết phẩm chất, tài năng của mình, quan tâm củng cố
và nâng cao uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Bởi vì uy tín của cá nhân họ có
liên quan mật thiết đến uy tín của tổ chức. Phải giữ vững mối quan hệ giữa uy
tín cá nhân lãnh đạo, quản lý với uy tín của tổ chức và tập thể. Sự chăm lo gây
dựng và gây dựng uy tín của tổ chức, của tập thể do mình quản lý cũng có ý
nghĩa đáng kể đối với việc củng cố và nâng cao uy tín của người lãnh đạo, quản
lý. Trong uy tín của tổ chức mặt quyền uy rất quan trọng. Uy quyền này được
xác lập bởi các quy chế hoạt động của tổ chức, bởi ảnh hưởng của tổ chức đối
18
với xã hội, đối với mọi người, mọi tổ chức khác do tổ chức đó hoàn thành tốt
nhiệm vụ bản của mình.
Thứ tư, thường xuyên kiểm tra, giám sát uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo bằng cách lấy phiếu tín nhiệm của tổ chức, ý kiến đóng góp của cán bộ
cấp dưới, của nhân dân một cách nghiêm túc, chân thật. Đồng thời, tổ chức
thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung
ương Khóa XI và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Kiên quyết thực hiện các nhóm giải pháp cấp bách về xây
dựng và chỉnh đốn Đảng đi đôi với việc tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho cán bộ, công chức. Cần có quy chế để từng cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp phải đăng ký học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
với những nội dung cụ thể sát với chức năng, nhiệm vụ công tác của mình và
phải có kiểm điểm gắn với kiểm điểm công tác hàng tháng.

Trong quá trình gây dựng và nâng cao uy tín cho mình, người lãnh đạo
chỉ coi đó là phương tiện để đạt mục đích quản lý mà thôi. Đồng thời phải luôn
lấy chuẩn mực trong phong cách công tác Hồ Chí Minh làm định hướng cho quá
trình rèn luyện, phấn đấu của người lãnh đạo. Mặt khác phải chú ý đến các yếu
tố tâm lý xã hôi khác có liên quan.
19
KẾT LUẬN
Bước sang thế kỷ XXI, với xu thế phát triển khoa học công nghệ, thông
tin, nền kinh tế tri thức, sự liên kết, hội nhập quốc tế, v.v…, với những thời cơ
và thuận lợi, thách thức và nguy cơ không nhỏ, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm là yêu cầu cấp thiết cần đáp ứng. Nhưng những
biểu hiện suy thoái về đạo đức đang có xu hướng phát triển, làm xói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, niềm tin của
nhân dân đối với chế độ. Bởi vậy, điều cần quan tâm hiện nay là phải nâng cao
hơn nữa phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nước ta. Đây cũng là yếu tố quan trọng để củng cố nâng cao hơn nữa uy tín
người lãnh đạo, quản lý.
Con đường gây dựng củng cố và nâng cao uy tín của người cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở nước ta hiện nay là con đường lâu dài đầy thử thách và công phu.
Con đường đó gắn chặt với yêu cầu công tác và phẩm chất trung thực trong sáng
của người lãnh đạo, quản lý, gắn với yêu cầu học tập, rèn luyện góp phần giữ
vững, bảo vệ và nâng cao uy tín đạo đức, phong cách của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Việc thực hiện được những yêu cầu về đạo đức phong cách Hồ Chí Minh có ý
nghĩa to lớn trong việc tạo dựng uy tín người lãnh đạo, quản lý. Nếu những
phẩm chất và năng lực của mỗi người lãnh đạo, quản lý được rèn luyện theo tấm
gương và những chuẩn mực phẩm chất cao đẹp của Hồ Chí Minh thì chắc chắn
người lãnh đạo, quản lý sẽ tạo dựng được uy tín cần thiết cho mình và càng
xứng đáng là người lãnh dạo, quản lý xuất sắc của Đảng, Nhà nước và dân tộc
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
20

DANH MỤC TAI LIỆU THAM KHẢO
1. Bàn về quyền uy, Mác và Ăngghen toàn tập, tập 18, NXB CTQG, HN 1995,
tr.421.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001, tr57.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2001, tr139-140.
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
5. Tạp chí tâm lý học, số 1, 1-2006
6. Tâm lý học lãnh đạo, quản lý bộ đội, Nxb QĐND, H. 2002.
7. Tâm lý học lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị - hành chính, H.2013.
8. Vũ Dũng, tâm lý học quản lý, Nxb Đại học sư phạm, H.2006.
9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề tâm lý trong lĩnh vực quân sự, Nxb
QĐND, H. 2006
10. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995.
11. Bài nói chuyện của chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi bế mạc Hội nghị cán bộ
của Đảng lần thứ VI, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.1995.
12. Bài nói chuyện của chủ tịch Hồ Chí Minh với bộ đội, công an và cán bộ
trước khi vào tiếp quản thủ đô, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb CTQG,
H.1995.
21

×