LỜI MỞ ĐẦU
Để tiến hành quá trình sản xuất, thì con người luôn luôn phải có mối
quan hệ với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất.
Nói cách khác quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người trong
hoạt động sản xuất. Trong đời sống xã hội của mình con người dù muốn
hay không cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để
trao đổi hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những quan hệ sản
xuất này mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản xuất do con người tạo ra
song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự
nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Quan hệ sản xuất là những mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm
ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất.
Trong đó quan hệ về tố chức và quản lý phải thích ứng với quan hệ
sở hữu và quan hệ phân phối. Trước đây khi đề cập đến mặt thứ 3 của quan
hệ sản xuất – quan hệ tổ chức quản lý chúng ta chỉ đề cập và nhấn mạnh
quan hệ quản lý trong khuôn khổ, phạm vi từng cơ sở kinh tế. Ngày nay
việc nghiên cứu quan hệ tổ chức quản lý dưới góc độ quan hệ sản xuất và
đặc biệt là quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa chính là những
nhận thức mới về vấn đề tổ chức quản lý trong xây dựng quan hệ sản xuất
mới ở Việt Nam.
Để làm rõ vấn đề này nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài “ Vấn đề tổ
chức quản lý và nhận thức mới về vấn đề tổ chức quản lý trong xây dựng
quan hệ sản xuất hiện nay “. Trong qúa trình làm bài nhóm chúng em
không thể tránh được sai sót vì vậy mong nhận dược sự phản hồi của cô
giáo và các bạn.
Nhóm 4 1
I. Quan niệm về vấn đề tổ chức quản lý
1. Khái niệm về quan hệtổ chức quản lý
Quan hệ tổ chức quản lý là mối quan hệ giữa người với người trong
sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức
quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách quy mô
tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể, đi ngược lại các quan
hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế xã hội.
1.1. Quản lí là gì?
Quản lí chính là sự tác động liên tục có tổ chức,có ý thức hướng mục
đích của chủ thể vào đối tượng nhằm đạt được hiệu quả tối ưu so với yêu
cầu đặt ra
+Quản lí xã hội là việc quản lí từng khía cạnh hay từng mặt của đời
sống xã hội,là việc quản lí các thiết chế xã hội cũng như xã hội nói chung
nhằm duy trì trạng thái năng động và vận hành hệ thống xã hội một cách
bình thường. “Quản lí xã hội là những tác động có ý thức của con người
vào xã hội nhằm sắp xếp và duy trì các phẩm chất các đặc thù của xã hội,
để đáp ứng sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động của đời sống xã hội”
+Quản lí nhà nước chính là quản lí xã hội với tư cách là một hệ
thống, khi đó xã hội chính là một quốc gia.Quản lí nhà nước được hiểu như
là quản lí hành chính cấp quốc gia.Quản lí hành chính là việc quản lí tuân
thủ trất tự thứ bậc của các vị trí xã hội mà tương ứng với nó là các quyền
lực hay quyền ra quyết định.
Như vậy, quản lí là một loại tác động có ý thức của con người ở
những dạng thức khác nhau.Trong hoạt động chung của con người cần phải
có một cơ quan quản lí điều hành.Một nhóm xã hội hay một tập thể cần
phải đảm bảo những nguyên tắc có tính tổ chức và tính thiết chế.
Nhóm 4 2
Các trường phái quản lý học đã đưa ra những định nghĩa về quản lý
như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc
gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức,
chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ
chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt
giúp con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của
nó không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm
ở sự logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi
trường bên ngoài nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản
lý doanh nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
1.2. Tổ chức là gì?
Tổ chức là việc sắp xếp một trật tự các vị trí xã hội theo chức năng
nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.
Là một nhóm người làm việc chung với nhau nhằm mục đích điều
hành hay quản lý một công việc nào đó.
Hầu hết mọi người đều không thấy tổ chức là gì, vì đó là một thứ vô
hình. Chúng ta chỉ đề cập đến nó khi chúng ta muốn tạo nên hay chính xác
hơn thành lập nên một tổ chức.
Tổ chức là một công cụ được sử dụng bởi con người để kết hợp các
hành động lại tạo ra một giá trị, hay đúng hơn là đạt được mục tiêu của tổ
chức. Đơn giản nhất là như một số người có chung một tôn giáo và mong
muốn truyền bá tôn giáo có thể thành lập một nhà thờ, nhưng người thích
giải trí và muốn tạo ra dịch vụ giải trí thì thành lập nên công ty giải trí như
Nhóm 4 3
Walt Disney, CBS, vân vân và vân vân. Thường thì một tổ chức tạo ra
thường để phục vụ cho một nhu cầu hay một mong muốn nào đó của con
người. IBM, Microsoft được thành lập ra là để tăng cường sự phát triển về
công nghệ thông tin; Wal-mart hay Sear có là vì mong muốn trao đổi hàng
hóa nhiều lần của con người.
Tổ chức: sử dụng một cách tối ưu các tài nguyên được yêu cầu để
thực hiện kế hoạch.
Tổ chức sản xuất là sự bố trí các công đoạn các khâu trong cả dây
chuyền nhằm thực hiện chu trình kinh doanh từ “đầu vào” đến “đầu ra”
"Tổ chức kinh tế" là những tổ chức được thành lập hoặc được thừa
nhận và chúng có chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh. Ví dụ như
các doanh nghiệp, hợp tác xã
“Tổ chức phi chính phủ” là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức, hiệp
hội, ủy văn hóa xã hội, ủy hội từ thiện, tập đoàn phi lợi nhuận hoặc các
pháp nhân khác mà theo pháp luật không thuộc khu vực Nhà nước và
không hoạt động vì lợi nhuận. Nghĩa là khoản lợi nhuận nếu có, không thể
phân chia theo kiểu chia lợi nhuận. Tổ chức này không bao gồm các nghiệp
đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận, hay nhà thờ hoặc
chùa.
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là
hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội
bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp
pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào
các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ
đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Nhóm 4 4
2. Mối quan hệ giữa con người với con người trong vấn đề tố chức
quản lý
Tổ chức,quản lí là một loại tác động có ý thức của con người ở
những dạng thức khác nhau.Người ta chia các hoạt động tổ chức,quản lí có
ý thức của con người,của một tập đoàn người dựa vào đối tượng của nó.Đối
tượng của quản lí chính là các quan hệ xã hội của con người.
Quan hệ giữa con người với con người
Sống trong cộng đồng xã hội, con người tất yếu có quan hệ với nhau,
trao đổi hoạt động với nhau nhất là trong sản xuất. Cũng là con người trong
tổ chức nhưng mỗi người giữ một vị trí khác nhau,người thì giữ vị trí quản
lí xã hội người thì giữ vị trí bị quản lí xã hội,cho nên mối quan hệ giữa vị
thế quản lí và vị thế bị quản lí tạo nên những khía cạnh đặc biệt quan trọng
trong mối quan hệ giữa con người với con người
Mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới
Ứng xử với những người dưới quyền (những người quản lý cấp dưới
và những người lao động) là một trong những yếu tố có tầm quan trọng
hàng đầu, đảm bảo cho hoạt động quản lý của người lãnh đạo doanh nghiệp
thành công. Bởi lẽ, hoạt động quản lý của người lãnh đạo là một nghệ thuật
– nghệ thuật thu phục con người, nghệ thuật ứng xử giữa con người với con
người. Ở đây nghệ thuật ứng xử là cơ sở, là nền tảng để người lãnh đạo thu
phục người khác.Trong giao tiếp, kênh thông tin từ dưới lên trên, tức là từ
phía những người thừa hành lên đến người lãnh đạo cũng quan trọng như
kênh thông tin từ trên xuống dưới (từ phía người lãnh đạo xuống những
người thực hiện). Vì qua đó, người lãnh đạo hiểu được tâm trạng, nguyện
vọng, thái độ và phản ứng của người dưới quyền. Tuy vậy, trong thực tế ở
nước ta hiện nay, không phải người lãnh đạo nào cũng quan tâm đến kênh
thông tin từ dưới lên trên, mà thuờng chỉ chú ý tới việc đưa ra chỉ thị, mệnh
lệnh và yêu cầu truyền đạt chúng từ cấp dưới.
Nhóm 4 5
Trong tổ chức quản lí những yêu cầu đặt ra đối với người cấp trên:
- Biết lắng nghe những người dưới quyền.
- Kiên nhẫn có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong ứng xử giữa người lãnh
đạo và cấp dưới.
- Lòng nhân ái và sự quan tâm đốivới mọi nguời cấp dưới
- Sử dụng lời khen với cấp dưới
- Phong cách làm việc của người lãnh đạo phải tốt,phải gương mẫu
- Thu phục được nhân viên dưới quyền.
- Tuyển chọn,bổ nhiệm công khai đúng người đúng chỗ
Yêu cầu đặt ra đối với người cấp dưới:
- Khéo léo tranh thủ sự giúp đỡ ủng hộ của xếp.
- Tạo mối quan hệ thật tốt với sếp và hãy chứng tỏ với sếp năng lực làm việc
của bạn.
Mối quan hệ đồng nghiệp (cá nhân –cá nhân)
Những người đồng nghiệp sẽ giúp đỡ nhau nhiều. Để có thể có được
mối quan hệ tốt đẹp với nhau họ, động viên, giúp đỡ nhau những lúc cần
thiết. Xây dựng và giữ mối quan hệ tốt đẹp với đồng nghiệp sẽ giúp cho cả
bạn và đồng nghiệp cùng tiến bộ trong công việc. Đồng nghiệp cũ cũng có
thể trở thành đầu mối liên lạc cho bạn trongcông việc sau này.
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
Giữa cá nhân và tập thể có quan hệ biện chứng, tức là vừa thống nhất
vừa đối lập với nhau:
- Sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân với tập thể. Bản chất đời sống loài
người là tính cộng đồng, mỗi cá nhân chỉ tồn tại và phát triển được trong
một cộng đồng nhất định.
- Sự đối lập biện chứng giữa cá nhân và tập thể. Do mỗi cá nhân là một cá
thể đơn nhất, có những đặc điểm riêng, có nhu cầu nên trong quan hệ với
tập thể, mỗi cá nhân một mặt không thể tách khỏi tập thể, chỉ tồn tại được
trong tập thể và mặt khác cũng luôn luôn có khuynh hướng muốn đứng đối
diện với tập thể, không chịu sự quy định, ràng buộc của tập thể.
Để tạo lập mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể cần tuân
theo những nguyên tắc sau đây:
Nhóm 4 6
- Kết hợp hài hòa cả lợi ích và địa vị xã hội của cá nhân và tập thể.
- Cá nhân tôn trọng tập thể.
- Tập thể luôn luôn quan tâm đến mỗi cá nhân.
Quan hệ giữa cá nhân với xã hội
Con người tồn tại qua những cá nhân người,mỗi cá nhân người là
một chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống đặc điểm cụ thể không lặp
lại,khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế tâm lí,trình độ…
Xã hội bao giờ cũng do cá nhân hợp thành.Những cá nhân này sống
và hoạt động trong những nhóm cộng đồng,tập đoàn xã hội khác nhau do
điều kiện lịch sử quy định.Trong mối quan hệ với giống loài,tức là trong
mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:
+Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài người.Không có con
người nói chung,loài người nói chung tồn tại cảm tính.
+Cá nhân là cá thể riêng lẽ, là phần tử tạo nên cộng đồng xã hội.Là
chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
+Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã
hội.Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là hiện tượng có
tính lịch sử.Mỗi thời kì lịch sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính
định hướng về thế giới quan,phương pháp luận cho hoạt động của con
người trong từng thời kì cụ thể.
Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động
nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là
quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các
quan hệ lợi ích sao cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành
viên vào các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên
trình độ cao hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi
ích cá nhân được thực hiện. Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà
còn là chủ thể của sự phát triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động
xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không
phải riêng rẽ mà với tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai
Nhóm 4 7
cấp, dân tộc, nhân dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân
hành động như chủ thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành phát triển trong
xã hội, trong tập thể. Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù
tuỳ thuộc vào các chế độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.
3. Vai trò của vấn đề tổ chức quản lý trong hoạt động kinh doanh
Tổ chức quản lý trong kinh doanh hay quản lý trong các tổ chức nhân
sự nói chung là hành động đưa các cá nhân con người trong tố chức làm
việc cùng nhau để thực hiện hoàn thành mục tiêu chung.
Quản lý là tác động có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý để phối hợp các nguồn lực nhằm thực
hiện mụctiêu của tổ chức trong điều kiện môi trường biến đổi.
Quản lý đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì và phát
triển tổchức ở mọi cấp độ, mọi loại hình. Với nội dung rộng lớn và đa dạng
của quản lý,để làm rõ vai trò của nó, cần tiếp cận ở hai cấp độ.
Tiếp cận vai trò của quản lý theo từng đặc trưng nổi bật của nó
A.Smith (Nhà kinh tế học Cổ điển Anh, thế kỉ XVIII) nhấn mạnh tới vai
tròcủa phân công lao động đối với hiệu quả của sản xuất. A. Smith cho
rằng: lao độngchung mang lại hiệu quả lớn hơn lao động cá thể là nhờ có
sự phân công lao độnghợp lí vì 3 lý do cơ bản: 1) Kỹ năng của người lao
động được nâng cao; 2) Tiếtkiệm được thời gian vì không phải chuyển từ
công việc này sang công việc khác;3) Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu
tư khoa học - kỹ thuật nhằm cải tiến côngcụ sản xuất.
C. Mác phát triển các tư tưởng của A.Smith và khẳng định lao động
tập thểđược tổ chức hợp lý bao giờ cũng mang lại hiệu quả lớn hơn lao
động cá thể điềuđó có được là nhờ ngoài việc phân công lao động hợp lý,
lao động tập thể còn tạora bầu không khí thi đua và từ đó kích thức tinh lực
của người lao động. C.Mác còn đặc biệt đánh giá cao vai trò của "ý chí điều
khiển" trong hoạtđộng chung và đồng thời coi tác nhân quản lý có vai trò
như là "nhạc trưởng" củadàn nhạc.V.I.Lênin luôn đề cao sức mạnh to lớn
Nhóm 4 8
của công tác tổ chức trong tiến trìnhcách mạng của giai cấp vô sản. Ở thời
kỳ non trẻ và khó khăn của cách mạng Nga,ông đã đưa ra một luận điểm
quan trọng: Hãy cho tôi một tổ chức của những ngườicộng sản, tôi sẽ làm
đảo lộn cả nước Nga. Và không phải ngẫu nhiên, trong quátrình lãnh đạo
công cuộc xây dựng trật tự xã hội mới, Lênin luôn kêu gọi và yêucầu các
nhà máy, công xưởng của Chính quyền Xô viết muốn đạt năng suất cao thì
phải học tập và áp dụng mô hình quản lý của Taylor.
Các chuyên gia Nhật Bản đưa ra học thuyết về "nhân tố thứ tư" để
khẳngđịnh vai trò đặc biệt quan trọng của quản lý. Quản lý được coi là
nhân tố thứ tư như là nhân tố nối kết 3 nhân tố trong các xã hội truyền
thống (Tư bản, ruộng đấtvà lao động) và đóng vai trò là nhân tố quyết định
sự phát triển của xã hội hiện đại.
Tiếp cận tổng thể về vai trò của tổ chức quản lý: tổ chức quản lý là
một hoạt động hay là một hình thức lao động đặc biệt. Nó lấy cáchoạt động
cụ thể làm đối tượng để tác động vào nhằm định hướng, thiết kế, duy trì,
phát triển, điều chỉnh và phối hợp các hoạt động đó thành một hợp lực để
hướngtới hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Chính vì vậy, xét về mặt tổng
thể hay xét nhưmột quy trình, quản lý có những vai trò sau:
Thứ nhất: Vai trò định hướng
Nhờ có hoạt động tổ chức quản lý với tư cách là ý chí điều khiển
một cộng đồngngười, một tổ chức người mà nó có thể hướng các hoạt động
của các thành viêntheo một véctơ chung. Vai trò định hướng của hoạt động
quản lý được biểu hiệnchủ yếu thông qua chức năng lập kế hoạch. Bản chất
của lập kế hoạch chính là xácđịnh mục tiêu, các phương án và nguồn lực
thực hiện mục tiêu. Việc xác định mụctiêu đúng đắn, phù hợp sẽ giúp cho
tổ chức vận hành, phát triển đúng hướng vàđồng thời ứng phó với sự bất
định của môi trường
Thứ hai: Vai trò thiết kế
Nhóm 4 9
Để thực hiện mục tiêu với các phương án và các nguồn lực đã được
xác địnhthì cần phải có "kịch bản". Chính vì vậy, thông qua chức năng tổ
chức mà các hoạtđộng quản lý sẽ thực hiện vai trò thiết kế của nó. Vai trò
thiết kế liên quan tới cácnội dung: Xây dựng cơ cấu tổ chức, xác định biên
chế, phân công công việc, giaoquyền và chuẩn bị các nguồn lực khác. Thực
hiện tốt những nội dung này là tiền đềvà điều kiện đặc biệt quan trọng đối
với hiệu quả của hoạt động quản lý.
Thứ ba: Vai trò duy trì và thúc đẩy
Vai trò duy trì và thúc đẩy được thể hiện qua chức năng lãnh đạo của
quytrình quản lý. Nhờ có hệ thống nguyên tắc quản lý (nội quy, quy chế)
mới có thể bắt buộcchủ thể quản lý và đối tượng quản lý hoạt động trong
giới hạn quyền lực và thẩm quyền của họ. Đây là nhân tố đặc biệt quan
trọng góp phần tạo nên kỷ luật, kỷcương tính ổn định, bền vững của một tổ
chức.Thông qua hệ thống chính sách về nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực
phù hợpvà phong cách quản lý hợp lý, hoạt động quản lý là tác nhân tạo ra
động cơ thúcđẩy từ đó phát huy cao nhất năng lực của người lao động và
tạo điều kiện cho họkhả năng sáng tạo cao nhất.
Thứ tư : Vai trò điều chỉnh
Thông qua chức năng kiểm tra mà hoạt động quản lý thể hiện vai trò
điềuchỉnh của nó. Với hệ thống các tiêu chí được xây dựng để đo lường các
kết quảhoạt động của tổ chức để đưa ra các giải pháp nhằm điều chỉnh
những sai lệch, sửachữa những sai lầm, từ đó đảm bảo cho tổ chức phát
triển theo đúng mục tiêu đã đềra.
Thứ năm: Vai trò phối hợp
Thông qua các chức năng lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm ta
mà hoạtđộng quản lý biểu hiện vai trò phối hợp của nó. Bản chất của hoạt
động quản lý lànhằm phối hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, tin
lực ) để có được sứcmạnh tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu chung mà sự
nỗ lực của một cá nhânkhông thể làm được.
Nhóm 4 10
II. Nhận thức mới về vấn đề tổ chức quản lý trong quan hệ
sản xuất mới
Đất nước ta đang trên đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản mà giai
đoạn đầu là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Con đường xây dựng xã
hội mới tất yếu sẽ xuất hiện mối quan hệ sản xuất mới vì vậy mà việc nhìn
nhận và nhận thức đúng đắn về mối quan hệ này trong quan hệ quản lý kinh
tế cụ thể là trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề rất bức thiết
và vô cùng quan trọng.
1. Quan hệ tổ chức quản lý trong hoạt động kinh doanh
hiện nay
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ tố chức quản lý trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vì quan hệ quản lý được hoàn thiện sẽ
phát huy được vai trò của quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối.Mặt khác tổ
chức và quản lý vĩ mô của nhà nước được hoàn thiện sẽ phát huy và nâng
cao vai trò đinh hướng cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vận động theo quy luật thị trường đòi hỏi doanh nghiệp
phải có một bộ máy quản lý có trình độ cao, gọn nhẹ, linh hoạt để thực hiện
quả trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng thời mọi
hoạt động kinh doanh phải được tổ chức một cách khoa học và có hiệu quả.
Hoạt động tổ chức đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm vững rất nhiều
kiến thức về lý luận cũng như về khả năng làm việc của mỗi người, còn
hoạt động quản lý có nội dung rất phong phú, đa dạng, khó xác định. Hoạt
động tổ chức và quản lý đều rất phức tạp và hiệu quả hoạt động lại không
thể hiện dưới dạng vật chất nhưng nó luôn gắn liền với hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu bộ máy tổ chức, quản lý tốt thì
doanh nghiệp hoạt động mới hiệu quả.
Nhóm 4 11
Mục tiêu của các doanh nghiệp luôn luôn là lợi nhuận. Để đạt hiệu
quả cao trong sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà quản
lý. Bởi vậy, không chỉ có tổ chức tốt mà các nhà quản lý còn phải thường
xuyên điều tra, phân tích, tính toán, cân nhắc, soạn thảo và lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh tối ưu. Mặt khác, các chủ doanh nghiệp
cũng phải thường xuyên đánh giá kết quả công việc, rút ra những thiếu sót,
những nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả, vạch ra những tiềm năng chưa
được sử dụng và đề ra những biện pháp khắc phục, xử lý để sử dụng kịp
thời, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, đòi hỏi các doanh
nghiệp phải biết cách kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Để làm được như
vậy trong điều kiện cơ sở vật chất, nguồn vốn, lao động còn hạn chế, các chủ
doanh nghiệp cần xác định rõ phương hướng đầu tư, cách đầu tư, biện pháp sử
dụng, đặc biệt là tổ chức quản lý có hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
2. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của quan hệ tổ chức quản lý
trong xây dựng quan hệ sản xuất mới.
2.1. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước cả về
kinh tế và xã hội
- Nhà nước phải thực hành quyết định quản lý theo đúng luật pháp. Điểm then
chốt và yếu nhất của quan hệ quản lý nhà nước ở nước ta là chưa thực hiện
quản lý theo pháp quyền. Xây dựng nhà nước pháp quyền và thực hiện quản lý
nhà nước theo thể chế pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự ra đời của
kinh tế thị trường thì cũng tất yếu sẽ xuất hiện nhà nước pháp quyền.
- Xây dựng cơ chế quản lý tổ chức nhà nước có hiệu quả phục vụ tốt cho việc
phát triển kinh doanh của các chủ thể thiocj mọi thành phần kinh tế.
Cơ chế thị trường và công tác kế hoạch hoá không mâu thuẫn với
nhau mà còn gắn bó chặt chẽ với nhau, cơ chế thị trường là nhân tố chủ yếu
điều tiết quan hệ kinh tế vi mô của các doanh nghiệp, còn các quan hệ kinh
tế vĩ mô và các quan hệ cân đối chủ yếu của nền kinh tế được điều chỉnh
Nhóm 4 12
bởi sự kết hợp giữa công tác kế hoạch hoá với cơ chế thị trường, trong đó
công tác kế hoạch hoá giữ vai trò quan trọng.
Ngoài việc phục vụ tốt cho phát triển sản xuất kinh doanh của các
chủ thể, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, quản lý tổ chức
nhà nước phải hướng vào việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường và mặt trái cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu.
Thông qua cơ chế và các chính sách biện pháp tổ chức quản lý vĩ mô
thích hợp:
- Nhà nước hạn chế tối đa tính tự phát trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các chủ thể kinh tế.
- Hạn chế chênh lệch quá mức về thu nhập dẫn tới phân cực giàu nghèo trong
dân cư.
- Mỗi thành viên của bộ máy tổ chức quản lý nhà nước pahir trở thành tấm
gương vì phúc lợi xã hội cộng đồng và bảo vệ lợi ích cộng đồng.
- Phải có chính sách ván bộ đúng đắn, đặc biệt trong khâu tuyển dụng và
giám sát hoạt động của đội ngủ các bộ tốt chức quản lý nhà nước từ trung
ương đến cơ sở.
2.2. Nâng cao năng lực quản lý của các chủ thể kinh tế thuộc các
hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế.
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước bằng
việc thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
+ Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế, kiểm
kê và kiểm soát mọi hoạt động kinh tế xã hội bằng việc đổi mới công tác kế
hoạch hóa, tăng cường thông tin kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, ứng
dụng rộng rãi các thành tựu KHCN, nâng cao chất lượng công tác xây dựng
chiến lược, quy hoạch và phát triển kinh tế xã hội đảm bảo phù hợp với
định hướng được nền kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều
biến động. Tăng cường vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ hạ tầng để
tạo ra môi trường ổn định thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt,
chuyển cơ cấu vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo
Nhóm 4 13
cơ chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất
thoát vốn, tăng cường quản lý nợ nhà nước, hoàn thiện cơ chế quản lý nợ
nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới.
+ Tích cực chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc quyền, đặc lợi
và coi đây là nhiệm vụ sống còn, nó phải được thực hiện nhiều biện pháp tổ
chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo dục, nhưng trước hết phải đổi mới
và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phải kiên quyết loại trừ các phân tử
thoái hóa, biến chất khỏi bộ máy nhà nước.
- Nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi
với tiế bộ công bằng xã hội: thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và môi trường cạnh tranh bình đẳng
cho mọi chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Chú trọng nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ các nhà kinh doanh thông
qua việc tăng cường đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ quản lý và nâng cao ý
thức chấp hành luật pháp của các nhà kinh doanh.
- Đổi mới cơ bản chế độ tuyển dụng và đãi ngộ đối với bộ phận các nhà kinh
doanh hoạt động trong các thành phần kinh tế nhà nước, tăng cường tính
nghiêm minh trong công tác thực thi luật pháp để thúc đẩy các nhà kinh
doanh thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật và giữ gìn đạo đức trong
kinh doanh.
- Thiết lập cơ chế quản lý mới và phát huy có hiệu quả nhằm khai thác tốt
nhất năng lực của các cơ sở sản xuất kinh doanh, cũng cố trật tự kỉ cương
trong quản lý kinh tế.
KẾT LUẬN
Hoạt động tổ chức quản lí xã hội phản ánh một cách khách quan hình
thái kinh tế xã hội.Theo quan điểm của C.Mác hình thái kinh tế xã hội nào
thì việc tổ chức xã hội cũng tuân theo hinh thái kinh tế xã hội đó, và do vậy
có một loại hoạt động đặc thù. Điều này thấy rõ ở trong các xã hội khác
nhau sẽ có những kiểu tổ chức xã hội khác nhau.Trong xã hội nguyên
Nhóm 4 14
thủy,công cụ sản xuất còn thô sơ, những người mguyên thủy phải tập hợp
thành bầy để săn bắt kiếm ăn.Nhu cầu quản lí sự điều hành sự phối hợp
hành động để đạt được hiệu quả đã xuất hiện và còn thô sơ.Đến thời kì
chiếm hữu nô lệ,công cụ sản xuất đã được cải tiến dần,người ta dùng
những công cụ kim khí thay những công cụ tự nhiên như cối đá, chày đá,
rìu đá nên việc tổ chức xã hội và quản lí xã hội cũng phải thay đổi và phát
triển.Đến xã hội phong kiến,xã hội tư bản, xã hội chủ nghĩa thì các hình
thức tổ chức càng biến đổi và phát triển mạnh.Như vậy hoạt động tổ chức
quản lí là sự phản ánh khách quan về tổ chức xã hội,mà tổ chức xã hội là
một bộ xương hay bộ khung của hoạt động xã hội.
Hoạt động quản lí chính là một loại hoạt động tổ chức xã hội,chỉ có
trong tổ chức con người mới nhận dạng rõ vị trí và vai trò của mình, cũng
chỉ trong đó con người mới được bảo đảm sự thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản với tư cách là một con người xã hội.Do nhu cầu khách quan của xã hội
đòi hỏi cần có hoạt động quản lí cho nên hoạt động quản lí là hình thức tồn
tại đặc thù của đời sống xã hội loài người.Nó đảm bảo cho con người
không những thỏa mãn những nhu cầu hiện tại mà còn thỏa mãn những nhu
cầu trong tương lai và nó đảm bảo cho con người độ an toàn về mặt sinh
học lẫn mặt xã hội.Do đó, tổ chức quản lí xã hội mang một ý nghĩa thực
tiễn và càng trở nên bức thiết trong gian đoạn xây dựng xã hội chủ nghĩa
cộng sản ở nước ta hiện nay.
Nhóm 4 15
I HC HU
TRNG I HC KINH T
KHOA K TON TI CHNH
BAỉI THUYET TRèNH
B MễN: XY DNG QUAN H SN XUT MI VIT NAM
ẹe taứi:
VN T CHC QUN Lí
V NHN THC MI V VN
T CHC QUN Lí TRONG XY DNG
QUAN H SN XUT MI VIT NAM
Giỏo viờn hng dn TRN TH HNG
Nhúm thc hin NHểM 4
Lp K44
Khoa KINH T CHNH TR
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
DANH SÁCH NHÓM 4
1. Hồ Huy Lục K44KTCT
2. Lê Văn Hải K44KTCT
3. Trần Thị Ngọc Vân K44KTCT
4. Chu Thị Huyền K44KTCT
5. Lê Thị Thảo K44KTCT
MỤC LỤC