Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.69 KB, 18 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên phương diện lịch sử có thể nói sự hình thành và phát triển của
pháp luật khiếu nại, tố cáo đã có từ rất sớm, ngay sau khi nước Việt Nam dân
chủ ra đời.
Ban thanh tra đặc biệt được thành lập, có chức năng giám sát hoạt động
của chính quyền các cấp và có toàn quyền nhận các đơn khiếu nại của công
dân. Đến năm 1981 Nhà nước ban hành pháp lệnh quy định việc xét giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đánh dấu bước phát triển quan trọng
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Từ đó đến nay các văn bản pháp luật về
Khiếu nại, tố cáo đã thường xuyên được sửa đổi bổ sung; Pháp lệnh Khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991, luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và hiện
nay được sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành nhằm tiếp tục nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết Khiếu nại, tố cáo.
Sự phát triển mạnh mẽ và thường xuyên các văn bản về pháp luật
Khiếu nại, tố cáo nằm trong bối cảnh chung của quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong đó người dân ngày càng ý
thức đầy đủ hơn quyền của mình, và trách nhiệm đôí với Nhà nước và xã hội.
Từ trước đến nay Khiếu nại, tố cáo là hai vấn đề luôn gắn bó chặt chẽ
với nhau, thẩm chí đôi lúc xem như là một lính vực công tác (khiếu tố hay
giải quyết khiếu tố) và chính vì vậy nó luôn được quy định như một chế định
của pháp luật (trong hiến pháp cũng như trong các đạo luận)
Từ nhận thức chung như vậy cho nên cách thức xử lý khiếu nại, tố cáo
có những tương tự như nhau, quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo,
phương thức tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, cách xác định thẩm
quyền và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Cho đến Hiến pháp năm 1992. Sau quá trình nghiên cứu và sửa đổi
Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991. Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 đã thể hiện quá rõ những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và
thẩm quyền giải quyết, cũng từ đó cho thấy khiếu nại và tố cáo có những nét
khác biệt về mục đích, về chủ thể, đối tượng trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý,


trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, về bản chất khiếu nại, tố cáo và
nguyện vọng của nhân dân đến phản ánh mối quan hệ giữa công dân và Nhà
nước. Việc giải quyết tốt cả ba vấn đề luôn luôn là những yêu cầu mà Nhà
nước ta hướng tới, tuy nhiên đó là việc làm không hề đơn giản và trước hết
phải tách bạch các vấn đề, tìm ra cách thức xử lý hữu hiệu cho từng vấn đề,
đồng thời phải thể chế hoá bằng các quy định của pháp luật, hơn thế nữa phải
nghiên cứu tìm ra một cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có chức năng giải
quyết đối với khiếu nại, tố cáo của. Có như vậy các vấn đề mới được giải
quyết một cách triệt để, qua đó góp phần phát huy quyền dân chủ của nhân
dân, xây dựng hoàn thiện Nhà nước Việt Nam pháp quyền XHCN, Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
1
Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Khiếu nại, tố cáo là một trong các
quyền cơ bản của công dân, quyền này được sử dụng không hạn chế ở bất cứ
lĩnh vực nào. Luật Khiếu nại, tố cáo đã cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân thành những chế định được thực hiện trên thực tế, và việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo có các nội dung
chính đó là:
- Tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
- Trình tự thủ tục thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý
tố cáo.
2
B. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO.
1. Vấn đề tiếp dân
Tiếp dân là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, nhiệm vụ công tác
thường xuyên của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị. Đây là hình thức
biểu hiện trực tiếp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của mối quan hệ giữa
công dân với Nhà nước, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Việc tiếp công dân là nhằm các mục đích sau:

Tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh, góp ý những vấn đề liên
quan đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, công tác quản lý của cơ quan, đơn vị. Đây là sự thể hiện sinh động bản
chất dân chủ. Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta. Mục tiêu
này cũng là một bước cụ thể hoá quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội,
tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị
với cơ quan Nhà nước của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Thêm nữa,
điều này còn lại sự thực hiện hoá phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” trong công tác quản lý và thực tiễn cuộc sống.
Tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo của công dân. Điều này là nhằm đảm
bảo thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp
quy định. Nó cũng cho thấy mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời giữa
công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Biểu hiện là việc tiếp nhận
các khiếu nại, tố cáo thông qua việc tiếp công dân sẽ giúp cho công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách có
trật tự và hiệu quả.
Hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Nội dung này
thể hiện rõ yêu cầu mang tính bắt buộc đặt ra đối với các cơ quan Nhà nước,
cán bộ, công chức Nhà nước trong quan hệ với công dân đó là phải luôn luôn
tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân
và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đồng thời, điều này cũng là để khắc phục
những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân, qua đó tuyên truyền giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật nói chung, pháp
luật khiếu nại, tố cáo nói riêng đối với quần chúng nhân dân.
Xuất phát từ bản chất và mục tiêu nêu trên, có thể nói công tác tiếp dân có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, công tác quản lý Nhà nước và xây dựng bộ máy Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, ý nghĩa đó được thể hiện qua các điểm cơ bản sau:
Làm tốt công tác tiếp dân sẽ góp phần phát huy bản chất Nhà nước của
dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta, củng cố thêm mối quan hệ chặt chẽ,

bền vững giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Thật vậy, việc tiếp công dân
là sự thể hiện trách nhiệm của cơ quan Nhà nước đối với nhân dân. Việc làm
3
tròn trách nhiệm này là minh chứng cụ thể và sống động cho tinh thần tôn
trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân của cơ quan Nhà nước. Theo lẽ tự
nhiên, việc làm này sẽ tác động tích cực đến tình cảm, thái độ của nhân dân,
bồi đắp niềm tin của nhân dân vào các cơ quan Nhà nước. Một mặt khác,
chính thông qua công tác tiếp dân sẽ giúp cho Đảng và Nhà nước luôn gần gũi
với nhân dân, lắng nghe được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân,
giải đáp kịp thời những vướng mắc trong nhân dân. Cũng thông qua công tác
này, giúp Đảng và Nhà nước thường xuyên thu nhận được những thông tin
phản hồi từ thực tế, nắm bắt được những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống để từ
đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân.
Thực hiện có kết quả công tác tiếp dân cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, quyền giám sát của
nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước cũng
như góp phần khơi dậy tiềm năng, tranh thủ trí tuệ của nhân dân, huy động
được sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào quản lý Nhà nước và quản lý xã
hội. Bên cạnh đó, công tác tiếp dân cũng chính là một đảm bảo về mặt thiết
chế cho việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, quyền giám sát
của nhân dân đối với cán bộ, công chức và bộ máy Nhà nước. Từ đó, giúp cho
các cơ quan Nhà nước kiểm tra, đánh giá, phát hiện xử lý kịp thời các khiếm
khuyết, hạn chế, các cán bộ, công chức thoái hoá, biến chất, tham nhũng, tiêu
cực… góp phần xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Công tác tiếp dân còn tạo ra những xung lực thúc đẩy việc hoàn thiện
công tác quản lý Nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị. Thông qua tiếp dân, giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước,
các cơ quan, tổ chức, đơn vị có điều kiện kiểm tra, đánh giá lại cơ chế, chính

sách, quy định, công tác chỉ đạo, điều hành của mình để từ đó có những bổ
khuyết thích hợp. Không những thế, từ công tác tiếp dân còn giúp các cơ quan
quản lý Nhà nước, các cơ quan, tổ chức, đơn vị thấy rõ được tình hình thực
hiện chính sách, pháp luật, phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm,
nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị.
Công tác tiếp dân có mối liên hệ chặt chẽ với công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Do đó, làm tốt công tác tiếp dân cũng đồng nghĩa với việc nâng
cao chất lượng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Biểu hiện đầu tiên dễ
thấy nhất là, nó giúp khắc phục, hạn chế một bước tình trạng khiếu nại, tố cáo
tràn lan, vượt cấp cũng như nhiều bất cập khác của công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Thêm nữa, ở khía cạnh cụ thể, nếu nhìn nhận tiếp công dân là
khâu đầu tiên, giai đoạn khởi đầu của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo,
thì có thể nói, công tác này cũng phục vụ rất quan trọng và thiết thực cho việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Kinh nghiệm thực tế cũng đã chỉ rõ,
4
thực hiện có hiệu quả việc tiếp công dân, làm tốt nghiệp vụ tiếp dân là tiền đề
thuận lợi cho việc thụ lý, thẩm tra, xác minh, giải quyết nhanh chóng và có
chất lượng các khiếu nại, tố cáo của công dân. Nói tóm lại, công tác tiếp dân
không chỉ phục vụ trực tiếp cho giải quyết khiếu nại, tố cáo mà còn góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân.
2. Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Hàng năm, các cơ quan, tổ chức nhận được rất nhiều đơn thư khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh… từ nhiều nguồn khác nhau: có thể do công dân
trực tiếp gửi đến, có thể do các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng giám
sát như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ
quan báo chí… Trong số đó, có những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan
tiếp nhận, cũng có những vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức

khác. Tính chất, mức độ của vụ việc được phản ánh trong nội dung các đơn
thư cũng khác nhau. Có những vụ việc đơn giản, những yêu cầu, kiến nghị
thông thường nhưng có những vụ việc nghiêm trọng, cấp thiết, liên quan đến
việc thực hiện những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Có
những vụ việc liên quan đến hoạt động của cơ quan Nhà nước, nhưng có
những vụ việc lại đụng chạm đến những vấn đề thuộc về nhân thân của một
công dân hay của một cán bộ công chức. Có những đơn thư được trình bày rõ
ràng, đầy đủ nhưng cũng có những đơn thư không rõ họ tên, địa chỉ, không rõ
nội dung, không rõ yêu cầu. Có những đơn thư phản ánh một vụ việc mới
phát sinh, lại có những đơn thư được gửi đến nhiều lần. Nhiều đơn thư do một
người đứng tên, lại cũng có những đơn do nhiều người cùng ký. Xét về nội
dung, có một phần lớn là do khiếu nại, một phần là đơn tố cáo nhưng cũng có
những đơn thư vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo, thậm chí cả
nội dung mang tính kiến nghị, phản ánh. Xét về mặt hình thức, có những đơn
được trình bày trang trọng, nhưng đồng thời cũng có những đơn thư được
trình bày đơn giản, thậm chí đến mức cẩu thả…
Dù trong trường hợp nào, cơ quan nhận được đơn cũng phải có trách
nhiệm phân loại, xem xét và xử lý.
Về mặt lý luận, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất
cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân
dân có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, có quyền tham
gia vào hoạt động quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội. Hơn nữa, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của
công dân đã được Hiến pháp nước ta ghi nhận. Do đó, phân loại xử lý các đơn
thư là trách nhiệm đương nhiên của các cơ quan Nhà nước. Nó thể hiện bản
chất của Nhà nước, là một trong những biện pháp bảo đảm quyền dân chủ của
5
nhân dân. Thông qua công tác xử lý đơn thư, các cơ quan Nhà nước tiếp nhận
được lượng thông tin phản hồi từ đối tượng bị quản lý để từ đó có những biện

pháp điều chỉnh thích hợp trong hoạt động quản lý.
Về mặt thực tiễn, xử lý đơn thư là một khâu quan trọng, có ý nghĩa to
lớn trong quá trình xem xét, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo. Xử lý
kịp thời, chính xác và khoa học các đơn thư khiếu nại, tố cáo sẽ là tiền đề cho
các bước tiếp theo của quá trình giải quyết. Trước hết, xử lý đơn thư có ý
nghĩa như một bước xác định thẩm quyền, làm cơ sở cho việc thụ lý để giải
quyết. Đồng thời, xử lý đơn thư cũng có ý nghĩa đối với công tác quản lý Nhà
nước nói chung và quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
nói riêng. Thông qua việc xử lý đơn thư, các cơ quan Nhà nước có thể nắm
được, đánh giá được tình hình khiếu nại, tố cáo (như số lượng vụ việc phát
sinh, những lĩnh vực phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo…). Qua xử lý đơn thư
cũng có thể cung cấp cho người lãnh đạo, người quản lý những thông tin
mang tính tổng hợp, thậm chí mang tính dự báo về tình hình xã hội của một
vùng miền, một địa phương. Mặt khác, qua công tác xử lý đơn thư cũng có
thể đánh giá được hiệu quả của công tác giải quyết các khiếu nại, tố cáo từ
việc tổng hợp, xử lý những thông tin về đơn thư vượt cấp, về số lượng các vụ
việc đông người, gay gắt hoặc các vụ việc khiếu kiện kéo dài.
Như vậy, xử lý đơn thư là một công việc quan trọng và có nhiều ý nghĩa.
Do đó, về nguyên tắc, việc tổ chức tiếp nhận và xử lý đơn thư phải được tổ chức
một cách khoa học, chặt chẽ; quá trình xem xét, xử lý đơn thư phải đảm bảo tính
kịp thời, chính xác và phải theo đúng các quy định của pháp luật.
Do số lượng đơn thư tiếp nhận được ở các cơ quan, đơn vị có sự dao
động khác nhau cho nên mô hình, cách thức tổ chức việc tiếp nhận đơn thư
cũng khác nhau. Quy mô tổ chức, số lượng cán bộ chuyên trách hay bán
chuyên trách cũng như mối quan hệ phân công, phối hợp được xác định tuỳ
theo yêu cầu đặt ra đối với công tác này ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi cơ quan,
đơn vị. Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm cho mọi đơn thư dù là khiếu nại hay tố
cáo, của công dân hay của tổ chức, do người khiếu nại, tố cáo trực tiếp gửi
đến hay do cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng giám sát chuyển sang đều
phải được tiếp nhận một cách chu đáo, chặt chẽ, có sự theo dõi, kiểm soát

theo một quy trình nhất định.
Việc xử lý đơn thư phải dựa trên các quy định của pháp luật và phải
được tiến hành theo một quy trình khoa học, chặt chẽ. Việc xử lý đơn thư
được tiến hành theo các bước sau:
3. Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Bước 1: Phân loại và xử lý sơ bộ.
Đây là bước nghiên cứu, xem xét nhanh để xác định bước đầu các đơn
không đủ điều kiện xử lý và những vụ việc phải có những biện pháp ngăn
6
chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm an toàn cho người tố
cáo theo quy định của pháp luật. Qua phân loại và xử lý sơ bộ, cần xác định
một số loại đơn thư chủ yếu sau đây:
Một là, các đơn khiếu nại đủ điều kiện để xử lý: Đây là những đơn
khiếu nại về một vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết hoặc đơn khiếu
nại về vụ việc đã có quyết định giải quyết cuối cùng và đã được hướng dẫn,
nay vì nhiều lý do khác nhau, người khiếu nại tiếp tục gửi đơn. Việc phân loại
đơn khiếu nại không đủ điều kiện để xử lý có thể tiến hành trên máy vi tính.
Cán bộ xử lý đơn chỉ cần nạp các thông tin về họ tên, địa chỉ của người viết
đơn vào máy tính và với chương trình quản lý đơn thư đã được cài đặt sẵn,
máy tính sẽ cho kết quả để xác định loại đơn này. Ở những cơ quan, đơn vị
chưa trang bị máy tính hoặc chưa cài đặt chương trình quản lý đơn thư thì
việc phân loại phải được thực hiện bằng phương pháp thủ công. Đó là các
thao tác tìm kiếm, rà soát trên các Sổ theo dõi xử lý đơn. Tuy nhiên, dù thực
hiện trên máy tính hay thực hiện bằng phương pháp thủ công thì sau khi xác
định được các đơn trùng lặp về họ tên, địa chỉ người viết đơn, cán bộ xử lý
đơn cũng phải tiến hành rà soát, đối chiếu nội dung đơn. Nếu như cùng một
người viết đơn nhưng nội dung đơn lại phản ánh những vấn đề khác, những
yêu cầu khác với nội dung đơn trước đây thì không coi là đơn không đủ điều
kiện xử lý. Sau khi phân loại và đã xác định được loại đơn khiếu nại không đủ
điều kiện xử lý thì căn cứ vào điểm 5, Điều 5, Nghị định 53/2005/NĐ-CP

“Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết, đơn khiếu nại về
vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì cơ quan nhận
được đơn không có trách nhiệm thụ lý nhưng có văn bản chỉ dẫn, trả lời
người khiếu nại. Việc chỉ dẫn, trả lời chỉ thực hiện một lần đối với một vụ
việc khiếu nại. Trong trường hợp người khiếu nại gửi kèm các giấy tờ, tài liệu
là bản gốc liên quan đến vụ việc khiếu nại thì cơ quan nhận được đơn trả lại
các giấy tờ, tài liệu đó cho người khiếu nại”.
Hai là, các đơn tố cáo không đủ điều kiện để xử lý, bao gồm các đơn tố
cáo nặc danh, mạo danh và đơn tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét,
kết luận nay tố cáo lại nhưng không có thêm tài liệu mới: Trước hết, nói về
đơn tố cáo nặc danh, mạo danh. Hiện nay, các đơn tố cáo nặc danh, mạo danh
chiếm tỷ lệ khá lớn. Khi xử lý sơ bộ cần đưa các loại đơn sau đây vào loại nặc
danh, mạo danh:
- Đơn không ký tên người tố cáo;
- Đơn mạo danh một tập thể (ví dụ: tập thể cán bộ, nhân viên Công t tập
thể bà con nông dân thôn B…).
- Đơn có tên nhưng không có rõ địa chỉ người tố cáo.
- Đơn không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký.
7
Đối với những đơn tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận
khi xử lý cần lưu ý: Nội dung tố cáo tiếp thể hiện trong đơn không có gì mới
và người tố cáo cũng không có thêm tài liệu chứng cứ mới thì sẽ được coi là
đơn không đủ điều kiện để xử lý. Đối với loại đơn tố cáo không đủ điều kiện
để xử lý thì căn cứ vào điểm C, Khoản 1, Điều 42 Nghị định 53/2005/NĐ-CP
“Không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ,
không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký hoặc những tố cáo đã được cấp
có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới”.
Đây là quy định có nhiều điểm khác so với trước đây. Tuy nhiên, theo Nghị
định 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005, quy định mới nhất về vấn đề này thì tất
cả mọi đơn tố cáo nặc danh, mạo danh, không rõ họ tên, địa chỉ người tố cáo

và cả những đơn mà chữ ký người tố cáo được sao chụp thì không xem xét,
giải quyết. Đối với những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền xem xét, kết luận
mặc dù theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo “Trong trường hợp có căn
cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo không đúng pháp luật thì người tố cáo có
quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của người giải quyết tố
cáo” (Điều 69 Luật khiếu nại, tố cáo); nhưng khi cụ thể hoá quy định này,
Nghị định 53/2005/NĐ-CP ràng buộc việc tố cáo đó phải thêm tài liệu, chứng
cứ mới. Vì vậy những đơn tố cáo về vụ việc đã được cấp có thẩm quyền xem
xét, kết luận nay tố cáo lại mà người tố cáo không đưa ra được thêm tài liệu,
chứng cứ mới thì cũng không được xem xét, giải quyết và được xếp vào loại
tố cáo không đủ điều kiện để xử lý.
Ba là, những đơn khiếu nại, tố cáo phản ánh những vụ việc nghiêm trọng,
cần phải có ngay những biện pháp cấp bách: Đây là những đơn thư cần phải
được xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa những hậu quả xấu xảy ra, do đó cần sớm
được xác định, phân loại và có biện pháp xử lý. Những đơn thư phản ánh những
vụ việc dưới đây có thể coi là nghiêm trọng và phải có biện pháp cấp bách:
- Những đơn thư phản ánh vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, gay gắt,
có những dấu hiệu của “điểm nóng”, với sự tham gia của nhiều người, phạm
vi ảnh hưởng rộng và có khả năng lan toả sang các địa phương khác.
- Những đơn thư phản ánh vụ việc liên quan đến chính sách dân tộc và
tôn giáo, nhạy cảm và dễ bùng phát.
- Những đơn thư thông tin về một hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra.
- Những đơn tố cáo mà người tố cáo phản ánh việc họ bị truy bức, trả
thù, trù dập.
Đối với những đơn thư nêu trên, cán bộ xử lý đơn thư phải báo cáo
ngay với thủ trưởng cơ quan, đơn vị để có những biện pháp kịp thời. Việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật được đưa ra trên cơ
sở các quy định của Luật khiếu nại, tố cáo quy định: “… Trong trường hợp
cấp thiết, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tố cáo phải báo ngay cho cơ

8
quan có trách nhiệm để áp dụng biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi
phạm pháp luật, áp dụng biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn cho người
tố cáo khi họ có yêu cầu”. Còn tại Khoản 3 Điều 42 Nghị định 53/2005/NĐ-
CP quy định: “Trong trường thủ trưởng cơ quan Nhà nước các cấp, các
ngành nhận được thông tin người tố cáo bị đe doạ, trù dập, trả thù thì phải
có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan chức năng liên quan làm
rõ, có biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn và đề nghị cấp có thẩm
quyền xử lý theo quy định của pháp luật người có hành vi đe doạ, trù dập, trả
thù người tố cáo”.
9
Bước 2: Nghiên cứu đơn.
Sau khi đã qua xử lý bước 1, những đơn thư không đủ điều kiện xử lý
đã được phân loại riêng, số còn lại sẽ được nghiên cứu để có hướng xử lý.
Việc nghiên cứu đơn bao gồm nghiên cứu nội dung trình bày trong đơn và nội
dung những tài liệu mà người khiếu nại, tố cáo gửi kèm. Đây là một công việc
quan trọng và đòi hỏi sự cẩn trọng. Do tình trạng các đơn thư khiếu nại, tố cáo
hiện nay chưa được chuẩn hoá, mẫu hoá cho nên kết cấu của các đơn thư
được trình bày rất đa dạng. Nội dung của đơn lại phụ thuộc vào trình độ hiểu
biết và khả năng diễn đạt của người viết. Thậm chí có những đơn thư trình
bày nhiều vấn đề dàn trải, lại có những đơn thư không thể hiện rõ yêu cầu của
người viết. Vì vậy, bước nghiên cứu đơn phải được thực hiện kỹ càng theo
trình tự:
+ Đọc và tóm tắt nội dung đơn.
+ Ghi chép nội dung vụ việc vào sổ xử lý đơn hoặc đưa những thông
tin đó vào máy tính.
Yêu cầu của quá trình nghiên cứu đơn là phải xác định đúng nội dung
khiếu nại, tố cáo và yêu cầu của người khiếu nại, tố cáo; cụ thể là phải xác
định những điểm sau:
+ Nội dung đơn đề cập những vấn đề gì? Khiếu nại hay tố cáo? Có thể

trong một đơn, người khiếu nại, tố cáo trình bày rất nhiều nội dung, cách thức
trình bày có thể lan man, không có trọng tâm, trọng điểm, do đó, khi nghiên
cứu đơn phải chắt lọc và xác định bản chất của vụ việc là gì, vấn đề gì, nội
dung nào là chủ yếu.
Trong trường hợp một đơn đề cập nhiều nội dung, nếu ra nhiều yêu cầu
thì với từng nội dung, từng yêu cầu đã có được cơ quan nào giải quyết? Giải
quyết như thế nào?
+ Xác định những đề nghị, yêu cầu cụ thể của từng đơn. Điều cần lưu ý
ở đây là phải xác định những đề nghị, yêu cầu mang tính mấu chốt bởi vì có
nhiều trường hợp, người viết đơn không đi thẳng vào những đề nghị của mình
mà thường trình bày vòng vo, kể lể dài dòng, dễ làm cho người nghiên cứu
đơn xác định không chính xác yêu cầu của họ.
Bước 3: Xử lý đơn.
1. Đối với đơn khiếu nại.
Có hai loại khiếu nại chủ yếu tương ứng với hai cách xử lý khác nhau.
+ Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết:
Cán bộ xử lý đơn trước hết cần xác định thẩm quyền giải quyết của cơ
quan, đơn vị mình trên cơ sở các quy định về thẩm quyền giải quyết khiếu nại
được quy định tại Mục 2 - Chương II Luật khiếu nại, tố cáo và Mục 2,
10
Chương 1 Nghị định 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ. Nếu
như vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị mình thì bước
tiếp theo là phải nghiên cứu, xem đơn khiếu nại có đủ điều kiện thụ lý giải
quyết không. Theo Điều 32 của Luật khiếu nại, tố cáo và Điều 1 của Nghị
định 53/2005/NĐ-CP của Chính phủ thì những khiếu nại thuộc một trong các
trường hợp sau đây không được thụ lý để giải quyết:
1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại không liên
quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;
2. Người khiếu nại không có năng lực hành vi đầy đủ mà không có
người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

3. Người đại diện không hợp pháp;
4. Thời hiệu khiếu nại, thời hạn khiếu nại tiếp đã hết;
5. Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;
6. Việc khiếu nại đã được Tòa án thụ lý để giải quyết hoặc đã có bản
án, quyết định của Tòa án.
Sau khi nghiên cứu, nếu thấy khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, đơn vị mình và có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì
cán bộ xử lý đơn báo cáo thủ trưởng cơ quan, đơn vị để làm thủ tục thụ lý.
Việc thụ lý để giải quyết được thực hiện trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
nhận được đơn khiếu nại và phải thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại
biết (các Điều 34 và 41 của Luật khiếu nại, tố cáo). Trong trường hợp xét thấy
vụ việc khiếu nại tuy thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan đơn vị mình
nhưng không đủ điều kiện thụ lý (do hết thời hiệu, thời hạn, do người khiếu
nại không phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi
quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại…) thì trả lời
bằng văn bản cho người khiếu nại biết rõ lý do.
Ngoài ra, cần lưu ý trường hợp đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải
quyết của cơ quan, đơn vị mình và đủ điều kiện để thụ lý giải quyết nhưng lại
do nhiều người cùng ký tên vào đơn. Trường hợp này được xử lý bằng cách
hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn riêng, trình bày rõ nội dung và yêu
cầu cụ thể của mình để thực hiện việc khiếu nại theo quy định.
+ Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan, đơn vị mình:
Về nguyên tắc, đối với những đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền
thì cơ quan, đơn vị nhận được sẽ thông báo và hướng dẫn cho người khiếu nại
bằng văn bản. Cán bộ xử lý đơn có thể dùng mẫu “Phiếu hướng dẫn” trong đó
chỉ rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết và đề nghị người khiếu nại đến đúng
cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc khiếu nại. Việc hướng dẫn chỉ thực
hiện một lần đối với một vụ việc khiếu nại. Nếu như người khiếu nại có gửi
11

kèm theo đơn các giấy tờ, tài liệu là bản gốc liên quan đến vụ việc khiếu nại
thì trả lại các giấy tờ, tài liệu đó cho người khiếu nại. Tuy nhiên, trong quá
trình xử lý đơn khiếu nại cần đặc biệt lưu ý trường hợp khiếu nại không thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị cấp dưới trực tiếp. Đối với trường
hợp này, cán bộ xử lý đơn cần báo cáo với thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình
để có biện pháp xử lý.
Ngoài ra, trong quá trình xử lý đơn khiếu nại cần lưu ý những trường
hợp đơn vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo. Trên thực tế,
nhiều khi người khiếu nại lồng thêm những nội dung tố cáo vào trong vụ việc
khiếu nại để nhằm nhấn mạnh thêm tính chính đáng trong các yêu cầu của
mình. Ví dụ: Khi khiếu nại đòi được cấp đất, người khiếu nại thông thường
đưa thêm nội dung tố cáo một số cán bộ lợi dụng chức quyền, tuỳ tiện cấp đất
cho người thân thích hoặc có biểu hiện tiêu cực trong việc cấp đất cho một vài
đối tượng cụ thể… Đối với những đơn có cả nội dung khiếu nại và nội dung
tố cáo thì cán bộ xử lý đơn phải tách nội dung khiếu nại ra khỏi nội dung tố
cáo rồi mới tiến hành xử lý. Nội dung khiếu nại sẽ được xử lý như trên, tuỳ
theo vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị mình hay
không, có đủ điều kiện thụ lý để giải quyết hay không; còn nội dung tố cáo sẽ
được xử lý như đối với đơn tố cáo được trình bày ở phần sau:
2. Đối với đơn tố cáo:
Có 3 loại đơn tố cáo chủ yếu tương ứng với 3 cách xử lý khác nhau:
- Đối với đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị
mình:
Nếu như xác định đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan,
đơn vị mình thì cán bộ xử lý đơn phải báo cáo với thủ trưởng cơ quan, đơn vị
để thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc thụ lý phải được tiến
hành chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được tố cáo. Sau khi đã thụ lý,
cán bộ xử lý đơn dùng mẫu “Giấy báo tin” để thông báo cho người tố cáo
biết. Việc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo là một công việc phức tạp
bởi vì phạm vi các vấn đề mà công dân tố cáo rất rộng, không chỉ liên quan

đến cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức, cá nhân khác; không chỉ liên quan đến thẩm quyền quản lý trong
nội bộ các cơ quan, tổ chức mà còn liên quan đến phạm vi quản lý theo lãnh
thổ hay theo ngành và lĩnh vực. Do đó, khi xác định thẩm quyền của cơ quan,
đơn vị cần phải căn cứ vào toàn bộ nội dung của hai Điều 59 và 60 của Luật
khiếu nại, tố cáo:
+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm
quyền quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì cơ quan, tổ chức đó có trách
nhiệm giải quyết.
12
+ Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người
thuộc cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách
nhiệm giải quyết.
+ Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên
trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm giải quyết.
+ Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng
quản lý Nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
+ Tố cáo hành vi phạm tội do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
- Đối với tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị mình:
Nếu như xác định nội dung tố cáo không thuộc thẩm quyền của cơ
quan, đơn vị mình thì cán bộ xử lý đơn phải chuyển đơn tố cáo và các tài liệu
chứng cứ có liên quan (nếu có) cho người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Việc chuyển đơn tố cáo được thực hiện bằng mẫu “Phiếu chuyển đơn”, đồng
thời dùng mẫu “Giấy báo tin” để thông báo cho người tố cáo biết việc chuyển
đơn, địa chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết để họ liên hệ. Việc chuyển đơn
tố cáo phải được thực hiện trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn.
- Đối với tố cáo hành vi có dấu hiệu phạm tội:
Trong quá trình nghiên cứu , xử lý đơn, nếu thấy nội dung tố cáo liên

quan đến hành vi có dấu hiệu phạm tội thì cán bộ xử lý đơn phải báo cáo với
thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình để chuyển cho cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát để xử lý. Cần lưu ý rằng: Nếu như tố cáo hành vi có dấu hiệu phạm tội thì
dù thuộc thẩm quyền hay không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, cơ
quan, đơn vị nhận được đều phải chuyển cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
để xử lý bởi vì pháp luật quy định đây là những cơ quan có thẩm quyền điều
tra, truy tố tội phạm. Việc xác định hành vi có dấu hiệu phạm tội cần phải căn
cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự và Pháp lệnh chống tham nhũng. Ví
dụ: Tố cáo hành vi tham ô tài sản có giá trị từ 500 ngàn đồng trở lên, tố cáo
hành vi lập quỹ trái phép có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên… sau khi chuyển
cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cán bộ xử lý đơn dùng mẫu “Giấy báo
tin” để thông báo cho người tố cáo biết tên cơ quan đã tiếp nhận hồ sơ để họ
liên hệ.
Ngoài quy trình, thao tác nghiệp vụ xử lý đơn nghiên cứu như trên, cần
chú ý trường hợp các đơn thư khiếu nại, tố cáo do các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giám sát (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân, Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân…) và các cơ quan
báo chí chuyển đến. Đối với những đơn thư này nếu thuộc thẩm quyền giải
quyết thì ngoài việc thụ lý và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết, còn
phải thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển đơn. Trong trường
13
hợp khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền thì ngoài việc chuyển đơn hoặc
hướng dẫn cũng cần thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển đơn
biết rõ lý do để phối hợp thống nhất trả lời cho người khiếu nại, tố cáo.
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ ĐẾN CÔNG TÁC THANH TRA, GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, CHỐNG THAM NHŨNG Ở ĐỊA PHƯƠNG.
Như Xuân là một huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Thanh Hoá.
Diện tích đất tự nhiên là 71.000ha. Dân số 58.000 người, có 4 dân tộc: Thái,
Thổ, Mường, Kinh chung sống với nhau. Toàn huyện có 17 xã và thị trấn.
Trong đó có 10 xã Vàng Cao thuộc diện xã khó khăn hưởng chế độ 135 của

Chính phủ. Cơ sở vật chất nghèo nàn, giao thông đi lại hết sức khó khăn, trình
độ dân trí không đồng đều… Do đó tác động đến việc phát triển kinh tế xã
hội.
Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền địa
phương, công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật nói chung, Luật Khiếu
nại, tố cáo nói riêng được quan tâm đúng mức. Nhất là từ khi có Nghị định
89/CP và Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời. Về nhận thức của nhân dân được nâng
lên. Đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được gửi đúng địa chỉ, đúng cơ
quan và người có thẩm quyền giải quyết với số lượng đơn các năm gồm: Ở
cấp huyện 25 đơn, cấp xã 65 đơn. Đã được xem xét giải quyết dứt điểm,
không để đơn thư tồn đọng kéo dài, không có khiếu kiện đông người, không
xảy ra điểm nóng.
Qua thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiên quyết xử lý 7 cán bộ
(xã 4, huyện 3) lợi dụng chức vụ quyền hạn để tham nhũng trong thực hiện
nhiều vụ kiểm kê đền bù giải phóng mặt bằng đường Hồ Chí Minh. Thu hồi
cho Nhà nước 360.000 đồng và đang tiếp tục chuyển hồ sơ sang cơ quan điều
tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định của pháp luật, qua sự việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo, và chống tham nhũng năm 2004, 2005. Nhân dân
địa phương rất quan tâm hưởng ứng, và tạo được niềm tin đối với Đảng và
Nhà nước. Tích cực tham gia vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT.
Kiến nghị.
Nhằm đạt được mục tiêu của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt
được hiệu quả cao hơn cần phải có những biện pháp, cụ thể đó là:
- Tăng cường, củng cố công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
bố trí địa điểm tiếp dân khang trang, thuận lợi, đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất
cho hoạt động tiếp dân. Bố trí cán bộ có phẩm chất tốt, có năng lực, có kiến
thức và am hiểu chính sách, pháp luật làm công tác tiếp công dân.
- Phân định rõ chức năng của các cơ quan trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo.

14
- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị phải thực hiện việc tiếp dân theo đúng
quy định của pháp luật.
- Về mô hình tổ chức tiếp công dân, cần thống nhất tập trung vào một
đầu mối, trụ sở tiếp dân ở cấp Tỉnh, Thành phố, Huyện, Sở có một phó Chánh
thanh tra phụ trách để gắn việc tiếp dân với việc giải quyết và kiểm tra, đôn
đốc giải quyết.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác này.
- Trong từng cơ quan, đơn vị cần tăng cường học tập, quán triệt và thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để cán bộ
công chức nâng cao trình độ, nắm vững chuyên môn, chủ động sáng tạo trong
công việc. Thường xuyên tổ chức cho cán bộ, công chức học tập Luật khiếu
nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo của công dân, để cán bộ công chức nâng cao nhận thức, nâng cao vai
trò trách nhiệm của mỗi cá nhân, gắn với nhiệm vụ được giao trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân.
- Tăng cường và đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền nhằm
nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói
chung, pháp luật về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng để
qua đó nâng cao trách nhiệm, ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân. Bên
cạnh đó cần tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn cũng như quan
tâm nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nghiệp vụ để thực
hiện thống nhất và có hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo.
- Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để phục vụ thiết thực cho việc
nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo nhằm tăng cường chất lượng, hiệu quả của lĩnh vực công tác này.
15

C. KẾT LUẬN
Nhìn chung, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành
chính Nhà nước trong thời gian vừa qua đã có nhiều cố gắng, giải quyết được
một khối lượng rất lớn vụ việc phát sinh và nhiều vụ việc phức tạp, góp phần
ổn định tình hình, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. Sự chuyển biến tích cực đó
trước hết là do có sự chỉ đạo tập trung, cụ thể của Bộ chính trị, Ban Bí thư và
Thủ tướng Chính phủ, nhất là từ khi có chỉ thị số 09/CT-TW và việc triển
khai kế hoạch số 01/KH-TW của Ban Bí thư về kiểm tra trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
sự nỗ lực cố gắng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền địa
phương và thủ trưởng các Bộ, Ngành, sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan
thanh tra với cơ quan kiểm tra của Đảng, các cơ quan trong khối nội chính,
mặt trận Tổ quốc và các tổ chức, đoàn thể ngày càng chặt chẽ hơn.
Tuy nhiên, sự chuyển biến tích cực trên chưa thực sự cơ bản, đòi hỏi
trong thời gian tới chúng ta phải có những biện pháp tích cực hơn để khắc
phục những khó khăn, tồn tại, bất cập, đưa công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo vào nề nếp, đạt hiệu quả cao hơn.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ quan trọng và
đây cũng là lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Để công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo có hiệu quả, hạn chế tình trạng đơn thư vượt cấp, nhân dân có lòng tin
vào sự lãnh đạo của Đảng, các cơ quan chức năng, tổ chức chính quyền các
cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cần quan tâm, chú trọng hơn
nữa tới công tác này.
Trong những năm qua, đã nghiêm túc thực hiện công tác tiếp công dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật. Việc giải
quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đã đi vào nề nếp, giải quyết dứt điểm, đúng
thẩm quyền, kịp thời gian, không có đơn thư tồn đọng.
Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là công tác phức tạp, đòi
hỏi phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ,
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tham gia vào công tác

này thì chắc chắn công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ đạt được
hiệu quả cao.
Với thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm
khuyết. Rất mong được sự quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp Nước cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992.
- Nghị định số 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ.
- Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 sửa đổi bổ sung năm 2004.
- Nghị định 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo, và Luật sửa đổi bổ sung
một số điều luật khiếu nại, tố cáo.
- Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 của Ban bí thư Trung ương
Đảng về một số nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
17
BỐ CỤC TIỂU LUẬN
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
B. NỘI DUNG
3
I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
3
1. Vấn đền tiếp dân 3
2. Xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo 5
3. Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, thủ tục tố cáo 6
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ ĐẾN CÔNG TÁC THANH TRA, GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, CHỐNG THAM NHŨNG Ở ĐỊA PHƯƠNG
12
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
13
C. KẾT LUẬN
15
tài liệu sử dụng và tham khảo
16
18

×