Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Những giá trị và hạn chế của phật giáo cùng ảnh hưởng phật giáo Việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.79 KB, 20 trang )

Khúa lun Trit
A. Đặt vấn đề:
Phật giáo là một đề tài hấp dẫn đã đợc rất nhiều ngời quan tâm, tìm
hiểu. Trong số đó, có cả những nhà chuyên môn và những ngời bình thờng
khác. Phật giáo cuốn hút con ngời đi theo nó để dày công nghiên cứu và
khám phá những những điều bí ẩn trong nó. Tất cả đều có một mong muốn
duy nhất là tìm đợc con đờng giải thoát tâm linh cùng những giá trị vĩnh
cửu trờng tồn qua thời gian.
Phật giáo là một chủ đề rộng. Nó bao trùm hầu nh tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong khuôn khổ bài viết này, em xin đợc đề cập về
một số vấn đề quan trọng và đáng lu tâm, đó là những giá trị và hạn chế
của Phật giáo cùng ảnh hởng của Phật giáo tại Việt Nam hiện nay.
Em xin cảm ơn thày giáo Thạc sĩ Nguyễn Trờng Sơn đã giúp đỡ
em hoàn thành bài viết này!
1
Khúa lun Trit
B. Nội dung:
1. Những giá trị và hạn chế của Phật giáo:
1.1. Khái quát về Phật giáo:
Phật giáo ra đời vào thế kỉ VI trớc Công nguyên, ngời sáng lập là
Siddharta (Tất Đạt Đa). Về sau, ông đợc ngời đời tôn vinh là Sakyamumi
(Thích Ca Mâu Ni) là Buddha (Phật).
Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật
giáo là hình thức giáo đoàn đợc xây dung trên một niềm tin từ Đức Phật,
tức là từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của Phật giáo bao
gồm Kinh Tạng, Luật Tạng và Luân Tạng. Phật giáo tin và luân hồi và
nghiệp, cũng tìm con đờng giải thoát ra khỏi nghiệp đợc gọi là Niết Bàn.
Nhng điểm khác nhau giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là ở chỗ chúng
sinh thuộc bất kì đẳng cấp nào cũng đều đợc giải thoát.
Phật giáo đặc biệt quan tâm đến quan hệ nhân quả. Nó nhìn nhận thế
giới tự nhiên cũng nh nhân sinh thông qua sự phân tích mối quan hệ này.


Và theo Phật giáo, nhân quả là một chuỗi liên tục, không gián đoạn và
không hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả nấy. Nhân duyên chính là một
cách gọi khác của mối quan hệ này với ý nghĩa là: một kết quả của một
nguyên nhân nào đó, sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác.
Cụ thể, khi nhìn nhận thế giới tự nhiên, Phật giáo cho rằng không thể
tìm ra nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ. Điều đó có nghĩa là không có một
đấng Brahman nào sáng tạo ra vũ trụ cả. Bên cạnh đó, Phật giáo cũng phủ
định phạm trù Atman bằng cách trình bày về quan điểm vô ngã
(Anatman) và quan điểm vô thờng.
Nói về quan điểm vô ngã, nó cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự
giả hợp do hội đủ nhân duyên nên thành ra có. Một ví dụ cụ thể đơn
giản, dễ thấy là sự tồn tại của thực thể con ngời là do sự hội tụ của ngũ
uẩn bao gồm: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tởng (ấn tợng), hành (suy lí)
và thức (ý thức).
2
Khúa lun Trit
Còn về quan điểm vô thờng, nó có nghĩa là vạn vật biến đôỉ vô
cùng theo chu trình bất tận sau: Sinh- trụ- dị- diệt. Vì vậy mà lúc có, lúc
không, có có rồi lại không không luân hồi bất tận.
Về nhân sinh quan, Phật giáo tập trung vào tìm kiếm mục tiêu nhân
sinh ở sự giải thoát (Moska) khỏi vòng luân hồi, và nghiệp báo để đạt tới
trạng thái tồn tại Niết Bàn (Nirvana). Triết học nhân sinh đề cập đến nội
dung của thuyết tứ diệu đế hay bốn chân lí tuyệt vời. Chúng bao gồm:
Khổ đế kể về tám nỗi khổ cùng quan niệm đời là bể khổ, Tập đế hay nhân
đế đa ra thuyết thập nhị nhân duyên, Diệt đế mọi nỗi khổ đều bị tiêu
diệt để đạt tới trạng thái Niết Bàn và cuối cùng là Đạo đế chỉ ra con đờng
tu đạo tiêu diệt cái khổ.
Trải qua quá trình vận động của lịch sử, Phật giáo đã bị phân chia
thành nhiều hệ phái khác nhau. Nguyên nhân gây nên hiện tợng này là do
những mâu thuẫn nảy sinh bên trong nội bộ của Phật giáo. Cụ thể đó là

mâu thuẫn giữa quan điểm bảo thủ của các tăng sĩ đứng đầu là Ca Diếp với
quan điểm cách tân do Anan chủ trì. Hai là sự khác nhau về giới luật giữa
một bên bắt phải theo luật và một bên thả lỏng hơn. Đây chính là mâu
thuẫn gây ra sự tranh cãi mạnh mẽ nhất dẫn đến sự phân phái của Phật
giáo. Ba là sự khác nhau về triết họcvà giáo lí trong nội bộ Phật giáo, biểu
hiện thành mâu thuẫn giữa quan điểm hữu luận (coi thế giới vật chất tồn tại
chân thực, hiện hữu tơng đối) và quan điểm không luận (thế giới hiện hữu
là không có thật, gốc bằng không). Nhng nguyên nhân cơ bản và sâu xa
nhất chính là sự thay đổi của cuộc sống hiện thực xã hội, nên t tởng của
Phật giáo cũng phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. Đây là một qui
luật khách quan. Quá trình phân phái của Phật giáo là một tất yếu phù hợp
với lôgíc phát triển nội tạo của nó. Đó cũng là một bớc phát triển mới cao
hơn về qui mô và phạm vi của trờng phái Phật giáo. Những hệ phái mới của
Phật giáo nh: Về triết học có hai phái đáng chú ý là phái Nhất thiết hữu bộ
và phái Kinh lợng bộ; Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa.
ở nhiều nơi trên thế giới, Phật giáo có khi hng thịnh, trở thành quốc
giáo, nhng cũng có khi suy giảm và sụp đổ. Nhng cho đến nay, Phật giáo
vẫn đang và sẽ tồn tại ở nhiều đất nớc, bởi ở đó họ tìm đợc những giá trị
tuyệt vời giúp con ngời vững bớc trên đờng đời.
3
Khúa lun Trit
1.2. Những giá trị của Phật giáo:
a) Giá trị nhân bản thể hiện trong thuyết Duyên sinh vô ngã và những
quan điểm về con ngời:
Giá trị nhân bản của Phật giáo là một giá trị lớn trong số những giá
trị của nó. Giá trị này đợc thể hiện rõ trong Nhân bản luận của Phật giáo
với thuyết Duyên sinh vô ngã. Đây không chỉ là giá trị t tởng mà còn là
giá trị văn hoá, tôn giáo tích cực trong xã hội.
Duyên sinh vô ngã là một cuộc cách mạng thực sự khi nó giúp con
ngời thoát khỏi thần quyền. Nhân bản luận Phật giáo phân ra hai loại tồn tại

ngời. Một là T Ngã với sự tồn tại là giả hợp. Hai là Vô Ngã với sự tồn tại là
đích thực. T ngã là đau khổ, ngợc lại với Vô Ngã là giả thoát, là Niết Bàn.
Khi con ngời càng quyến luyến, ràng buộc với tự ngã, càng cố thoả mãn nó
thì càng sa vào đau khổ, đau khổ luân hồi bất tận. Tất cả các ý thức, kinh
nghiệm về tự ngã đều thuộc giới hạn vô minh và đau khổ. Để chấm dứt
sự đau khổ này, con ngời phải đạt tới sự giác ngộ về Vô ngã. Đây là đỉnh
cao trí tuệ của sự giác ngộ để đi đến giải thoát và Niết Bàn. Phật giáo
không viện đến thần linh mà đề cao sự nỗ lực của bản thân mỗi ngời. Có
thể nói rằng Phật giáo là tôn giáo đầu tiên đa ra lập trờng tôn giáo vô thần:
đảo hớng t duy sang tìm kiếm niềm tin ở chính con ngời. Giá trị này đã
đóng góp lớn vào việc mở ra một cách tiếp cận độc đáo trong việc đề cao
con ngời.Đó là cách tiếp cận tôn giáo- nhân bản- phi thần quyền.
Với Phật giáo, đời là bể khổ. Con ngời chỉ có đợc hạnh phúc khi
thoát khỏi nó bằng giácd ngộ về Vô ngã. Phật giáo chỉ ra con đờng tự giác
tu dỡng Bát chính đạo là sự kết hợp độc đáo của tám pháp tu trên cơ sở
phối hợp ba phơng diện tu dỡng: đạo đức (giới)- thực hành thiền (định)- trí
tuệ (tuệ).
Trong quá trình phát triển, Phật giáo đã bảo tồn những giá trị căn bản
của Phật giáo Nguyên thuỷ, đồng thời không ngừng bổ sung và hoàn thiện
qua các luận tạng. Thể hiện ở sự phát triển của Giáo Lí Tiểu thừa (tự tha)
đến khuynh hớng Đại thừa hiện đại hoá ngay trong nội bộ Phật giáo. Điểm
tiến bộ của Đại thừa là ở nhân bản luận của nó đã đợc nâng lên tầm phổ
quát: giác ngộ vợt ra ngoài hữu ngã và vô ngã: Không nhất nh, không
chân nh. Nhân bản luận Phật giáo trong quá trình du nhập, đối thoại và
4
Khúa lun Trit
phân phái đã không ngừng khắc phục hạn chế và ngày càng hiện đại hoá.
Nó đã đợc hầu hết các nớc châu á có sự hiện diện của Phật giáo tiếp nhận
và phát triển thành các giá trị t tởng tôn giáo- triết học- đạo đức dân tộc.
Các giá trị t tởng này đợc thể hiện rất đa dạng thành các giá trị văn học

nghệ thuật, lối sống, làm phong phú thêm cho văn hoá bản địa. Đó là các
giá trị đề cao tính nội tâm, hớng nội của con ngời khi chúng đợc chắt lọc và
nâng lên tầm nghệ thuật. Ví dụ nh trà đạo, hoa đạo, võ đạo, th pháp, thơ
thiền
Giá trị nhân bản của Phật giáo là độc đáo so với phơng Tây và các hệ
t duy khác. Bởi cách tiếp cận nhân bản luận của Phật giáo là trung đạo, h-
ớng nội và vô thần. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá trở thành xu h-
ớng chung khách quan; mở cửa; giao lu; hội nhập quốc tế là con đờng tất
yếu; tiếp thu và cải biến các giá trị nhân loại là cần thiết, nhiều học giả ph-
ơng Tây đã đánh giá cao giá trị nhân bản của Phật giáo, coi nhân bản luận
của Phật giáo nh là một đặc trng trội của t duy phơng Đông, là cái có thể bù
đắp những thiếu hụt t duy phơng Tây về con ngời.
Ngợc lại về phía mình, nhân bản luận Phật giáo cũng luôn tận dụng
các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại để bảo vệ, bổ sung và phát triển
thêm giá trị nhân bản truyền thống của mình. Theo đó, trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, việc xây dung một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc và làm cho một hệ t tởng văn hoá có thể bảo tồn, phát huy và hoàn
thiện các giá trị truyền thống của nó, không thể không tiếp thu tinh hoa và
góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá của nhân loại, đồng thời đấu
tranh chống sự xâm nhập của văn hoá độc hại, của các giá trị ngoại lai phản
tiến bộ. Và chỉ có trên cơ sở đó, các giá trị nhân bản tiến bộ của Phật giáo
mới có thể đợc giữ gìn và phát huy với t cách là những nét độc đáo so với
các giá trị văn hoá khác.
Đạo Phật là một triết lí về con ngời hớng nội. Đạo Phật quan niệm
đời ngời là bể khổ, song đó lại là cái khổ trong nội tâm của từng cá nhân
riêng lẻ. Điểm mạnh nhất của triết lí này là con ngời nội tâm, vô thần, bình
đẳng về đaọ đức. Đạo Phật đa ra các quan điểm về vũ trụ luận, nghiệp và
luân hồi, giải thoát luận.
5
Khúa lun Trit

Vũ trụ luận của đạo Phật không tách dời vũ trụ ngời về không gian và
thời gian, với mục đích tồn tại là lí giải vũ trụ ngời. Theo đạo Phật, vũ trụ
gồm nhiều thế giới khác nhau cùng sự tác động giữa chúng. Con ngời trong
vòng luân hồi sinh tử cũng phải trải qua nhiều thế giới gồm dục giới, sắc
giới, và vô sắc giới.
Về nghiệp và luân hồi, chúng có giá trị đạo đức tôn giáo độc đáo, nh
một vị quan toà phán xử vô t. Nghiệp nào lãnh quả ấy, nghiệp và luân hồi
có tác dụng cảnh tỉnh và hớng con ngời tự giác làm điều thiện. Tuy nhiên,
lập trờng tôn giáo lại thể hiện rõ trong Phật giáo. ở chỗ, con ngời đạo đức
Phật giáo là con ngời phi giai cấp, phi lịch sử. Khi con ngời trở về với chính
mình trên con đờng tới Niết Bàn thì mọi mâu thuẫn về quyền lợi, chính trị
hay giai cấp đều đ ợc cân bằng. Và nh vậy, đạo Phật đã tự mình thu hút đ-
ợc nhiều ngời hơn.
Về giải thoát luận, đạo Phật khẳng định tất cả mọi ngời đều bình
đẳng trên con đờng giải thoát. Niết bàn là cảnh giới lí tởng của giải thoát
luận đạo Phật. Đó là sự thoát ly khái niệm, thoát ly mọi hình tớng, nằm
ngoài phạm vi khảo sát và miêu tả. Nó đợc phân chia thành Niết bàn vô d
và Niết bàn hữu d. Sự phân đôi có ý nghĩa quan trọng trong việc vẽ ra khả
năng đạt tới Niết bàn, khích lệ niềm tin và sự tu dỡng. Khi con ngời đạt đến
trạng thái giải thoát họ có đợc một phẩm chất lý tởng gọi là Phật tính.
Tuy nhiên nó mới chỉ dừng lại ở phạm vi tinh thần, đạo đức, tâm lý của con
ngời cá nhân chứ cha giải phóng hiện thực, xoá bỏ tận gốc bất công, đau
khổ trong đời sống kinh tế xã hội có giai cấp.
Con ngời lí tởng của đạo Phật là Chu Phật, La Hán, Bồ Tát. Họ là
những con ngời xuất thế, bỏ đi các nhu cầu tự nhiên tới mức diệt dục,
phi bạo lực, thích nghi với mọi điều kiện và không phản kháng. Mô hình
lý tởng của đạo Phật là con ngời bình đẳng về đạo đức, tất cả đều thiện và
không còn phân biệt đẳng cấp, không còn khác nhau về nhu cầu vật chất và
tinh thần.
b) Giá trị t tởng:

Nh đã nói, Phật giáo cho rằng đời là bể khổ và con ngời muốn giải
thoát khỏi cái khổ để đạt tới sự giải thoát hay Niết bàn thì phải tu theo Bát
chính đạo và Giới- Định- Tuệ. Vì vậy, moõi con ngời khi là một thành
6
Khúa lun Trit
viên của trờng phái này hay chỉ đơn thuần là tìm hiểu và nghiên cứu nó đều
tìm đợc cho mình những giá trị t tởng lớn giúp họ tồn tại và vững bớc trên
con đờng tơng lai. Trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm và
cần ta giải quyết. Mọi ngời phải tự tìm lấy cho mình một nguyên tắc sống
riêng để làm sao có thể dung hoà đợc tất cả các mối quan hệ đang tồn tại
xung quanh ta. Đạo Phật sẽ giúp chúng ta tìm thấy sự thanh thản trong tâm
linh, thoát khỏi những cám dỗ, bụi bẩn nơi trần tục. Để từ đó mỗi ngời tự
hoàn thiện chính bản thân mình và trở thành những công dân tốt, có ích cho
xã hội.
Mỗi ngời dân biết đến Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vô
cùng vĩ đại mà còn là một vị phật sống. Ngời đã dành rất nhiều thời gian để
đi sâu nghiên cứu Phật giáo và Ngời đã tìm đợc ở đây những giá trị nhân
văn và đạo đức cao cả. Và sau đó, Ngời đã vận dụng những giá trị đó vào h-
ớng dẫn chỉ đạo đờng lối t tởng cho nhân dân ta trong suốt thời bình và thời
chiến. Thành công lớn nhất mà Hồ Chí Minh đạt đợc là đem lại độc lập- tự
do- dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Còn nhân dân luôn ủng hộ Ngời trong
quá trình giữ gìn hoà bình, thống nhất đất nớc và xây dựng, phát triển quê
hơng ngày càng giàu mạnh. Mặt khác, nhân dân ta luôn thắt chặt tình đoàn
kết, bình đẳng, tự do, bác ái, muốn thiết lập tình hữu nghị với tất cả các nớc
trên thế giới.
ở Việt Nam còn có vua Trần Thái Tông- vị hoàng đế mở đầu cho
triều đại nhà Trần cũng là một tín đồ Phật giáo rất nhiệt thành. Tuy nhiên
ông không quên trách nhiệm của mình đối với nhân dân và xã hội. ở con
ngời này thấm nhuần những t tởng thiền học một cách sâu sắc. Đó là một
hệ thống triết học Phật giáo tơng đối hoàn chỉnh, có mối liên hệ và sự tơng

đồng khá sâu sắcvới các t tởng và triết lí thiền của Huệ năng trong Pháp
bảo đàn kinh. Với những kết quả mà mình đã tiếp thu có chọn lọc và sáng
tạo ông đềuphổ bién cho nhân dân ta. Bản thân ông là một tấm gơng lớn.
Còn nhân dân cũng sẽ là lĩnh hội đợc cái hay của Thiền để có thể áp dụng
nó thạt thờng xuyên trong cuộc sống. Nh vậy, Trần Thái Tông đã góp phần
giáo dục t tởng cho nhân dân qua những triết lí Thiền Phật giáo làm cho
xã hội Việt Nam thời kì bấy giờ văn minh và tốt đẹp hơn.
7
Khúa lun Trit
c) Giá trị triết học- tôn giáo của Thiền Phật giáo:
Ngày nay, Thiền Phật giáo vẫn đang thể hiện giá trị độc đáo của triết
học- tôn giáo Phật giáo trong văn hoá và lối sống. Nó đợc khai thác và phát
triển từ các góc độ tâm lí học, đạo đức học và văn hoá học.
Trong các kinh điển Phật giáo, Thiền luôn coi trọng tinh thần Buông
bỏ và lôgíc phát triển của nó phải là sự giải thoát bình đẳng, không phân
biệt đẳng cấp, giới tính trần tục hay thần thánh Đây là điểm tiến bộ nhất
và rất cách mạng phật giáo về phơng diện triết học tôn giáo so với Bà la
môn giáo và triết lí Yoga.
Ngoài ra, nguồn gốc ấn Độ của Thiền Phật giáo có gốc rễ từ kinh
điển Vêda cổ và trực tiếp hơn từ hệ thống kỹ thuật và giáo lý Yôga. Tuy
vậy, Thiền Phật giáo không phải chỉ là sản phẩm thuần nhất của ấn Độ nh
Yôga mà là kết quả của sự tiếp biến giữa hai nền văn hoá lớn Trung Quốc
và ấn Độ, cụ thể hơn là sự dung hợp những tinh tuý về nghệ thuật nội quán
của ba giáo lý Yôga, Phật giáo và Lão giáo. Mặt khác, theo đánh giá của
triết gia Nitsơ thì Phật giáo là tôn giáo của những chủng tộc thân thiết,
hiềng hoà, đã đạt đến mức độ cao của t tởng. ông viết tiếp: Sự rõ ràng
của t tởng, sự an bài, sự vô ham là mục đích cao cả- đó là điều mà Phật
giáo muốn và đã đạt đợc. Không những thế ông còn thấy đợc tính hiện
thực tôn giáo ở Phật giáo. Nó là một công cụ giáo dục con ngời. Bởi Phật
giáo chỉ ra nghệ thuật dạy dỗ những con ngời hạ đẳng bằng con đờng danh

dự vơn lên cao hơn trong trật tự hão huyền của các vật thể và chính nhờ đó,
trật tự thực tế đi vào khuôn khổ có hiệu quả. Đối với con ngời, trật tự này là
rất hà khắc nhng là sự hà khắc cần thiết. Giá trị của triết học- tôn giáo của
Thiền Phật giáo nói riêng và Phật giáo nói chung đã và đang đợc ứng dụng
vào trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.
d) Giá trị đạo đức thể hiện trong nền kinh tế thị trờng:
Đạo đức Phật giáo là một hệ đạo đức tôn giáo xuất thế, thiên về thế
giới nội tâm và có khuynh hớng vô thần. Điểm mạnh của đạo đức Phật giáo
là ở chỗ, nó cũng là một thứ đạo đức tôn giáo nhng lại có khuynh hớng vô
thần nên tính nhân đạo có phần độc đáo hơn so với các tôn giáo hữu thần
8
Khúa lun Trit
do phát huy tối đa tính tự giác, tự tại của nội tâm cá nhân. Sự phán xét của
đạo đức là nghiệp quả, nghệp báo, nó điều chỉnh cá nhân theo qui luật nhân
quả tự tại.
Ra đời tại ấn Độ vào thế kỉ VI trớc Công nguyên, khi kinh tế ấn Độ
vẫn là tự cung tự cấp, trao đổi bằng hiện vật, thì giá trị lí luận của Phật giáo
rất mờ nhạt. T tởng kinh tế căn bản trong giáo lí Phật giáo là kinh tế đạo
đức với chủ trơng ham muốn ít, bằng biện pháp diệt dục, thiểu dục để
tạo ra sự sung túc, chứ không phải là sản xuất nhiều hay tăng năng suất để
có đợc sự sung túc. T tởng này đối lập với kinh tế thị trờng vì nó phản đối
hởng thụ, không khuyến khích làm giàu thậm chí còn không khuyến khích
tích luỹ.
Ngày nay, khi Phật giáo đã đợc phổ biến và trở thành tôn giáo lớn
trên thế giới thì sự tác động của thị trờng tới đạo đức Phật giáo là không thể
tránh khỏi. Sự tác động này gồm hai mức độ là tác động tới hành vi đạo đức
và tác động tới đạo lí gốc của Phật giáo.
Cụ thể là sự xuất hiện quan hệ trao đổi giữa một bên là tăng sĩ Phật
giáo làm nghĩa vụ chăn lo phần tâm linh cho quốc gia, triều đình và dân
chúng trong các dịp quan trọng nh lễ lên ngôi, cầu ma, và cho những ng -

ời dân trong cá sinh hoạt tinh thần nh cới xin, ma chay Đối lại, bên kia là
triều đình cũng nh quí tộc và dân chúng chăm lo phần vật chất cho các tăng
sĩ nh ban thởng lơng thực, vàng bạc Song song với sự tồn tại của hình
thức này là sự tác động của cơ chế thị trờng đã làm biến dạng nó đi và mặt
khác đã ảnh hởng không ít tới danh dự của Phật từ và tăng đoàn Phật giáo
phải chịu thiệt hại lớn. Chịu ảnh hởng của nguyên tắc cung cầu của cơ chế
thị trờng, hình thức trao đổi trên đã biến đổi cả về nội dung và chất lợng
kéo theo sự biến dạng. Nhu cầu tâm linh của con ngời quá lớn, có khi còn
hoàn toàn trái ngợc với tinh thần giáo lí của Phật giáo, nh trúng quả đậm.
Bên cạnh đó là nhu cầu của tăng sĩ cũng ngày càng đa dạng và hiện đại nh
sử dụng tivi, di động hay xe ôtô Hơn thế là sự xuất hiện của những dịch
vụ nh bói toán, và những hòm công đức, hòm từ thiện.
Một khía cạnh nữa về sự tác động của cơ chế thị trờng đó là sự thay
đổi trong nhữngqui phạm của Giới luật. Ví dụ nh giá trị từ bi, cứu độ của
9
Khúa lun Trit
giới Bố thí trong Lục độ bị sự chi phối trực tiếp của nguyên tắc có đi có
lại nên đã mang màu sắc tính toán vị kỉ.
Tuy vậy, về căn bản đạo lí Phật giáo vẫn giữ nguyên đợc giá trị đạo
đức giải thoát. Tứ diệu đế luôn là nhân lõi của toàn bộ hệ giáo lí, trong đó
Bát Chánh đạo vẫn là sự kết hợp không tách dời lý thuyết với thực hành của
Giới- Định- Tuệ trên tinh thần đạo đức hớng thiện: từ bi, hỉ xả, bác ái, làm
lành, lánh ác.
Kinh tế thị trờng phát triển cả giá trị tích cực và tiêu cực. Đạo đức
Phật giáo vơí t cách ý thức xã hội cũng tác động tới kinh tế thị trờng nhng
không trực tiếp mà qua lăng kính giá trị tôn giáo. Phật giáo coi mặt tiêu cực
của kinh tế thị trờng nh là quả báo của cuộc cạnh tranh hởng thụ. Giới-
Định- Tuệ, Bát- Chính- đạo vẫn là khung lí thuyết đạo đức- tôn giáo có tính
vô thần, hớng nội, phát huy đợc tính hợp lí của giá trị nhân văn trong nền
kinh tế thị trờng. Trong cơ chế cạnh tranh, đạo lí Phật giáo vẫn cần để nhắc

nhở con ngời không đợc phép quên sự phán xử tự tại của lý nghiệp báo,
sự đánh giá, động viên của quả phúc để tự điều chỉnh hành vi đạo đức hớng
thiện.
Đạo đức Phật giáo không ngừng chọn lọc, hoàn thiện qua lịch sử phát
triển của Phật giáo và giờ đây nó trở thành tinh hoa văn hó chung của của
loài ngời chứ không chỉ riêng Phật giáo theo nghĩa tôn giáo. Dới thử thách
của cơ chế thị trờng, đạo đức Phật giáo sẽ không ngừng vơn tới hoàn thiện
cả về mặt nội dung và hình thức.
1.3. Những hạn chế của Phật giáo:
Thứ nhất là về Thiền Phật giáo không thể trực tiếp mở rộng sang các
lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật hiện đại. Đây là một hạn chế lớn của
Thiền với t cách hệ t tởng triết học- tôn giáo. Hạn chế này bắt nguồn từ sự
giải thoát của Thiền Phật giáo. Nó là một trải nghiệm tâm linh có tính hớng
nội và tính cá thể tuyệt đối nên không thể chứng minh hay bác bỏ. Do vậy
kết quả đạt đợc cũng không cũng không thể chứng minh hay bác bỏ. Vì vậy
mà Thiền Phật giáo chủ yếu phát huy sức mạnh trực giác hớng nội trong
các lĩnh vực triết học, đạo đức, tôn giáo, hay nghệ thuật và có khả năng
hấp dẫn đối với nhu cầu nội tâm. Hạn chế này vẫn đang tồn tại và khó khắc
phục.
10
Khúa lun Trit
Thứ hai là Phật giáo đã không thấy đợc sự hồi sinh của con ngời qua
cá hoạt động thực tiễn và sáng tạo khoa học. Đây là một hạn chế trong
nhân bản luận của Phật giáo. Trong quan niệm của Phật giáo thì con ngời
rất mờ nhạt tính xã hội, tính giai cấp, tính kinh tế, tính kỹ thuật Đó là một
con ngời ngoài thực tiễn lịch sử đợc con ngời cải tạo và sáng tạo. Cụ thể,
tính xã hội của con ngời trong Phật giáo chỉ thể hiện gián tiếp qua các
chuẩn mực đạo đức bao gồm chánh- tà, thiện- ác, và khổ- lạc. Khi những
chuẩn mực này bị coi là nguy cơ trở thành đối tợng của ái dục thì chúng có
khuynh hớng bị phủ định. Mặt khác, cáI khổ của con ngời trong Phật giáo

là cái khổ của nội tâm, tâm lí và tâm linh. Phật giáo không nhìn thấy sự
chuyển hoá và tha hoá của con ngời trong quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội.
Cái khổ mà Phật giáo quan niệm là cái khổ của con ngời nói chung với
sinh- lão- bệnh- tử, chức không phải là cái khổ của con ngời lao động bị áp
bức, bị tớc mất quyền làm chủ các sản phẩm do chính mình tạo ra, để thoả
mãn nhu cầu vật chất và tinh thần chính đáng của mình. Nhng Phật giáo lại
không nhận thức đợc thực tiễn này.
Trong khi đó, con ngời luôn luôn biến đổi bản thân và xã hội để phù
hợp với những thay đổi của lịch sử và thoả mãn nhu cầu chính đáng của họ.
Tuy nhiên, trong quá trình du nhập, đối thoại và phân phái nhân bản luận
Phật giáo đã liên tục khắc phục hạn chế và hiện đại hoá. Chẳng hạn, nó
luôn tận dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để bảo vệ, bổ sung và phát
triển thêm giá trị nhân bản truyền thống của nó.
Cần phải nói thêm rằng, con ngời của đạo Phật là con ngời xuất
thế, tránh việc thoả mãn các nhu cầu tự nhiên tới mức diệt dục, phi bạo
lực, thích nghi với mọi điều kiện và không phản kháng (cả chính nghĩa và
phi nghĩa). Mô hình lí tởng là con ngời bình đẳng về đạo đức, tất cả đều
thiện, tốt và không phân biệt đẳng cấp. Song thực tế lại không có nhiều ng-
ời đợc nh vậy. Và giáo đoàn Phật giáo đã nhiều lần phải cải tổ chỉ vì chính
sự tha hoá nhân cách của một số tăng sĩ trong giáo đoàn và cả vì sự tranh
chấp quyền lực giữa các giáo phái, thậm chí có lúc đã đổ máu. Đây là một
sự thật đáng buồn trong nội bộ Phật giáo.
Thứ ba là tính ích kỉ trong Phật giáo Tiểu Thừa với chủ trơng cứu rỗi
cá thể. Đây cũng là một hạn chế lớn của Phật giáo. Vì Phật giáo chủ trơng
11
Khúa lun Trit
vô ngã để tự giải thoát cho chính mình (tự ngộ). Tuy nhiên, hạn chế
nhanh chóng đợc khắc phục với sự xuất hiện của Phật giáo Đại thừa. Giáo
phái này do Long Thọ sáng lập nhằm tiếp tục triển khai nguyên lý Không
và giải thoát luận Trung đạo mang tính chất phổ quất cao hơn. Theo ông,

giác ngộ là sự giải thoát không chỉ cho chính mình mà còn cho mọi chúng
sinh (giác tha). Quan niệm giác ngộ còn phân biệt có- không về ngã vô,
pháp hữucủa Tiểu thừa đợc triệt để hoá theo nguyên lý Không thành ngã
pháp câu không, tức là vứt bỏ cả ý thức phân biệt có- không.
Nh vậy, hạn chế lớn nhất và cũng khó khắc phục nhất của Phật giáo
là cha giải thích đúng đắn bản chất của các hiện tợng lịch sử xã hội, cha
tìm ra nguyên nhân đích thực nỗi khỗ mà nhân dân phải gánh chịu. Và nó
cũng cha chỉ ra đợc con đờng và biện pháp cỉa tạo xã hội một cách đúng
đắn, có hiệu quả để xoá bổ tận gốc rễ sự đau khổ và bất công trong xã hội
đơng thời.
2. ảnh hởng của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay:
Phật giáo ra đời ở ấn Độ vào cuối thế kỉ VI trớc Công nguyên. Phật
giáo đợc truyền bá vào Việt Nam từ thế kỉ I, do sự tác động của thị trờng
thông qua sự thông thơng từ ấn Độ tới Trung Quốc qua hai con đờng Gió
mùa và Tơ lụa, nên Việt Nam cũng sớm tiếp thu loại văn hoá này.
Và giờ đây, Phật giáo chính là một trong ba phông t tởng chính hợp
nên t tởng, văn hoá, đạo đức của Việt Nam. Dới thời Lý- Trần, Phật giáo
Việt Nam đã trở thành quốc giáo, cũng đã xuất hiện nhiều vị s giỏi có công
lớn trong trị nớc và giữ nớc.
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Phật giáo đã có lúc thăng,
lúc trầm, nhng nhìn chung, nó có đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Thế giới của Phật giáo là duy tâm, nhng nhân sinh quan
Phật giáo Việt Nam đợc xây dựng trên cơ sở thế giới quan ấy luôn chứa
đựng những nét nhân bản, nhân văn cao cả. Trong khoản 2000 năm tồn tại
và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã xây dựng cho mình truyền thống yêu
nớc, gắn bó với dân tộc, trở thành thành tố quan trọng chugn xây dựng đất
nớc nên nền văn hoá Việt Nam.
12
Khúa lun Trit
a) ảnh hởng tích cực của Phật giáo tại Việt Nam:

Điều này đợc thể hiện rõ nét trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngời luôn dành mối quan tâm lớn cho
Phật giáo. Và điều Hồ Chí Minh quan tâm lớn nhất ở Phật giáo là vấn đề
đoàn kết toàn dân vì nớc Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh. Để thực hiện đợc mong ớc lớn lao này của mình, dù bận
trăm công nghìn việc, Ngời vẫn dành thời gian viết th gửi tới Hội Phật Tử
1947, hay gửi những đồng bào theo đạo Phật nhân lễ Phật thành đạo năm
1957 và gửi Hội nghị đại biểu Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam năm
1964. Với mỗi bức th, Ngời đều sử dụng những lời lẽ hết sức thuyết phục
của đạo Phật để khuyến khích và kêu gọi những tín đồ Phật giáo Việt Nam
đoàn kết, hy sinh của cải, xơng máu, kháng chiến đến cùng để đánh tan
thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn, để giữ gìn thống
nhất và độc lập tổ quốc.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh còn là ngời rất am hiểu vầ đạo Phật, luôn
đánh giá đúng vai trò, tầm quan trọng và những đóng góp cho đất nớc cảu
Phật giáo Việt Nam trong lịch sử cũng nh trong cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân và trong cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngời luôn
trọng tự do tín ngỡng của nhân dân, đồng thời nhắc nhở nhân dân cảnh giác
với những kẻ lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy
Ngời viết về Phật giáo không nhiều nhng cuộc đời và sự nghiệp của Ngời
rất gắn bó với đạo Phật, và để lại nhiều ấn tợng đẹp trong lòng Phật tín đồ
cả nớc và thế giới. Với nhân dân, Ngời không chỉ là một vị chủ tịch nớc mà
còn là một vị Phật sống đã phát huy đợc truyền thống yêu nớc, đoàn kết
dân tộc, cứu nhân độ thế, vị tha, hớng thiện, của Phật giáo Việt Nam vì
mục đích dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với tài
năng kiệt xuất, sự hiểu biết sâu rộng và một tấm lòng nhân đạo cao cả, Ng-
ời đã làm cho nhân dân và đất nớc của Ngời lớn lên cùng Ngời. Với Hồ Chí
Minh, danh lợi là phi nghĩa, và Ngời chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho đất nớc ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn đợc tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đợc học hành.

Xin cảm ơn vì Việt Nam đã có một Hồ Chí Minh nh thế! Ngời đã vận
dụng một cách linh hoạt và sáng tạo những giá trị của Phật giáo để giúp
13
Khúa lun Trit
cho nhân dân ta, dân tộc ta đi đúng hớng và giành đợc những chiến thắng
lớn.
Một khía cạnh khác là sự ảnh hởng tích cực của đạo đức Phật giáo
đối với nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những nớc
nghèo, trong khi đó chúng ta lại đang phát triển theo cơ chế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa. Dù không muốn, chúng ta vẫn phải đối mặt và chịu
ảnh hởng của mặt trái của cơ chế này. Do vậy, để hạn chế ảnh hởng tiêu
cực của cơ chế thị trờng, Việt Nam phải lựa chọn và thực hiện theo biện
pháp kinh tế- đạo đức khổ hạnh, thiểu dục của Phật giáo. Trong hoàn
cảnh hiện nay của đất nớc thì việc áp dụng biện pháp này vẫn là một sự cần
thiết và đúng đắn.
Bên cạnh đó, khi nền kinh tế chịu tác động bởi nguyên tắc cạnh tranh
của cơ chế thị trờng thì vấn đề đạo đức con ngời càng bức xúc hơn. Mỗi ng-
ời kinh doanh đều mong muốn thu đợc lợi nhuận tối đa trong công việc làm
ăn của mình. Và họ đã bị cuốn theo vòng danh lợi mà đánh mất chính bản
thân mình. Thì khi đó, đạo đức Phật giáo chính là nơi để họ tĩnh tâm và tìm
lại đợc đúng đờng đi cho mình. Có thể nói rằng những giá trị nhân văn của
đạo đức Phật giáo đã góp phần không nhỏ trong việc cải thiện và hoàn thiện
nhân cách cho mỗi cá nhân. Và thực tế ngày nay cho thấy rằng đạo đức
Phật giáo vẫn thật cần thiết trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Khía cạnh thứ ba là ảnh hởng tích cực của Phật giáo đợc thể hiện rõ
nét trong lối sống, đặc điểm chuẩn giá trị xã hội lành mạnh và đời sống văn
hoá phong phú.
Với nhân dân Việt Nam, Phật giáo thật quen thuộc, gần gũi và thân
thiết. Phật giáo chính là một trong ba phông t tởng tạo nên t tởng, văn hoá,
đạo đức của ngời Việt Nam. Có thể nói rằng Phật giáo và dân tộc ta có sự

gắn bó mật thiết với nhau. Từ xa, khi vua Lý Nam Đế vừa lập ra nớc Vạn
Xuân, ông vừa cho xây dựng chùa Khai Quốc. Hình ảnh ngôi chùa đã đi
vào tiềm thức của mỗi ngời dân đất Việt nh là một nơi hết sức tôn nghiêm,
trong sạch và yên tĩnh. Tiếp nối truyền thống chùa với nớc, Phật với ngời,
đạo với đời, Thiền s Không Việt phái Ngôn Thông và Thiền s Pháp Nhuận
phái Tỳ Ni đa lu chi đã tham gia bàn luận và giải quyết những công việc
quốc gia với t cách là những cố vấn của vua Lê Đại Hành. ở thời nhà Lý,
14
Khúa lun Trit
Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân. Theo
tài liệu của nhà sử học Lê Văn Hu thời Lý hơn một nửa dân số nớc ta đã
vào chùa, và hơn thế mỗi địa phơng đều có chùa của mình. Mỗi ngời dân
lúc đó đều ý thức đợc vai trò của Phật giáo, bởi vậy mà nhân dân ta có câu
tục ngữ đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt. Hình ảnh ông Bụt hiền hậu,
nhân từ hiện lên cứu giúp những ngời dân nghèo thật quen thuộc với dân ta.
Không những vậy, đã có nhiều vua Lý nh Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông,
Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông đã cắt tóc đi tu. Đủ thấy rằng, Phật giáo đã
có ảnh hởng sâu sắc trong đời sống xã hội trong giai đoạn lịch sử đó. Phật
giáo đã in đậm dấu ấn trong hầu hết các lĩnh vực văn hoá của dân tộc ta.
Những nhà s có uy tín đặc biệt trong xã hội, mỗi chùa lớn đều đợc nhà vua
ban tặng và quyên cúng hàng ngàn mẫu ruộng. Để đáp lại tấm lòng u đã
này, các nhà s đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị và sau đó họ đã
đạt đợc những vị trí cao trong triều đình, nh s Đa Bảo, s Viên Thông, s Vạn
Hạnh đã giúp vua Lý Công Uẩn khai sáng triều Lý.
Đến đầu triều Trần, Phật giáo vẫn còn phát triển mạnh và là quốc
giáo của nớc ta lúc đó. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông và Trần Anh Tông, Trần Minh Tông đều là những thánh đăng
của vờn thiền. Vua Trần Nhân Tông còn nổi tiếng là ngời sáng lập ra dòng
thiền Trúc Lâm. Tuy nhiên đến cuối triều Trần, Phật giáo ngày càng yếu
dần và đến cuối thời Lê thì nhờng bớc cho Nho giáo.

Nh vậy, trong suốt bốn mơi năm thế kỉ đầu tiên, lịch sử t tởng Triết
học ở Việt Nam chủ yếu là lịch sử t tởng Phật giáo, mà chủ yếu là Thiền.
Và trong giai đoạn này, Phật giáo đã ăn sâu và tiềm thức và đợc thể hiện
đậm nét trong lối sống của ngời dân đất Việt. Cụ thể là dân ta có một nền
nông nghiệp tĩnh lặng, làng quê Việt Nam hiện lên trong những câu ca dao
thật yên bình và mộc mạc sau những luỹ tre làng. Ngời dân chất phác, hiền
lành quanh năm chỉ lo làm ăn với đồng ruộng mà không tham danh lợi. Và
đặc biệt, họ yêu chuộng hoà bình và ghét cảnh chiến tranh, tang thơng, chết
chóc. Một hình ảnh rất quen thuộc và đặc trng cho miền quê Việt Nam đó
là ngôi chùa. Những ngôi chùa Việt Nam với mái cong, tờng thấp nh từ đất
mọc lên không uy hiếp con ngời cũng chẳng thách đố tự nhiên, mà giao
hoà với vạn vật và chúng sinh. Chính Phật giáo đã góp phần khích lệ tấm
15
Khúa lun Trit
lòng từ bi, hỉ xả, bác ái trong đạo đức đối trọng với cạnh tranh thị trờng và
lợi nhuận của ngời dân. Bên cạnh đó, ta còn thấy ảnh hởng của Phật giáo ở
những lễ hội trong xã hội, những lễ thức gắn liền với những thời kì quan
trọng của một đời ngời nh cới xin, ma chay, sinh nở và nó cũng có mặt
những khi sản xuất gặp bất trắc, cánh đồng có tai nạn hay khi con ngời gặp
may.
Ngời Việt Nam có văn hoá, tín ngỡng, tôn giáo ảnh hởng của Phật
giáo. Dờng nh ngời Việt Nam nào trong tâm linh cũng có tín ngỡng thờ
cúng tổ tiên và biểu tợng của các vị thần nh Trời, Phật Và cả trong thuần
phong mỹ tục, hội hoạ, điêu khắc và âm nhạc đều có bóng dáng của Phật
giáo. Cũng bởi vì ở Phật giáo họ đã tìm thấy đợc những giá trị chuẩn mực
của đạo đức để có thể giúp họ định hớng hành vi và đi đến tơng lai tốt đẹp.
Nh vậy, Phật giáo đã có rất nhiều ảnh hởng tích cực đối với đời sống
tinh thần và đời sống xã hội của nhân dân ta và dân tộc ta trong quá khứ và
ngay trong thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, không thể nói rằng Phật giáo không có ảnh hởng tiêu cực

ở Việt Nam.
b) ảnh hởng tiêu cực của Phật giáo ở Việt Nam:
Tín ngỡng tôn giáo là một nét đẹp trong văn hoá của ngời dân Việt
Nam. Hầu nh gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên của gia đình và dòng họ
mình. Hay cứ mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, mọi ngời lại rủ nhau lên chùa
thắp hơng và hái lộc, với hy vọng mang sự bình yên và may mắn về nhà.
Tuy nhiên một số ngời đã biến tớng nét đẹp này dới dạng mê tín dị đoan.
Hiện tợng này có thể nói rằng khá phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay.
Những con ngời này do ỷ lại và mù quáng vào số mệnh của mình đã đi tin
tởng và cầu xin những điều vô lí. Chẳng hạn họ xin đợc trúng quả đậm, xin
thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, làm sao để tiền vào nh nớc, tiền ra
nhỏ giọt, Và những hậu quả mà mê tín dị đoan để lại thì không thể kể hết
đợc. Nó len lỏi vào trong từng gia đình bất kể giàu nghèo và phá tan nát
biết bao tổ ấm hạnh phúc. Chính mê tín dị đoan đã góp phần cổ vũ lối sống
thụ động, cam chịu, khép kín, dễ ngả nghiêng và dễ bị những lối sống khép
kín, bi quan và bế tắc cám dỗ. Và giờ đây, khi đất nớc đang ngày càng phát
triển thì mê tín dị đoan chính là một rào cản lớn cho sự nghiệp công nghiệp
16
Khúa lun Trit
hóa- hiện đại hoá bởi sự tác động của nó đến nguồn nhân lực của Việt
Nam.
Bên cạnh hiện tợng mê tín dị đoan còn có hiện tợng tiêu cực khác do
chịu ảnh hởng của Phật giáo đó là đất lề, quê thói. Đây chính là một câu
tục ngữ đã đợc đúc kết từ xa xa và có lẽ đến bây giờ nó vẫn còn nhiều giá
trị. Đất có lề, quê có thói đó là điều mà ai cũng hiểu và chấp nhận thực hiện
theo nó với không lí do nào cả. Khi những thói quen của con ngời đã có từ
lâu đời, nó trở thành những qui định, nguyên tắc cố hữu và buộc mọi ngời
phải tuân theo nó. Nếu đó là những điều tốt đẹp thì chúng ta trân trọng và
giữ gìn cho ngàn đời sau. Nhng nếu nguyên tắc ấy quá cứng nhắc, cổ hủ và
có phần không hợp lí với xu thế ngày càng phát triển của cuộc sống thì

chúng ta sẽ không muốn và không thể làm theo. Tuy nhiên Phật giáo khi
can thiệp vào vấn đề này lại mang nhợc điểm lớn. Đạo đức và giáo lý Phật
giáo không giúp con ngời xoá bỏ mà trái lại phải phục tùng không điều
kiện những nguyên tắc đó. Nh vậy, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội
Việt Nam.
Vậy, ta phải có những biện pháp thiết thực nào để phát huy tính tích
cực cũng nh hạn chế tiêu cực của Phật giáo, để Phật giáo Việt Nam tồn tại
lâu dài với thời gian.
3. Giải pháp phát huy tính tích cực cũng nh hạn chế ảnh hởng tiêu cực
của Phật giáo trong giai đoạn hiện nay:
Đầu tiên, để Phật giáo có thể truyền bá đợc rộng rãi trong nhân dân
thì Đảng và Nhà nớc ta phải tiến hành mở các trờng đại học chuyên tâm
nghiên cứu về Phật giáo. Bên cạnh đó, Bộ Giáo Dục cũng có thể mở thêm
khoa Phật giáo học tại Đại Học Văn Hoá. Có nh vậy lớp trẻ chúng ta mới
có thể tiếp nhận trực tiếp những giá trị tốt đẹp của Phật giáo đợc. Ngoài ra,
Nhà nớc có thể phối hợp với chính quyền địa phơng để trùng tu và nâng cấp
những ngôi chùa cổ hay những mái đình ở làng quê Việt Nam. Để mọi ngời
có thể thấy đợc tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ và giữ gìn những di sản
phi vật thể mang đậm giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam. Mặt
khác, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân kết hợp nhau trong công tác tuyên
truyền bài trừ nạn mê tín dị đoan. Bằng quyền hạn của mình, Nhà nớc có
thể ban hành những chính sách khuyến khích tạo việc làm cho một số lợng
17
Khúa lun Trit
lớn những ngời thất nghiệp trong xã hội. Việc làm này có ý nghĩa rất lớn
đối với những ngời kém may mắn, giúp họ tu tỉnh làm ăn và hớng tới một t-
ơng lai tốt đẹp hơn. Từ đó nó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển theo một
chiều hớng tích cực.
Bên cạnh đó, Đảng cần tăng cờng công tác tuyên truyền lối sống lành
mạnh cùng nền văn hoá văn minh trong dân c. Để xã hội Việt Nam luôn

trong sạch, vững mạnh tiến lên chủ nghĩa xã hội.
18
Khúa lun Trit
C. Kết luận:
Qua bài viết này, em mong rằng mình đã đóng góp một phần nhỏ bé
vào việc giải thích những giá trị và hạn chế của Phật giáo cũng nh ảnh hởng
của Phật giáo ở Việt Nam. Cho đến nay, Phật giáo vẫn tồn tại ở nhiều nớc
và có khi còn là quốc giáo của nớc đó nữa. Cũng bởi vì một lí do dễ hiểu là
những giá trị của Phật giáo vẫn mang tính thiết thực và cập nhật trong cuộc
sống. Theo dòng thời gian, nhu cầu vềmọi mặt của con ngời tăng lên theo
hớng hiện đại hoá thì nhu cầu tâm linh cũng không phải là ngoại lệ. Và
Phật giáo vẫn sẽ chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá
tinh thần của ngời dân. Tuy nhiên không thể phủ nhận những hạn chế đang
tồn tại trong lòng Phật giáo, có ảnh hởng không tốt đối với quá trình phát
triển đi lên của xã hội. Do vậy, một việc làm hết sức thiết thực và cần thiết
đối với mọi ngời là hãy nhận thức rõ ràng về những giá trị và hạn chế của
Phật giáo, để có thể tìm đợc những giải pháp tối u nhẩttong việc phát huy,
nâng cao vai trò, giá trị cũng nh giảm thiểu đến mức tối đa hạn chế của
Phật giáo. Và Phật giáo sẽ mãi mãi là nơi đáng tin cậy để con ngời có thể
thoả mãn nhu cầu tâm linh của mình.
Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo- Thạc sĩ
Nguyễn Trờng Sơn.
19
Khúa lun Trit
D. Danh mục tài liệu tham khảo
1. Thạc sĩ triết học Hoàng Ngọc Vĩnh- Hồ Chí Minh với đạo Phật- Tạp Chí
Triết học số 4/tháng 4/2002.
2. Tiến sĩ Hoàng Thị Thơ:
- Đạo đức Phật giáo với Kinh tế thị trờng- TC Triết học số 6/2001.
- Giá trị nhân bản của Phật giáo trong truyền thống và hiện đại- TC Triết

học số 6/2001.
3. Hoàng Thơ- Vấn đề con ngời trong đạo Phật- TC Triết học số 6/2000.
4. Hoàng Văn Cảnh- Trần Thái Tông với Pháp Bảo Đàn Kinh- TC Triết
học số 9/2002.
5. Nguyễn Thị Minh Hơng- ảnh hởng của Phật giáo đối với một số triết gia
ở phơng Tây- TC Triết học số 10/2000.
20

×