Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Những tác động tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn tới đời sống hôn nhân và gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.16 KB, 15 trang )

A/ Đặt vấn đề
Trong tình hình thực tế hiện nay, có rất nhiều những đơi quan hệ với nhau như
vợ chồng mà khơng có đăng ký kết hơn. Họ khơng hề dự liệu hết được những tác động
tiêu cực của vấn đề này. Mặc dù pháp luật nước ta đã quy định về vấn đề này song nó
cịn chưa mang tính chất cụ thể hóa, cịn chưa đưa ra những hậu quả pháp lý của nó. Vì
thế, việc quan hệ như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ngày càng phổ biến hơn. Để
tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này và những tác động tiêu cực của nó, em đã mạnh dạn
chọn đề tài: “Những tác động tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn tới đời sống hôn nhân và gia đình”. Trong phạm vi một bài tập nhỏ
em chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ tác động tiêu cực của việc chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn và thực tế quy định của pháp luật về hơn nhân và gia
đình Việt Nam hiện hành. Với nhận thức còn hạn chế, nguồn tài liệu thu thập chưa
được phong phú nên bài làm của em còn nhiều thiếu xót. Rất mong sự gúp đỡ, chỉ bảo
của cơ để em hồn thiện hơn bài tập của mình.

B/ Giải quyết vấn đề.
I/ Quan hệ chung sống như vợ chồng.
1. Khái niệm mà không đăng ký kết hôn.
Nếu kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hơn, thì quan hệ
chung sống như vợ chồng là quan hệ khơng có đăng ký kết hơn. Quan hệ ấy có thể xác
lập khơng phù hợp với các điều kiện về nội dung kết hơn, nhưng cũng có thể hoàn toàn
phù hợp với những điều kiện ấy.
Trong chừng mực của khái niệm, quan hệ chung sống như vợ chồng khác với sự
chung sống tạm bợ và quan hệ qua đường. Trong quan hệ qua đường hai con người tìm
đến nhau, có thể vì sự tị mị hay do lối sống suy đồi. chung sống tạm bợ, hai người cần
đến nhau để đáp ứng nhu cầu trước mắt mà không quan tâm đến tương lai chung.
Quan hệ chung sống như vợ chồng mà phù hợp với các điều kiện về nội dung kết
hơn có tất cả các yếu tố đặt cơ sở cho sự thành lập một gia đình, trừ yếu tố đăng ký kết
hôn.
1.1.Quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm vào các điều kiện về nội dung kết
hôn.


1


a, Sự hình thành quan hệ.
Quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hơn có
thể hình thành theo một trong hai cách đó là: sự duy trì quan hệ như vợ chồng giữa
những người kết hôn trái pháp luật sau khi hôn nhân bị hủy theo một bản án hoặc quyết
định của Tịa án. Hay đó là sự xác lập quan hệ vợ chồng mặc nhiên với giữa những
người biết rõ rằng họ khơng có quyền đăng ký kết hơn nhưng vẫn muốn chung sống
như vợ chồng.
b, Hệ quả pháp lý của quan hệ.
Quan hệ như vợ chồng vi phạm các điều kiện về nội dung kết hôn là quan hệ vợ
chồng trái pháp luật. Tuy nhiên, việc xác lập và duy trì quan hệ đó chỉ bị chế tài về
hành chính hoặc hình sự trong một số trường hợp như loạn luân, vi phạm chế độ một
vợ, một chồng, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn... được quy định rõ trong Nghị quyết 87 ngày
21/11/2001 – quy định việc xử phạt hành chính đối với những người kết hơn ví phạm
các quy định về cấm kết hôn được quy định tại điều 10 - Luật hơn nhân và gia đình
năm 2000. Theo luật định, có một điều chắc chắn là giữa những người này và con cái
ln có cha mẹ và con và quan hệ ấy làm phát sinh tất cả các quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ và con theo đúng pháp luật về hơn nhân và gia đình quy định.
1.2. Quan hệ chung sống như vợ, chồng không vi phạm các điều kiện về nội dung kết
hôn.
1.2.1. Hôn nhân thực tế và việc công nhận hôn nhân thực tế ở nước ta.
Hôn nhân thực tế là một loại quan hệ thực tế, xác lập giwuax hai người , một
nam và một nữ, có đủ các điều kiện để kết hơn theo quy định của pháp luật, chung sống
với nhau như vợ chồng nhưng lại không đăng ký kết hôn. Và đã được luật định tại
Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001. Theo đó,
nam, nữ được coi là chung sống với nhau như vợ chồng , nếu họ có đủ điều kiện kết
hôn theo những quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong
các trường hợp sau đây:

- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai bên ) chấp
nhận;
2


- Việc họ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc giúp đỡ nhau cũng xây
dựng gia đình.
Khái niệm chung sống với nhau như vợ chồng ghi nhận trong Thơng tư đó được
xây dựng trong khn khổ hướng dẫn thi hành Nghị quyết 35 ngày 09/6/2000 của
Quốc hội.
Như vậy, đối với các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, có đủ điều
kiện kết hơn nhưng khơng đăng ký kết hơn thì Tịa án cơng nhận đó là “ hơn nhân thực
tế” . Đồng thời, khi giải quyết cần phải xem xét yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
- Về mặt chủ quan: Hai bên nam nữ phải thực sự mong muốn kết hôn với nhau.
Việc họ chung sống như vợ chồng hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng ép,
lừa dối. Các bên thực sự coi nhau là vợ chồng trong thời gian chung sống.
- Về mặt khách quan: Hai bên nam nữ chung sống công khai và minh bạch trong
quan hệ vợ chồng, họ cùng nhau gánh vác công việc gia đình, được hok hành và những
người xung quanh thừa nhận là vợ chồng.
1.2.2. Giải quyết hậu quả pháp lý đối với việc công nhận hôn nhân thực tế kể từ
khi Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực.
Về việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn,
nội dung điều chỉnh của Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 với Luật hơn nhân và gia
đình năm 2000 là khác nhau. Do đó, khi xử lý các tranh chấp Tịa án cần phân biệt các
trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước và sau ngày Luật hơn
nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực để có quyết định đúng đắn. Theo Luật hơn nhân
và gia đình năm 2000 Điều 11 khoản 1, thì việc kết hôn phải được đăng ký theo quy
định tại điều 14 của luật và mọi nghi thức kết hôn khác đều khơng có giá trị pháp lý.

Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000, của Quốc hội nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về vệc thi hành Luật hơn nhân và gia đình năm
2000, hướng dẫn giải quyết các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chông như sau:
- Trong trường hợp các bên chung sống trước ngày 03/01/1987, ngày Luật hơn
nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực , mà chưa đăng ký kết hơn, thì được khuyến

3


khích đăng ký kết hơn , trong trường hợp có u cầu ly hơn thì được Tịa án thụ lý giải
quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng ký kết hơn theo quy định của Luật này, thì có
nghĩa vụ đăng ký trong thời hạn hai năm, kể từ ngày luật này có hiệu lực và cho đến
ngày 01/01/2003; trong thời gian này họ khơng đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn,
thì Tịa án áp dụng các quy định về ly hơn của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 để
giải quyết; từ sau ngày 01/01/2003 mà họ khơng đăng ký kết hơn thì pháp luật khơng
cơng nhân họ là vợ chồng.
- Kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b
khoản 3 của Nghị quyết này, nam nữ chunng sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhân là vợ chồng, nếu có u cầu ly
hơn thì Tịa án thụ lý và tun bố khơng có quan hệ vợ chồng; nếu có u cầu về con
và tài sản thì Tịa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 điều 17 của Luật hơn nhân và gia
đình năm 2000 để giải quyết.
2. Tình trạng về hiện tượng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn hiện nay.
Theo điều tra quy mô lớn đầu tiên về gia đình Việt Nam thực hiện tại 64 tỉnh
thành, vừa được công bố ngày 26/6, tỷ lệ các cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn
chiếm đến 28%. Ở những cặp có đăng ký kết hơn, gần 14% đăng ký sau khi cưới. Kết
quả này cho thấy, đối với nhiều người, việc được công nhận quan hệ vợ chồng về mặt

luật pháp không quan trọng bằng được công nhận về mặt xã hội.
Sau khi Luật Hơn nhân gia đình có hiệu lực vào năm 2000, Nhà nước quy định,
kể từ ngày 01/01/2001, nam nữ sống chung khơng đăng ký thì khơng được pháp luật
công nhận là vợ chồng. Mặc dù vậy, tình trạng lấy nhau khơng có giấy hơn thú vẫn phổ
biến, nhất là ở nông thôn. Tỷ lệ chưa đăng ký trong số những người đã cưới nhau từ
năm 2001 trở lại đây cịn cao hơn trước đó.
II/ Tác động tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn tới đời sống hôn nhân và gia đình và các quy định của pháp luật về vấn đề
này.
4


1. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng.
1.1. Quan hệ nhân thân.
Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng có đăng ký kết hơn
thì họ khơng phải là vợ chồng theo nghĩa của luật. Những người có quan hệ như vợ
chồng khơng có nghĩa vụ chung sống và các nghĩa vụ đăng trưng của quan hệ vợ
chồng: nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, chung thủy, đùm bọc, hỗ trợ, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. mỗi người có các quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với người kia theo luật
chung, như hai cá nhân bình thường. Vì thế, họ khơng có quyền và nghĩa vụ nhân thân
với nhau trên cơ sở của pháp luật. Vấn đề này có tác động rất tiêu cực đến cuộc sống
gia đình, có thể người chung sống đó khơng chung thủy, hai người khơng được phạm
đến đời sống riêng tư của nhau nên người kia có thể ngoại tình. Có khi cịn bị đuổi ra
khỏi nhà vì nếu như ngơi nhà ấy chỉ đứng tên một người thì người cịn lại khơng hề có
quyền sở hữu tài sản của người kia. Ví dụ: Bị chồng đuổi khỏi nhà khi con mới hơn một
tháng tuổi; chồng cơng khai ngoại tình, bị tình nhân của chồng chửi bới, đe dọa, nhưng
người vợ đi thưa kiện khắp nơi vẫn khơng được giải quyết. Vì chị khơng có đăng ký kết
hôn (ĐKKH) nên về pháp lý, hai người không phải là vợ chồng, không được xâm phạm
đến đời sống riêng tư của nhau. Đó là trường hợp của chị Lưu N.T. (SN 1977) ở Q.3,
TP.HCM. Chị T cho biết, sau hơn một năm tìm hiểu, chị và anh Nguyễn Q. (SN 1978,

làm việc tại một tập đồn viễn thơng lớn) quyết định tổ chức lễ cưới vào ngày
10/10/2006. Cưới, nhưng anh lại “quên” chuyện ĐKKH. Khi chị mang thai con đầu
lịng, thấy chồng có biểu hiện đáng ngờ: đi sớm, về trễ, cộc cằn, bỏ bê gia đình; chị
kiểm tra điện thoại và theo dõi thì biết anh đang cặp kè với một cô gái. Chị yêu cầu
chồng chấm dứt quan hệ ngoài luồng, anh ta “lật bài ngửa”, cơng khai chuyện ngoại
tình.
Mâu thuẫn vợ chồng càng tăng sau khi chị sinh con vào 12/2009. Chị cho rằng
anh không trịn trách nhiệm làm cha, khơng thèm quan tâm, thậm chí khơng đến thăm
khi con mới chào đời. Anh chồng lại cho là vợ xâm phạm đời sống riêng tư của mình.
Khun chồng khơng được, chị tìm gặp tình nhân của chồng, u cầu dừng lại, nhưng cơ
tình nhân của anh Q. lại vặn chị: “Chị với anh Q. không ĐKKH, anh Q. vẫn là người tự
do. Vì vậy, tơi với anh Q. tìm hiểu, yêu thương là quyền của chúng tơi. Chị khơng có
5


quyền can thiệp. Con chị, chị khơng ni được thì giao tơi ni giúp cho. Chị cịn làm
phiền, tơi sẽ đi thưa chị đó”.
Lúc này, chị T. mới hiểu ra sự thất thế của mình khi khơng ĐKKH. Sau khi bị anh
đuổi ra khỏi nhà, chị làm đơn nhờ chính quyền, đoàn thể địa phương can thiệp, nhưng
hành vi ngoại tình và ngược đãi vợ của anh Q. khơng bị xử lý, mà chị còn được khuyên
là cố gắng nhường nhịn và năn nỉ chồng. Chị khơng có chứng cứ hợp pháp (giấy
ĐKKH) chứng minh chị là vợ của anh Q., lại khơng có tên tạm trú ở địa phương (do
trước đó, chồng chị nói ở đây quen hết khơng cần đăng ký tạm trú) nên chẳng ai có thể
giúp được chị.
Khơng riêng chị ., thực tế đang có rất nhiều chị em khi kết hôn đã không biết
hoặc không coi trọng việc ĐKKH để từ đó chịu bao thiệt thịi khi chồng ngoại tình, vì
khơng được pháp luật bảo vệ. Đây là một hậu quả hết sức nghiêm trọng của việc chung
sống như vợ chồng.
Theo đó, pháp luật nước ta đã quy định tại Điều 11, Luật Luật hôn nhân và gia
đình quy định: Nam, nữ khơng ĐKKH mà chung sống với nhau như vợ chồng thì

khơng được pháp luật cơng nhận là vợ chồng. Vợ chồng có ĐKKH thì quyền lợi của
đơi bên mới được đảm bảo như: quyền về tài sản, được thương yêu, được tôn trọng,
chung thủy... đặc biệt là quyền lợi của con cái. Ngoài ra, việc ĐKKH còn như một cam
kết để vợ chồng cùng có trách nhiệm xây dựng, giữ gìn gia đình và chung tay ni dạy
con cái”.
Giữa những người có quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng khơng có quan
hệ ni dưỡng và do đó, các bên khơng thể bị ràng buộc vào nghĩa vụ cấp dưỡng đối
với nhau, như một hình thức chế tài trong trường hợp người này không chịu nuôi
dưỡng người kia. Và trong trường hợp một người bị tuyên bố là mất năng lực hành vi
dân sự, bên kia không phải là người giám hộ đương nhiên. Tuy nhiên, nếu một bên bị
tuyên bố là hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì bên kai có thể là người đại diện, một
khi được Tịa án chỉ định. Trong trường hợp một bên bị coi là vắng mặt hoặc mất tích,

6


thì bên kkia chỉ đảm nhận vai trị là người quản lý tài sản của người vắng mặt, mất tích
theo Bộ luật Dân sự Điều 85 khoản 1 điểm a và b.
1.2.Quan hệ tài sản.
Về phương diện tài sản, những người chung sống với nhau như vợ chồng khơng
có tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong thời gian sống chung tài sản do một
người tạo ra thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản do hai người cùng tạo ra thuộc
sở hữu chung theo phần giữa họ. Các nghĩa vụ tài sản do một người xác lập chỉ ràng
buộc chính người xác lập giao dịch. Việc sử dụng, định đoạt tài sản chịu sự chi phối
của luật chung về quyền sở hữu: mỗi người có độc quyền sử dụng, định đoạt tài sản của
mình; việc sử dụng định đoạt tài sản chung được thực hiện theo nguyên tắc nhất trí.
2. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng vào các giao dịch
dân sự.
2.1.Nguyên tắc.
Khi tham gia vào các gia dịch dân sự đối với người thứ ba, quan hệ chung sống

như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không phải là quan hệ vợ chồng. Do đó, các
giao dịch dân sự mà người thứ ba xác lập với những người có quan hệ chung sống như
vợ chồng chịu sự chi phối của luật chung. Những người chung sống như vợ chồng chỉ
liên đới chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch ấy, nếu họ bày tỏ
ý chí rõ ràng về việc thiết lập tình trạng liên đới đó hoặc nếu pháp luật có quy định.
Trong trường hợp một bên xác lập một giao dịch mà người thứ ba xác lập một
giao dịch nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, thì bên kia vẫn không phải
chịu trách nhiệm liên đới. Giải pháp này rõ ràng là không thuận lợi đối với người thứ
ba: cứ mỗi lần xác lập giao dịch với một người có vẻ như có vợ (chồng), người thứ ba
phải yêu cầu người đó xuất trình giấy chứng nhận đăng ký kết hôn?
Trong trường hợp một trong hai bên chung sống như vợ chồng bị người thứ ba
gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe mà bên kia không được nuôi dưỡng một cách
bình thường thì thiệt hại do bên kia gánh chịu khơng được tính vào thiệt hại mà người
tứ ba phải bồi thường.
2.2 Trường hợp thuê nhà ở.
7


Theo Bộ luật Dân sự Điều 500, trong trường hợp bên th nhà mà vẫn cịn thời
hạn th, thì người cùng chung sống với bên thuê có quyền tiếp tục thực hiện hợp
ddooongf đến khi hết hạn. Luật không quy định người chung sống với người thuê có
quan hệ như thế nào với người thuê; bởi vậy, người chung sống với người thuê nhà mà
không đăng ký kết hôn vẫn cũng có quyền đó. Song với luật pháp nước ta vẫn còn hạn
chế trong việc quy định về việc những người chung sống với nhau như vợ chồng mà vi
phạm các điều kiện về nội dung kết hơn , ví dụ: chung sống giữa hai người vi phạm chế
độ một vợ một chồng, giữa hai người cùng giới tính…Thơng thường, thì vấn đề này sẽ
do người cho thuê quyết định, nếu họ cảm thấy khơng phù hợp thì họ cho th cịn
khơng thì họ có thể chấm dứt hợp đồng thuê nhà của những người đang chung sống với
nhau như vợ chồng.
2.2.Trường hợp một trong hai bên trước đây đã ly hôn và được cấp dưỡng.

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 61 khoản 6, nếu bên được cấp
dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác, thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt?
Liệu quy định đó có được áp dụng cả cho trường hợp bên được cấp dưỡng sau khi ly
hôn sau khi ly hôn không kết hôn mà chỉ chung sống như vợ chồng với người khác?
Suy cho cùng thì chính trường hợp thứ hai này lại phổ biến hơn trường hợp được luật
dự kiến vì có thể sau khi đã kết thúc một cuộc hơn nhân thì thường khi đến với cuộc
hơn nhân thứ hai họ ngại ra đăng ký kết hôn. Nhưng với thực tiễn hiện nay thì nhà làm
luật chưa có câu trả lời chắc chắn cho vấn đề này. Thơng thường thì người đã ly hơn
mà kết hơn tiếp sẽ không yêu cầu cấp dưỡng tiếp; người chung sống như vợ chồng với
người đó, về phần mình cũng khơng muốn người mà mình chung sống tiếp tục nhận
tiền cấp dưỡng của vợ (chồng) cũ của người đó. Nhưng khơng loại trừ khả năng người
được cấp dưỡng vẫn muốn tiếp tục được cấp dưỡng , còn người chung sống như vợ
chồng với người đó khơng biết chuyện đó hoặc biết nhưng khơng hề phản đối. Khi đó,
người có nghĩa vụ cấp dưỡng cớ nguy cơ phải “ gồng gánh” nhiều người chứ không
phải chỉ một người, bởi, mức cấp dưỡng được tính dựa trên nhu cầu của gia đình người
được cấp dưỡng chứ không chỉ của cá nhân người này.
3. Quan hệ giữa hai người chung sống với nhau như vợ chồng và con cái.
3.1.Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái.
8


Chủ trương của người làm luật là: quan hệ cha mẹ con cái không ảnh hưởng bởi
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ chung sống giữa cha mẹ cũng khơng lệ thuộc
vào tính chất của quan hệ chung sống giữa cha và mẹ. Dù cha và mẹ có kết hơn hay
khơng kết hơn, dù cha mẹ có kết hơn hay khơng kết hơn, dù cha mẹ cịn chung sống
hay đã chia tay với nhau, các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái và ngược lại,
theo đúng quy định của Luật hơn nhân và gia đình năm 2000.
3.2.Xác lập quan hệ cha mẹ và con.
Trong trường hợp có tranh chấp về xác lập quan hệ cha mẹ và con, sự suy đoán
của luật trong việc xác định cha, mẹ, quy định tại Luật hôn nhân và gia đình Điều 63

khoản 1, khơng được áp dụng đối với con sinh ra từ quan hệ chung sống như vợ chồng.
Ví dụ: anh A và chị B chung sống với nhau như vợ chồng khơng có đăng ký kết
hơn và có con chung, chị B muốn chuyển giao con cho anh A thì có được khơng? Và
người con đó có mang họ và anh A khơng?
Về vấn đề này, với góc độ luật định thì vấn đề này được giải quyết như sau:
Theo khoản 1, điều 63 Luật hôn nhân và gia đình, con sinh ra trong thời kỳ hơn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng. Như vậy, khi hai
người chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hơn tức khơng được pháp
luật cơng nhận có quan hệ vợ chồng với người cha của đứa bé và nếu người cha đó
cũng khơng nhận đứa bé là con thì khơng có cơ sở để giao con cho cha. Trường hợp
người cha tự nguyện nhận con thì theo điều 33 nghị định 158 ngày 27-12-2005 của
Chính phủ (về đăng ký và quản lý hộ tịch), người cha có thể đến UBND cấp xã nơi
mình hoặc nơi người con cư trú để làm thủ tục nhận con. Trường hợp người cha khơng
đồng ý nhận con thì căn cứ vào điều 66 Luật hơn nhân và gia đình, chị B có quyền tự
mình u cầu tịa án hoặc đề nghị viện kiểm sát yêu cầu tòa án xác định cha cho con
chưa thành niên. Căn cứ vào quyết định công nhận việc nhận cha, con hoặc kết quả xét
xử của tịa án, chị và anh ấy có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con chung hoặc
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Nếu không thỏa thuận được việc này, chị có thể khởi kiện
ra TAND để được xem xét, giải quyết. Đồng thời chị có thể liên hệ với UBND cấp xã
để đăng ký khai sinh cho con có ghi tên người cha hoặc ghi bổ sung phần khai về cha
trong sổ đăng ký khai sinh và bản chính giấy khai sinh của người con, nếu phần khai về
9


cha trước đây để trống. Khi đó chị có thể đặt họ cho con theo họ của cha (nếu chưa làm
khai sinh) hoặc làm thủ tục thay đổi họ của con từ họ của mẹ sang họ của cha (nếu đã
làm khai sinh và để con mang họ của mẹ).
3.3.Trường hợp nhận nuôi con nuôi.
Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 68 khoản 2, một người chỉ có
thể làm con ni của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng. Những người

chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không được coi là vợ chồng; bới
vậy, khi hai người chung sống như vợ chồng thống nhất ý chí về việc nhận con ni thì
chỉ có một người được phép tiến hành thủ tục nhận con nuôi; người chung sống như vợ
chồng với cha nuôi hoặc mẹ nuôi không thể là mẹ nuôi hoặc cha nuôi của nuôi.
4. Chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng.
4.1.Theo thỏa thuận hoặc theo ý chí của một bên.
Hai người chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hơn thì khơng được pháp
luật cơng nhận là vợ chồng chính thức, vì thế, quan hệ này không thể kết thúc bằng ly
hôn, trừ các trường hợp nêu tại điểm a và điểm b khoản 3 Nghị quyết của Quốc hội
ngày 09/6/2000 đã dẫn: không phải là vợ chồng hợp pháp các bên muốn chấm dứt cuộc
sống chung chỉ cần thôi chung sống. Trên thực tế, quan hệ vợ chồng khơng đăng ký kết
hơn có thể chấm dứt do một bên hoặc hai bên mà không làm phát sinh trách nhiệm
pháp lý đối với bên kia. Các bên có thể thỏa thuận để tự chấm dứt quan hệ đó. Một ví
dụ cụ thể là: N và H tổ chức lễ cưới vào tháng 1 /2009 nhưng không đăng ký kết hôn.
Đến tháng 3/ 2010, hai người xảy ra mâu thuẫn và muốn ly hôn. Trường hợp của hai
người sẽ được giải quyết thế nào?
Khoản 1 Điều 11 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Việc đăng ký
kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền…Nam, nữ khơng
đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì khơng được pháp luật cơng
nhận là vợ chồng". Với quy định trên, việc anh N và chị H tổ chức đám cưới mà không
làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã, phường theo quy định về đăng ký hộ tịch là
trái với quy định của pháp luật, do đó, hai người sẽ khơng được pháp luật cơng nhận là
vợ chồng. Cả hai đều có quyền được thỏa thuận chấm dứt việc sống chung với nhau, và
10


thỏa thuận trong việc giải quyết việc nuôi con và phân chia tài sản chung (nếu có). Do
khơng được pháp luật công nhận là vợ chồng nên hai người không thể u cầu Tịa án
giải quyết việc ly hơn theo quy định pháp luật. Điều 87 Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2000 quy định: “Trong trường hợp khơng đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn thì tịa

án thụ lý và tun bố khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều
11 của Luật này...”. Theo quy định này, trường hợp hai người không thỏa thuận được
với nhau việc chấm dứt chung sống thì bạn hoặc chồng bạn có quyền làm đơn yêu cầu
tòa án cấp quận, huyện nơi cư trú giải quyết. Tòa án sẽ thụ lý và ra Quyết định tuyên bố
không công nhận quan hệ vợ chồng.
4.2.Trường hợp một bên chết, mất tích hoặc vắng mặt.
Khi một bên chết, thì quan hệ chung sống như vợ chồng cũng đương nhiên chấm
dứt. Khác với quan hệ hợp pháp, quan hệ như vợ chồng cũng chấm dứt trong trường
hợp một bên ở trong tình trạng vắng mặt theo một thơng bào mất tích của Tịa án
hoặc bị Tịa án tun bố là mất tích. Bởi quan hệ chung sống như vợ chồng chỉ là sự
ràng buộc trên thực tế, đòi hỏi sự có mặt đầy đủ của cả hai bên sống chung một cách
thường xuyên tại nơi chung sống. Trong trường hợp một trong hai bên vắng mặt hoặc
mất tích, điều kiện đó khơng được thỏa mãn và quan hệ chung sống như vợ chồng
khơng cịn cơ sở vật chất để duy trì. Trong trường hợp người vắng mặt. mất tích lại
quay về thì ta ghi nhận một cuộc sống chung mới chứ không phải là sự tiếp tục sống
chung trước đây.
4.3, Hệ quả về tài sản khi hai người chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng.
Sau khi quan hệ chung sống như vợ chồng chấm dứt, việc thanh toán tài sản
được thực hiện như sau: tài sản riêng của nười nào, người đó lấy lại; tài sản thuộc sở
hữu chung theo phần được chia theo luật chung; người đóng góp vào việc làm tăng giá
trị của thuộc về người kia có quyền u cầu hồn lại phần giá trị gia tăng đó thei nội
dung các quy định về hiệu của tình trạng được lợi về tài sản mà khơng có căn cứ pháp
luật. Việc phân chia thỏa thuận có thể theo nguyện vọng của hai bên. Trong trường hợp
quan hệ như vợ chồng chấm dứt do một trong hai người chết, thì người cịn sống sẽ
11


thỏa thuận phân chia tài sản với những người thừa kế của người chết. Nếu các bên
không thỏa thuận được thì có quyền u cầu Tịa án giải quyết, việc Tòa án giải quyết
sẽ thực hiện trên cơ sở áp dụng các quy định liên quan đến việc thanh toán tài sản trong

trường hợp hủy hôn trái pháp luật ( Điều 87 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000).
Pháp luật nói chung khơng thừa nhận quyền thừa kế của người sống chung như
vợ chồng với di sản của người chết trước. Vì thế, nếu hai người chung sống với nhau
như vợ chồng mà khơng đăng ký kết hơn thì theo pháp luật quy định: kể từ ngày
1/11/2003 nam nữ chung sống với nhau như vậy thì sẽ khơng được pháp luật công
nhận là vợ chồng . Như vậy theo quy định trên thì khi một bên chết mà khơng để lại di
chúc gì thì bên cịn lại sẽ khơng được coi là người thừa kế của người đã cùng chung
sống và mất. Trong trường hợp này thì bố mẹ của người mất sẽ thuộc hàng thừa kế thứ
nhất. Nếu có tranh chấp về tài sản thì quyền lợi của người còn sống mà chung sống như
vợ chồng với người đã chết sẽ được giải quyết dựa trên nguyên tắc: Những tài sản mà
hai người tạo lập trong thời gian sống chung sẽ được chia đơi có tính đến cơng sức
đóng góp của mỗi bên. Người cịn sống phải chứng minh được tài sản nào là của riêng
mình thì tài sản đó mới thuộc về họ. Tuy nhiên, một khi quan hệ đã đặt cơ sở cho sự
hình thành và phát triển của một gia đình thực sự, có cha mẹ và con, thì người cịn sống
thường được những người khác trong gia đình coi như là người thừa kế hàng thứ nhất
của người chết. Nếu khơng có tranh chấp gì thì cơ quan cơng chứng vẫn dựa vào hơn
nhân thực tế để thừa nhận quyền thừa kế của người đó.
III/ Thực tế giải quyết về vấn đề quan hệ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn.
1. Xử phạt đối với những người chung sống với nhau như vợ chồng theo quy
định của pháp luật.
Theo quy định tại Nghị định số 76/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp không quy định hành vi không đăng ký kết
hôn là vi phạm hành chính. Việc hai người nam nữ chung sống như vợ chồng hoặc chỉ
tổ chức đám cưới, không thực hiện việc đăng ký kết hôn là hành vi không chấp hành
đúng nghĩa vụ tự giác đăng ký hộ tịch, ảnh hưởng đến trật tự quản lý nhà nước về hơn
nhân và gia đình. Nhưng quyền kết hơn là quyền nhân thân của mỗi cá nhân, việc đăng
12



ký kết hơn tại cơ quan hộ tịch có ý nghĩa là sự công nhận và bảo hộ của Nhà nước đối
với quan hệ hơn nhân đó.
Do vậy, đối với những trường hợp chung sống như vợ chồng, không đăng ký kết
hơn thì bản thân những người trong quan hệ đó phải chịu hệ quả là khơng được pháp
luật cơng nhận là vợ chồng theo quy định tại điều 11 - Luật Hơn nhân và Gia đình, đặc
biệt thiệt thịi bao giờ cũng thuộc về người phụ nữ nếu phải làm lại tất cả từ đầu.
Mặt khác, với ý nghĩa là quyền nhân thân, điều 39 - Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định nam, nữ có quyền tự do kết hơn khi có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của
pháp luật. Việc tự do kết hôn được hiểu là cá nhân có quyền quyết định việc kết hơn
theo ý chí tự nguyện của mình. Do đó, nếu anh chị không vi phạm chế độ hôn nhân một
vợ một chồng thì khơng bị xử phạt hành chính khi khơng có đăng ký kết hơn.
Cịn nếu hai người chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
nhằm trốn tránh việc kết hôn trái pháp luật thì sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định
của chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001.
2. Giải quyết một số trường hợp cụ thể về vấn đề chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn.
Trường hợp 1: Hai người cưới nhau nhưng không đăng ký kết hôn, chung sống với
nhau được bốn năm, có con chung, nay muốn ly hơn và trình đơn ra Tịa án thì sẽ xử
lý thế nào?Vấn đề tài sản sẽ được chia thế nào?
Về trường hợp này: Theo quy định tại Điều 87 của Luật hơn nhân và gia đình
quy định về việc thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, cụ thể như sau: “Trong trường hợp khơng
đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn thì Tồ án thụ lý và tuyên bố không công nhận
quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11”. Tại khoản 1 Điều 11 quy định về
thủ tục đăng ký kết hôn quy định: Nếu “Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung
sống với nhau như vợ chồng thì khơng được pháp luật cơng nhận là vợ chồng”. Nếu có
u cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17
13


của Luật hơn nhân và gia đình quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái

pháp luật như sau:
- Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan
hệ như vợ chồng.
- Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn.
- Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền
sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu khơng
thoả thuận được thì u cầu Tồ án giải quyết, có tính đến cơng sức đóng góp của mỗi
bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Theo quy định tại Điều 85 của Luật hơn nhân và gia đình về quyền u cầu Tồ
án giải quyết việc ly hơn thì: Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền u cầu Tồ án
giải quyết việc ly hơn. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ có thai hoặc đang ni con dưới
mười hai tháng tuổi thì người chồng khơng có quyền u cầu xin ly hơn.
Trường hợp 2: Hai người chung sống không đăng ký kết hôn, chỉ làm lễ ở nhà
thờ, nay muốn ly hơn thì tịa án có giải quyết khơng? Tài sản chung sẽ giải quyết thế
nào? Con của người vợ trước có được hưởng tài sản của cha không?
Theo quy định tại Điều 11 Luật Hơn nhân và gia đình: “Việc kết hơn phải được
đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền… thực hiện theo nghi thức quy định
tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của
Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ khơng đăng ký kết hơn mà chung sống
với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng…”.
Liên quan đến việc ly hôn, Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định:
“Trong trường hợp khơng đăng ký kết hơn mà có u cầu ly hơn thì tịa án thụ lý và
tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng…”.
Trong trường hợp này, nếu các bên có yêu cầu về tài sản thì giải quyết như
trường hợp hủy việc kết hôn trái pháp luật, cụ thể là tài sản được giải quyết theo
nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung
được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu tịa án
14



giải quyết, có tính đến cơng sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người phụ nữ và con.
Theo các quy định vừa viện dẫn thì trường hợp hai người chỉ làm lễ ở nhà thờ
mà khơng đăng ký kết hơn thì khơng được pháp luật công nhận là vợ chồng, nay do
mâu thuẫn muốn chấm dứt việc chung sống để lấy người khác thì phải làm đơn gửi đến
tịa án cấp quận, huyện nơi họ đang cư trú để đề nghị giải quyết. Tài sản chung sẽ được
chia theo thỏa thuận của các bên; nếu khơng thỏa thuận được thì tịa án sẽ giải quyết.
Việc cha mẹ chấm dứt việc chung sống sau khi bị tịa án tun bố khơng cơng
nhận quan hệ vợ chồng cũng không làm mất quyền thừa kế của con. Nếu người cha
chết khơng để lại di chúc thì người con đẻ sẽ được hưởng một suất thừa kế (theo pháp
luật) trong phần di sản của người cha.
C/ Kết thúc vấn đề
Vấn đề quan hệ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn là vấn đề
nổi trội hiện nay cần được quan tâm và dược pháp luật điều chỉnh cụ thể hơn. Theo tình
hình thực tế hiện nay thì việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn là rất phổ biến, phần vì do ngại khơng muốn thủ tục lằng nhằng, phần vì do khơng
thể lường hết được những tác động tiêu cực của vấn đề đó. Qua bài làm, em đã nêu ra
một số tiêu cực của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn như về
quyền nhân thân, tài sản và các quyền thừa kế. Vì thế, chúng ta nên nhận rõ được
những tác động tiêu cực của nó để xác định rõ khi bắt đầu quan hệ vợ chồng.

15



×