Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận một số nội dung pháp lí cơ bản về vấn đề tổ chức quản lí công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.72 KB, 15 trang )

- 1 -
Tiểu luận
Một số nội dung pháp lí cơ bản về vấn đề
tổ chức quản lí công ty cổ phần
trong Luật doanh nghiệp
- 2 -
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, các đơn vị kinh tế cơ sở cũng giữ vai
trò quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm cho xã hội, làm cho các nguồn tài
nguyên được sử dụng có hiệu quả hơn, làm cho cuộc sống của con người ngày
càng hạnh phúc, ấm no hơn. Các đơn vị kinh tế cơ sở bao giờ cũng là các đơn
vị nằm trong trung tâm của vòng vận hành kinh tế. Vì vậy, nó luôn là đối
tượng quan tâm của các nhà doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và là đối tượng
điều chỉnh vô cùng quan trọng của pháp luật.
Tuy cùng giữ một vị trí quan trọng như nhau nhưng các đơn vị kinh tế
lại được tổ chức khác nhau trong mỗi nền kinh tế. Sự khác nhau đó có nguyên
nhân chủ yếu từ cơ sở của mỗi loại cơ chế quản lý kinh tế và mặt khác nó phụ
thuộc vào truyền thống của mỗi quốc gia.
Hiện nay trên thế giới tồn tại khá nhiều các loại hình doanh nghiệp đa
dạng, chẳng hạn như các nước theo luật Anh-Mỹ đều chia doanh nghiệp thành
ba loại cơ bản bao gồm công ty phát hành cổ phiếu và không phát hành cổ
phiếu, công ty một chủ và hợp danh, hợp tác xã. Đối với hệ thống luật Châu
Au lục địa, doanh nghiệp được chia thành ba loại, đó là doanh nghiệp một chủ,
các công ty và hợp tác xã. Tuy nhiên, có thể nói công ty cổ phần là mô hình
kinh doanh điển hình trong nền kinh tế thị trường. Trên thế giới, công ty cổ
phần và pháp luật về công ty cổ phần đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Ở
Việt Nam, do những điều kiện lịch sử-xã hội nhất định nên việc tổ chức vận
hành công ty cồ phần còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, Nhà nước
ta đã cố gắng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về công ty, trong đó có pháp
luật về công ty cổ phần. Với sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 1999, chế
định công ty cổ phần đã được hoàn thiện hơn, toàn diện hơn và đầy đủ hơn so


với Luật công ty năm 1990. Một trong những nội dung pháp lý quan trọng về
công ty cổ phần là vấn đề tổ chức quản lý nội bộ công ty đã được Luật doanh
- 3 -
nghiệp tiếp cận và giải quyết khá thành công. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi xin được đề cập đến một số nội dung cơ bản về tổ chức quản lý công
ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp nhằm giúp cho việc giải thích và áp dụng
pháp luật về công ty cổ phần được thuận lợi hơn.
I. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP VÀ
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Khái quát hệ thống pháp luật về doanh nghiệp
Ở Việt Nam, trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, các đơn vị kinh tế cơ
sở của Nhà nước được tổ chức thành các xí nghiệp quốc doanh. Các xí nghiệp
quốc doanh được phân loại chủ yếu theo phương thức hoạt động. Hầu hết các
đơn vị sản xuất được gọi là nhà máy, xí nghiệp; các đơn vị hoạt động thương
nghiệp và dịch vụ được gọi là công ty, cửa hàng… Trong quá trình phát triển,
các xí nghiệp có sự liên kết với nhau tạo ra các liên hiệp xí nghiệp hay xí
nghiệp liên hiệp…, nhưng cũng như nhiều nước có nền kinh tế tập trung kế
hoạch hóacác xí nghiệp ở đây không được phân loại theo các nguyên tắc pháp
lý như trong nền kinh tế thị trường.
Quá trình nghiên cứu về loại hình tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam được đặt ra từ ngay sau Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VI, nhất là khi sửa đổi Hiến pháp 1980 để ban hành Hiến pháp
năm 1992. Sự khủng hoảng kinh tế-xã hội đã đặt khoa học kinh tế cũng như hệ
thống pháp luật Việt Nam phải xem xét lại nhiều vấn đề, trong đó có việc tổ
chức, hoạt động và quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh và chuẩn bị cho sự ra
đời của các loại hình tổ chức kinh doanh ngoài quốc doanh. Kết quả là Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành hàng loạt văn bản quan trọng như Quyết định số
217-HĐBT ngày 14/11/1987 quy định về các chính sách đổi mới kế hoạch hóa
và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với xí nghiệp quốc doanh; Nghị
định số 27-HĐBT ngày 09/03/1988 ban hành Bản quy định chính sách đối với

kinh tế cá thể, tư doanh sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp, xây dựng,
- 4 -
vận tải; Nghị định số 28-HĐBT ngày 09/03/1988 ban hành bản quy định chính
sách kinh tế đối với kinh tế tập thể sản xuất dịch vụ công nghiệp, xây dựng,
vận tải… Các quy định này tuy chưa định hình một cách rõ nét các hình thức
pháp lý của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường nhưng về phương diện lý
luận đã góp phần quan trọng cho sự ra đời của các loại hình doanh nghiệp mới
và trong thực tế đã làm cho nền kinh tế khởi sắc với khí thế vận hành theo cơ
chế thị trường.
Mặt khác, năm 1987 Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đã tạo ra các tiền đề thử nghiệm cho việc phát triển đa dạng các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam.
Từ cuộc sống thực tiễn cũng như học hỏi kinh nghiệm các nước, ý
tưởng về soạn thảo các đạo luật về doanh nghiệp đã được hình thành vào cuối
năm 1988 khi Nhà nước tổ chức dự thảo một đạo luật về kinh doanh. Đây là
một dự thảo rất sơ khai gồm 25 điều và mới chỉ đưa ra lấy ý kiến trong giới
nghiên cứu. Do có nhiều ý kiến khác nhau nên dự thảo này không được xem
xét thông qua. Từ đó, bắt đầu việc nghiên cứu soạn thảo Luật công ty và Luật
doanh nghiệp tư nhân. Hai dự luật này đã được ban hành vào năm 1990 quy
định về doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ), công ty cổ phần và
công ty trách nhiệm hữu hạn. Mặc dù Luật doanh nghiệp tư nhân chỉ có 28
điều và Luật công ty chỉ có 46 điều nhưng có thể nói đây là một bước tiến vô
cùng quan trọng của pháp luật Việt Nam trong việc tiếp cận với các nguyên tắc
pháp lý cơ bản về hình thức pháp lý của doanh nghiệp. Hai đạo luật này tồn tại
đến năm 2000 khi Luật doanh nghiệp năm 1999 bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời
trong thời gian đó, Quốc hội cũng thông qua Luật doanh nghiệp nhà nước năm
1995 và Luật hợp tác xã năm 1996.
2. Các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
Về hình thức pháp lý, theo các quy định hiện hành thì ở Việt Nam đang
tồn tại một số loại chủ thể kinh doanh như sau:

- 5 -
Thứ nhất, đó là chủ thể kinh doanh một chủ. Theo đó, chủ thể này gồm
doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể. Doanh nghiệp tư nhân và hộ
kinh doanh cá thể không là pháp nhân và chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản
nợ.
Thứ hai, các công ty là doanh nghiệp và bao gồm công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn là pháp nhân và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng tài sản của
công ty. Doanh nghiệp theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là công ty
trách nhiệm hữu hạn. Công ty hợp danh không là pháp nhân và ít nhất một
thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty.
Thứ ba, đó là doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước là pháp
nhân, vì vậy chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng tài sản của doanh nghiệp.
Thứ tư, hợp tác xã là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân và chịu trách
nhiệm hữu hạn bằng tài sản của hợp tác xã.
Như vậy, về cơ bản các loại chủ thể kinh doanh ở Việt Nam đã được tổ
chức theo các nguyên tắc cơ bản về hình thức pháp lý doanh nghiệp. Điều đó
rất có ý nghĩa trong việc khuyến khích đầu tư, nhất là trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế.
II. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG
LUẬT DOANH NGHIỆP VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC QUẢN
LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP
1. Một số quy định chung về Công ty cổ phần trong Luật doanh
nghiệp
Theo quy định tại Điều 51 của Luật doanh nghiệp, công ty cổ phần là
doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- 6 -
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại Khoản 3, Điều 55 và Khoản 1, Điều
58 của Luật này;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa.
Liên quan đến các loại cổ phần trong công ty cổ phần, Điều 52 Luật
doanh nghiệp quy định có hai loại cổ phần chính, đó là cổ phần phổ thông và
cổ phần ưu đãi. Trong cổ phần ưu đãi có các loại cổ phần như cổ phần ưu đãi
biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi
khác do Điều lệ công ty quy định. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai cũng có thể
sở hữu cổ phần ưu đãi mà tùy thuộc vào các quy định cụ thể trong Điều lệ công
ty hay do Đại hội cổ đông quyết định hay do Chính phủ ủy quyền. Theo đó,
người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông và người sở hữu cổ
phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi.
Về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần, Luật doanh nghiệp quy định rõ
tại Điều 69 rằng: Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần trên mười một
cổ đông phải có Ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ
quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông có quyền:
(i) quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng
loại; quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần, (ii) bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát; (iii)
xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát gây thiệt
- 7 -
hại cho công ty và cổ đông của công ty; (iv) thông qua báo cáo tài chính hàng
năm; (v) quyết định tổ chức lại và giải thể công ty…
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh
công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công
ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng

quản trị có những quyền sau đây: (i) quyết định chiến lược phát triển của công
ty; (ii) kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của
từng loại; (iii) quyết định phương án đầu tư; (iv) bổ nhiễm, miễn nhiệm, cách
chức Giám đốc (Tổng giám đốc) và cán bộ quản lý quan trọng khác của công
ty, quyết định mức lương và lợi ích khác của các cán bộ quản lý đó; (v) quyết
định mua lại không quá 10% số cổ phần đã bán của từng loại; (vi) kiến nghị
việc tổ chức lại hay giải thể công ty; (vii) kiến nghị mức cổ tức được trả, quyết
định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý các khoản lỗ phát sinh trong quá
trình kinh doanh…
Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các
quyền và nhiệm vụ được giao, chẳng hạn như: (i) quyết định tất cả các vấn đề
liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty; (ii) tổ chức thực hiện các
quyết định của Hội đồng quản trị; (iii) kiến nghị phương án bố trí cơ cấu tổ
chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; (iv) bổ nhiễm, miễn nhiệm, cách chức
các chức danh quản lý, trừ các chức danh do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức…
Công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát từ ba
đến năm thành viên, trong đó ít nhất phải có một thành viên có chuyên môn về
kế toán. Ban kiểm soát bầu một thành viên làm Trưởng ban và Trưởng ban
phải là cổ đông. Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ như sau: (i) kiểm tra
tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong đó
ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính; (ii) thẩm định báo cáo tài chính hàng
- 8 -
năm của công ty, kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành
hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội
đồng cổ đông, theo yêu cầu của cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại Khoản 2,
Điều 53 của Luật này; (iii) thường xuyên thông báo với Hội đồng quản trị về
kết quả hoạt động; tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình các
báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông; (iv) kiến nghị biện

pháp bổ sung, sửa đổi, cải tiến cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh của công ty…
2. Các quy định về tổ chức quản lý Công ty cổ phần trong Luật
doanh nghiệp
Về lí luận, mức độ ràng buộc của pháp luật đối với việc tổ chức quản lí
công ty có sự khác nhau giữa các loại hình công ty. Đối với công ty cổ phần,
do những đặc điểm phức tạp về cấu trúc vốn và cơ cấu cổ đông, cơ chế tổ chức
quản lí thường được qui định chặt chẽ hơn so với các loại hình công ty khác.
Với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung, Luật doanh nghiệp đã qui định đầy
đủ và phù hợp hơn so với Luật công ty năm 1990 về vấn đề tổ chức quản lí
công ty cổ phần, thể hiện ở một số nội dung pháp lí cơ bản dưới đây.
a. Về cơ cấu bộ máy tổ chức quản lí Công ty cổ phần
Theo Luật doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức quản lí công ty cổ phần được
thiết kế theo hai mô hình khác nhau tùy thuộc vào số lượng cổ đông của công
ty (Luật công ty 1990 qui định mô hình tổ chức quản lí thống nhất cho tất cả
các công ty cổ phần). Đối với những công ty cổ phần có trên 11 cổ đông, cơ
cấu tổ chức quản lí bắt buộc phải có đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị,
giám đốc hoặc tổng giám đốc (sau đây gọi chung là giám đốc) và ban kiểm
soát. Đây là mô hình tổ chức quản lí truyền thống và điển hình của công ty cổ
phần. Với mô hình này việc tổ chức quản lí công ty có sự phân công, phân
nhiệm và chế ngự lẫn nhau giữa các cơ quan quản lí , điều hành và kiểm soát
công ty.
- 9 -
Về lí thuyết đây là bộ máy tổ chức quản lí phù hợp và hiệu quả trong
trường hợp công ty cổ phần mang tính “đại chúng” tức có sự tham gia của
đông đảo các cổ đông. Trong những trường hợp khác, bộ máy này có thể sẽ
cồng kềnh, khiên cưỡng. Có lẽ xuất phát từ cách nhìn nhận đó mà Luật doanh
nghiệp qui định đối với những công ty cổ phần từ 11 cổ đông trở xuống được
tổ chức quản lí theo mô hình có đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và
giám đốc.

Với mô hình này, công ty cổ phần không nhất thiết phải có ban kiểm
soát độc lập để thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động của công ty.
Tất nhiên sẽ hoàn toàn hợp pháp nếu nhũng công ty này thiết lập ban kiểm soát
trong bộ máy tổ chức quản lí của mình. Theo chúng tôi, cách qui định này của
Luật doanh nghiệp là hợp lí, phù hợp với thực tiễn tồn tại và hoạt động của các
công ty cổ phần ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề cần bàn thêm là trên thực tế, trong quá trình tồn tại, số
lượng cổ đông của công ty cổ phần có thể thay đổi rất linh hoạt. Việc chuyển
từ công ty cổ phần từ 11 cổ đông trở xuống sang công ty cổ phần có trên 11 cổ
đông và ngược lại là rất dễ dàng và nhanh chóng. Về nguyên tắc, khi công ty
kết nạp thêm cổ đông đến mức công ty có trên 11 cổ đông thì công ty phải
thành lập thêm ban kiểm soát (nếu trước đó công ty không có ban kiểm soát)
trong bộ máy tổ chức quản lí của mình. Trong khi đó, công việc tổ chức ban
kiểm soát cần phải có khoảng thời gian nhất định. Việc Luật doanh nghiệp
không ấn định cụ thể khoảng thời gian này là chưa bảo đảm tính chặt chẽ và
hợp lí.
b. Về thẩm quyền và thể thức hoạt động của các cơ quan trong
bộ máy tổ chức quản lí Công ty cổ phần
Là loại hình công ty đối vốn, có tư cách pháp nhân, công ty cổ phần
được tổ chức quản lí theo cơ chế có sự tách biệt khá rõ ràng giữa quyền sở hữu
và quyền quản lí công ty. Quyền quản lí công ty không dàn trải, phân bổ cho
- 10 -
các cổ đông mà được tập trung ở bộ máy quản lí có tính “chuyên nghiệp”. Các
cổ đông nắm quyền sở hữu công ty, có quyền bầu ra bộ máy quản lí công ty
nhưng bản thân mỗi cổ đông không phải là người quản lí công ty. Về phương
diện khoa học, quyền quản lí công ty có thể được chia thành ba nhóm cơ bản
sau:
- Quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sự tồn tại
của công ty.
- Quyền xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động kinh doanh và điều

hành hoạt động kinh doanh của công ty.
- Quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của công ty.
Theo Luật doanh nghiệp, các nhóm quyền quản lí công ty cổ phần được
phân chia cho các cơ quan khác nhau là đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản
trị, giám đốc, ban kuểm soát (nếu có). Sự phân chia thẩm quyền cụ thể được
xác định trong điều lệ công ty trên cơ sở qui định của pháp luật.
Về nguyên tắc, công ty cổ phần được tổ chức quản lí tập trung thông qua
cơ chế hội đồng. Theo đó, đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền
quyết định cao nhất trong công ty. Với vị trí của mình, đại hội đồng cổ đông có
quyền tự ấn định (trong điều lệ công ty) quyền hạn và thể thức hoạt động cho
mình cũng như cho các cơ quan khác trong bộ máy tổ chức quản lí công ty.
Tuy nhiên, như đã trình bày, quyền tự quyết định trong tổ chức quản lí
công ty phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật. Những ràng buộc của pháp luật về
nhiệm vụ, quyền hạn và thể thức hoạt động của các cơ quan trong bộ máy tổ
chức quản lí công ty chính là khuôn khổ đó. Những ràng buộc này có tính chất
là điều khoản thường lệ của điều lệ công ty. Nếu điều lệ công ty không qui
định thì mặc nhiên công ty phải tuân thủ qui định pháp luật. Mặt khác, nếu
điều lệ công ty có qui định cụ thể hóa cho phù hợp với mỗi công ty thì không
được trái với các qui định pháp luật. Đây là cơ sơ lí luận quan trọng để giải
thích và áp dụng các qui định trong Luật doanh nghiệp về quyền hạn, nhiệm
- 11 -
vụ, thể thức hoạt động của đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc,
ban kiểm soát trong bộ máy tổ chức quản lí công ty cổ phần (từ Điều 70 đến
Điều 94 Luật doanh nghiệp).
Luật doanh nghiệp đã thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong các qui định về
thẩm quyền và thể thức hoạt động của các cơ quan trong bộ máy tổ chức quản
lí công ty. Các qui định này có tính mềm dẻo để đảm bảo quyền tự chủ của
công ty đồng thời vẫn đảm bảo tính chặt chẽ để việc tổ chức vận hành công ty
không xâm hại tới quyền lợi của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
Việc bổ sung thêm và qui định rõ về thẩm quyền “bắt buộc” của đại hội đồng

cổ đông, hội đồng quản trị, giám đốc, ban kiểm soát đảm bảo sự phân nhiệm và
chế ngự cần thiết của các cơ quan này trong quản lí điều hành công ty. Với qui
định này, những thỏa thuận (ghi trong điều lệ công ty) dẫn đến phá vỡ sự phân
quyền cần thiết trong quản lí điều hành công ty đều không được chấp nhận.
Bên cạnh đó, những qui định về thể thức hoạt động của đại hội đồng cổ đông,
hội đồng quản trị (điều kiện, thể thức tiến hành họp, điều kiện để thông qua
quyết định…) với tính chất là những “ điều kiện tối thiểu” cần phải đáp ứng,
có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền tham gia quản lí điều hành
công ty của các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông thiểu số.
c. Về nghĩa vụ của người quản lí Công ty cổ phần
Nghĩa vụ của người quản lí là nội dung quan trọng trong tổ chức, quản lí
công ty cổ phần, là cơ sở để đánh giá và điều chỉnh hành vi ứng xử của người
quản lí công ty. Việc bổ sung qui định về nghĩa vụ của người quản lí công ty
cổ phần là một trong những điểm mới rất có ý nghĩa của Luật doanh nghiệp.
Luật công ty năm 1990 không qui định về vấn đề này.
Về mặt lí luận, mối quan hệ giữa người quản lí công ty và các cổ đông
có thể được xem như quan hệ ủy quyền. Người quản lí có địa vị của “ người
được ủy quyền” để thực hiện việc quản lí điều hành công ty. Với địa vị của
mình, người quản lí công ty có nghĩa vụ thực hiện việc quản lí điều hành công
- 12 -
ty trên nguyên tắc vì lợi ích công ty và cổ đông. Và như vậy, nghĩa vụ được đặt
ra cho người quản lí công ty trước hết là nghĩa vụ đối với công ty và cổ đông.
Tuy nhiên, với yêu cầu của pháp luật (và cũng là yêu cầu của toàn xã hội) thì
lợi ích của công ty và cổ đông sẽ không đươc chấp nhận nếu lợi ích đó đạt
được bằng cách gây thiệt đến lợi ích của chủ nợ. Vì vậy, người quản lí công ty
không chỉ có nghĩa vụ đối với công ty và cổ đông mà còn có nghĩa vụ đối với
các chủ nợ của công ty. Từ cơ sở lí luận này, pháp luật của hầu hết các nước
đều có những qui định về nghĩa vụ của người quản lí công ty nhằm bảo vệ lợi
ích của công ty, của cổ đông và của chủ nợ của công ty.
Luật doanh nghiệp qui định về nghĩa vụ của người quản lí công ty cổ

phần tại Điều 86. Theo qui định này, nghĩa vụ của người quản lí công ty cổ
phần có thể được chia thành hai nhóm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, nhóm nghĩa vụ đối với công ty và cổ đông. Nhóm nghĩa vụ
này có nội dung buộc người quản lí phải hành xử theo hướng có lợi nhất cho
lợi ích của công ty đồng thời ngăn cản việc người quản lí lạm quyền gây thiệt
hại cho công ty. Cụ thể, người quản lí công ty phải thực hiện các quyền và
nhiệm vụ được giao một cách trung thực, mẫn cán vì lợi ích của công ty và cổ
đông của công ty, không được lạm dụng điạ vị và quyền hạn, sử dụng tài sản
của công ty thu lợi riêng cho bản thân, cho người khác; không được tiết lộ bí
mật của công ty (trừ trường hợp được hội đồng quản trị chấp thuận).
Thứ hai, nhóm nghĩa vụ đối với chủ nợ. Nhóm nghĩa vụ của người quản
lí công ty cổ phần đối với chủ nợ được xác định khi công ty gặp khó khăn về
tài chính. Theo đó, khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn phải
trả thì người quản lí công ty phải thực hiện các nghĩa vụ nhằm duy trì ở mức
cao nhất khả năng thanh toán nợ của công ty, đảm bảo quyền lợi của các chủ
nợ. Một mặt, người quản lí phải thôngbáo tình hình tài chính cuả công ty cho
các chủ nợ đồng thời không được tăng tiền lương, trả tiền thưởng cho công
nhân viên của công ty, kể cả cho người quản lí. Nếu không thực hiện nghĩa vụ
- 13 -
này, dẫn đến thiệt hại cho chủ nợ thì người quản lí công ty phải chịu trách
nhiệm cá nhân về thiệt hại xảy ra. Mặt khác, người quản lí phải kiến nghị các
biện pháp nhằm khắc phục khó khăn về tài chính của công ty.
Có thể thấy, các qui định về nghĩa vụ của người quản lí công ty cổ phần
trong Luật doanh nghiệp chỉ dừng lại ở những nghĩa vụ cơ bản và ở mức độ
nguyên tắc chung. Trong trường hợp cần thiết, các cổ đông công ty có thể thõa
thuận và ấn định trong điều lệ các nghĩa vụ khác cho người quản lí công ty.
Tuy nhiên, việc định ra các nghĩa vụ cho người quản lí công ty là vấn đề
“nhạy cảm”, cần phải tính đến yêu cầu đảm bảo khả năng chủ động của người
quản lí. Nếu qui định nghĩa vụ cho người quản lí quá cụ thể, khắt khe theo
cách người quản lí phải làm gì và làm như thế nào thì có thể sẽ cản trở tính

năng động, sáng tạo của người quản lí và như vậy có thể ảnh hưởng không tốt
đến lợi ích của công ty. Thực tế trong kinh doanh là nhiều khi phải sẵn sàng
mạo hiểm, chấp nhận rủi ro để đạt được lợi nhuận cao hơn.
d. Về kiểm soát giao dịch tư lợi
Khắc phục thiếu sót của Luật công ty năm 1990, vấn đề kiểm soát giao
dịch tư lợi lần đầu tiên đã được đề cập trong Luật Doanh nghiệp. Để tiến hành
hoạt động, công ty cổ phần tất yếu phải thiết lập các giao dịch với các chủ thể
pháp luật khác nhau. Trong các giao dịch đó có thể có những giao dịch chứa
đựng khả năng “xung đột” về quyền lợi mà trong khoa học pháp lí thường gọi
là “giao dịch tư lợi”.
Ở những giao dịch này, quyền lợi của công ty, của cổ đông và của chủ
nợ của công ty có nguy cơ bị xâm hại do các chủ thể thiết lập giao dịch với
công ty là “người liên quan” của công ty. Những người liên quan này hoặc trực
tiếp có quyền quyết định thiết lập giao dịch hoặc có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc quyết định đó nên họ có khả năng trục lợi từ việc thực hiện các giao dịch
đã thiết lập nếu không có sự kiểm soát cần thiết. Vì lí do này, pháp luật các
nước đều có các qui định để kiểm soát giao dịch tư lợi trong công ty.
- 14 -
Các giao dịch tư lợi có thể được kiểm soát bằng một trong hai cách.
Cách thứ nhất mang tính cấm đoán, theo đó pháp luật qui định cấm những
người có liên quan của công ty thiết lập giao dịch với công ty đồng thời cấm
công ty giao dịch với những công ty khác mà ở đó người quản lí công ty có lợi
ích. Cách thứ hai cho phép thiết lập và thực hiện các giao dịch tư lợi nhưng
phải tuân thủ các qui định chặt chẽ hơn các giao dịch thông thường.
Về mặt khoa học, việc tiếp cận để xử lí các giao dịch tư lợi theo cách thứ
hai là hợp lí hơn. Cách kiểm soát này không chỉ đảm bảo lợi ích của công ty
khỏi bị xâm hại bởi các giao dịch tư lợi mà còn đảm bảo cho công ty khả năng
có được lợi ích từ giao dịch tư lợi. Hiển nhiên là những giao dịch tư lợi vẫn có
thể mang lại lợi ích cho công ty nếu chúng được thực hiện một cách vô tư,
khách quang và đúng pháp luật.

Vấn đề kiểm soát giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần được Luật
doanh nghiệp qui định với nội dung là kiểm soát một số quan hệ hợp đồng dân
sự và kinh tế. Theo đó, các hợp đồng có tính “tư lợi” vẫn được phép thiết lập
và thực hiện nhưng việc giao kết bị ràng buộc chặt chẽ. Cụ thể là các hợp đồng
kinh tế, dân sự của công ty với các thành viên hội đồng quản trị, giám đốc,
thành viên ban kiểm soát, cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần có quyền biểu
quyết và với người có liên quan của họ chỉ được kí kết khi được đại hội đồng
cổ đông hoặc hội đồng quản trị chấp thuận trước khi kí. Thẩm quyền xem xét,
chấp thuận những hợp đồng này của đaị hội đồng cổ đông và hội đồng quản trị
được phân định dựa trên giá trị của hội đồng. Những hợp đồng được kí kết
không tuân thủ qui định này sẽ bị coi là vô hiệu. Những người gây thiệt hại sẽ
phải bồi thường thiệt hại cho công ty và có thể phải chịu các hình thức trách
nhiệm khác theo qui định của pháp luật.
Trên đây là một số nội dung pháp lí cơ bản về vấn đề tổ chức quản lí
công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp. Các qui định về tổ chức quản lí công
ty cổ phần cùng với các nội dung khác trong Luật doanh nghiệp về công ty cổ
- 15 -
phần (về cấu trúc vốn, về quyền và nghĩa vụ của các cổ đông, về tổ chức lại
công ty…) cơ bản đã tạo được hành lang pháp lí cho công ty cổ phần tồn tại và
phát triển.

×