Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Tài liệu giảng bài môn quán lý tài chính nhà nước (cao học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.97 KB, 130 trang )

HỌC VIỆN HẬU CẦN
KHOA TÀI CHÍNH
***
TÀI LIỆU GIẢNG MÔN HỌC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
(DÙNG CHO CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH)
Hà Nội - 2011
2
HỌC VIỆN HẬU CẦN
KHOA TÀI CHÍNH
***
TÀI LIỆU GIẢNG MÔN HỌC
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
(DÙNG CHO CAO HỌC CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH)
Người biên soạn:
Đại tá, TS Phạm Trung Công
Thông qua HĐKH Khoa Tài chính tháng 01/2011
Hà Nội - 2011
Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
I- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Sự cần thiết khách quan của tài chính nhà nước
Tài chính nhà nước là một bộ phận hữu cơ của nền tài chính quốc
gia. Nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của Nhà nước và sự phát triển nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ Trong
nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, các nguồn lực vật chất, không những đã
được tiền tệ hoá và còn ngày càng trở nên dồi dào. Chính trong những
điều kiện như vậy, tài chính nhà nước mới ra đời, tồn tại và phát triển.
Tài chính nhà nước, không chỉ là công cụ động viên, khai thác mọi
nguồn lực tài chính của xã hội tạo nên sức mạnh tài chính của Nhà nước


mà còn là công cụ quản lý, điều chỉnh mọi hoạt động kinh tế xã hội của
mọi quốc gia. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, sự tồn tại, phát triển tài
chính nhà nước là một đòi hỏi khách quan và hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, để sử dụng có hiệu quả phạm trù tài chính nhà nước
trong thực tiễn, đòi hỏi trước hết phải nhận thức một cách đầy đủ, chính
xác phạm trù đó.
2. Khái niệm tài chính nhà nước
Trong thực tiễn đời sống xã hội, hoạt động tài chính thể hiện ra như
là các hiện tượng thu, chi bằng tiền - sự vận động của các nguồn tài chính
- gắn liền với việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế gắn liền với sự hoạt động của các chủ thể
trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau có các quỹ tiền tệ khác nhau
được hình thành và được sử dụng.
Quỹ tiền tệ của Nhà nước là một bộ phận hợp thành của hệ thống
các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế và có mối quan hệ hữu cơ với các quỹ
tiền tệ khác.
Gắn với chủ thể là Nhà nước, các quỹ tiền tệ của Nhà nước mang
tính đặc thù là việc tạo lập và sử dụng chúng luôn gắn liền với quyền lực
chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của
Nhà nước. Nói một cách khác, các quỹ tiền tệ của Nhà nước là tổng số các
nguồn lực tài chính đã được tập trung vào trong tay Nhà nước, thuộc
quyền nắm giữ của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng cho việc thực
4
hiện các sứ mệnh xã hội của mình. Trên quan niệm đó, quỹ tiền tệ của
Nhà nước, có thê được xem là sự tổng hợp của các quỹ tiền tệ chung của
Nhà nước và quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước.
Các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước bao gồm: quỹ Ngân sách Nhà
nước, quỹ tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Trung ương, các quỹ tiền tệ có
nguồn gốc chủ yếu từ Ngân sách Nhà nước như: quỹ dự trữ Nhà nước,
quỹ bình ổn giá, quỹ quốc gia giải quyết việc làm và một số quỹ có mục

tiêu khác.
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước kể
trên chính là quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài
chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của tài chính Nhà
nước.
Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là mặt biểu hiện bên ngoài
của tài chính Nhà nước, còn các quỹ tiền tệ Nhà nước nắm giữ là biểu
hiện nội dung vật chất của tài chính Nhà nước.
Tuy vậy, quá trình diễn ra các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà
nước tiến hành trên cơ sở các luật lệ do Nhà nước quy định đã làm nảy
sinh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Đó chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước tham
gia phân phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các
quỹ tiền tệ của Nhà nước. Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất
bên trong của tài chính Nhà nước, biểu hiện nội dung kinh tế xã hội của tài
chính Nhà nước.
Từ những phân tích trên đây có thể khái niệm tổng quát về tài chính
Nhà nước như sau:
Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do
Nhà nước tiến hành trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của
Nhà nước nhằm phục vụ thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà
nước, tài chính Nhà nước phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với các chủ thể khác trong xã hội nảy sinh trong quá trình Nhà nước
tham gia phân phối các nguồn tài chính.
Quan niệm tài chính Nhà nước như trên cho phép nhìn nhận một
cách đầy đủ, toàn diện về tài chính Nhà nước. Quan niệm đó vừa chỉ ra
mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính Nhà nước
là các quỹ tiền tệ của Nhà nước; vừa vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất
5
bên trong - nội dung kinh tế xã hội của tài chính Nhà nước là các quan hệ

kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước phân phối nguồn tài chính để
tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước.
Các quan hệ kinh tế cấu thành nội dung, bản chất tài chính Nhà
nước là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối còn gọi là các quan
hệ phân phối. Như đã biết, các quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ
sản xuất xã hội và chịu sự quy định của sản xuất xã hội mà trực tiếp là
quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Từ đó cho thấy, bản chất của tài chính
Nhà nước chịu sự chi phối của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Nói cách
khác, trong những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, thích ứng với những
chế độ sở hữu khác nhau, các quan hệ kinh tế cấu thành bản chất tài chính
Nhà nước cũng có những sự khác nhau ít nhiều. Sự khác nhau về nội dung
và bản chất đó của tài chính Nhà nước thể hiện ra thành sự khác nhau, sự
thay đổi trong nội dung các khoản thu, chi của tài chính Nhà nước. Đó là
điều cần nhận thức đầy đủ, để có thể có được chính sách thu, chi tài chính
phù hợp với những thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội làm cho tài chính
thực sự là công cụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội nảy sinh trong
quá trình phân phối.
Như đã phân tích ở trên, các quan hệ kinh tế cấu thành bản chất tài
chính Nhà nước nảy sinh do Nhà nước tiến hành các khoản thu, chi trên cơ
sở các luật lệ do Nhà nước quy định. Điều đó có nghĩa là, các quan hệ
kinh tế đó do Nhà nước định hướng và điều chỉnh thông qua các hoạt động
thu, chi của tài chính Nhà nước. Từ đó cho thấy, bản chất của tài chính
Nhà nước cũng chịu sự quy định bởi bản chất và phạm vi chức năng của
Nhà nước thích ứng với những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tài
chính Nhà nước thực sự trở thành công cụ của Nhà nước để phục vụ và
thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước sử dụng tài chính Nhà
nước thông qua các chính sách thu, chi của tài chính Nhà nước để tác
động tới sự phát triển kinh tế xã hội nhằm giữ vững các quan hệ tỷ lệ hợp
lý và thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô do Nhà nước định hướng.
Mặt khác, cũng cần chỉ rõ rằng, các hoạt động thu, chi tài chính của

Nhà nước không diễn ra trong phạm vi nội bộ nền kinh tế của một quốc
gia mà còn được thực hiện trong quan hệ kinh tế với các quốc gia khác.
Do đó, các quan hệ cấu thành nội dung, bản chất tài chính Nhà nước còn
bao gồm các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước tham gia
vào các quan hệ đối ngoại để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của
mình. Phạm vi và mức độ của các quan hệ đó chịu sự chi phối bởi phạm vi
6
và mức độ của các quan hệ kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Trong điều
kiện hiện nay, với xu hướng hoà nhập, hội nhập, mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, các quan hệ tài
chính đối ngoại của Nhà nước sẽ ngày càng phát triển và theo đó các
chính sách thu, chi của tài chính Nhà nước trong quan hệ đối ngoại cũng
sẽ có ít nhiều thay đổi. Những sự thay đổi đó là hợp xu thế của thời đại.
Vấn đề còn lại là cần lựa chọn hướng đi đúng đắn để sử dụng các quan hệ
tài chính đối ngoại của Nhà nước phục vụ có hiệu quả cho việc thực hiện
các định hướng phát triển đất nước.
3. Đặc điểm của tài chính Nhà nước
Luôn luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng nhiều mặt của
Nhà nước, hoạt động của tài chính Nhà nước cũng rất đa dạng, liên quan
đến mọi lĩnh vực kinh tế xã hội và tác động tới mọi chủ thể trong xã hội.
Chính nét đặc thù đó là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới các đặc điểm
của tài chính Nhà nước. Có thể khái quát đặc điểm của tài chính Nhà nước
trên các khía cạnh sau đây:
3.1. Đặc điểm về nguồn hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước
Xét về nội dung vật chất, tài chính Nhà nước bao gồm các quỹ tiền
tệ thuộc quyền nắm giữ và sử dụng của Nhà nước. Các quỹ tiền tệ đó là
một lượng nhất định các nguồn tài chính của toàn xã hội đã được tập trung
vào tay Nhà nước, hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước.
Việc hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước có các đặc điểm
chủ yếu là:

Thứ nhất, thu nhập của tài chính Nhà nước có thể được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau, cả trong nước và ngoài nước; từ nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau, cả sản xuất, lưu thông và phân phối, nhưng nét đặc trưng
là luôn gắn chặt với kết quả của hoạt động kinh tế trong nước và sự vận
động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, thu nhập, lãi suất
Kết quả của các hoạt động kinh tế trong nước được đánh giá bằng
các chỉ tiêu chủ yếu như: mức tăng trưởng GDP, tỷ suất doanh lợi của nền
kinh tế Đó là các nhân tố khách quan quyết định mức động viên của tài
chính Nhà nước.
Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự
tăng giảm mức động viên của tài chính Nhà nước, vừa đặt ra yêu cầu sử
7
dụng hợp lý các công cụ thu tài chính Nhà nước để điều tiết các hoạt động
kinh tế xã hội cho phù hợp với sự biến động của các phạm trù giá trị.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm trên có ý nghĩa quan trọng, rằng, trong
tổng thu nhập của tài chính Nhà nước phải coi nguồn thu trong nước là
chủ yếu, trong đó, chủ yếu là nguồn của cải mới được sáng tạo ra trong
các ngành sản xuất. Khái niệm sản xuất ngày nay được hiểu bao gồm
không chỉ các hoạt động sản xuất, mà cả các hoạt động dịch vụ. Từ đó,
của cải mới được sáng tạo trong các ngành sản xuất không chỉ do các hoạt
động sản xuất vật chất, mà còn do các hoạt động dịch vụ tạo ra. ở các
quốc gia phát triển và các xã hội văn minh, các hoạt động dịch vụ phát
triển rất mạnh và nguồn của cải xã hội được tạo ra ở đây cũng có xu
hướng ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn. Đối với Việt Nam, xu hướng
đó cũng là tất yếu. Như vậy, cùng với các hoạt động sản xuất vật chất, các
hoạt động dịch vụ là nơi tạo ra nguồn tài chính chủ yếu của quốc gia,
nguồn thu chủ yếu của tài chính Nhà nước. Do đó, để tăng thu tài chính
Nhà nước, con đường chủ yếu phải là tìm cách mở rộng sản xuất và nâng
cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, thu nhập của tài chính Nhà nước có thể được lấy về bằng

nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, có bắt buộc và tự nguyện, có
hoàn trả và không hoàn trả, ngang giá và không ngang giá nhưng, nét đặc
trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính
cưỡng chế bằng hệ thống luật lệ do Nhà nước quy định và mang tính không
hoàn trả là chủ yếu.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đầy đủ đặc điểm này là ở chỗ,
để việc sử dụng các hình thức và phương pháp động viên của tài chính
Nhà nước hợp lý đòi hỏi phải xem xét đến tính chất, đặc điểm của các hoạt
động kinh tế - xã hội và yêu cầu phát huy vai trò đòn bẩy của các công cụ
tài chính trong phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính phù hợp với
tình hình, đặc điểm của từng thời kỳ phát triển xã hội.
3.2. Đặc điểm về tính chất sở hữu của tài chính Nhà nước
Tài chính Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước, do đó, Nhà nước là
chủ thể duy nhất quyết định việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước.
Việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước, đặc biệt là ngân sách
Nhà nước, luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại và
phát huy hiệu lực của bộ máy Nhà nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
8
Các nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của một quốc gia trong
từng thời kỳ phát triển được quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước - Quốc hội, do đó, Quốc hội là chủ thể duy nhất quyết định
cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản thu chi ngân sách Nhà nước - quỹ tiền
tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước - tương ứng với các nhiệm vụ đã được
hoạch định nhằm đảm bảo thực hiện có kết quả các nhiệm vụ đó.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm về tính chất sở hữu của tài chính Nhà
nước có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền lãnh đạo tập
trung thống nhất của Nhà nước, loại trừ sự chia sẻ, phân tán quyền lực
trong việc điều hành ngân sách Nhà nước; nhận thức kể trên cũng cho
phép xác định quan điểm định hướng trong việc sử dụng tài chính làm

công cụ điều chỉnh và xử lý các quan hệ kinh tế xã hội, trong hệ thống
các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nảy sinh khi Nhà nước tham gia
phân phối các nguồn tài chính thì lợi ích quốc gia, lợi ích toàn thể bao
giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác.
3.3. Đặc điểm về tính hiệu quả của chi tiêu tài chính Nhà nước
Chi tiêu của tài chính Nhà nước là việc phân phối và sử dụng các
quỹ tiền tệ (vốn) của Nhà nước.
Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cơ sở,
hiệu quả của việc sử dụng vốn thường được đánh giá bằng các chỉ tiêu
định lượng như: tổng số lợi nhuận thu được trong kỳ, số vòng quay của
vốn lưu động trong kỳ, chỉ tiêu doanh lợi/vốn, doanh lợi/chi phí, giá
thành.
Khác với các hoạt động sản xuất kinh doanh ở cơ sở, tầm vi mô,
việc dựa vào các chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả các khoản chi
của tài chính Nhà nước sẽ gặp phải khó khăn và sẽ không cho phép có cái
nhìn toàn diện. Bởi vì, chi tiêu của tài chính Nhà nước không phải là
những chi tiêu gắn liền trực tiếp với các hoạt động sản xuất kinh doanh
ở các đơn vị cơ sở, mà là những chi tiêu gắn liền với việc thực hiện các
chức năng của Nhà nước, tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu
chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội - tầm vĩ mô. Mặc dù hiệu quả của
các khoản chi tiêu của tài chính Nhà nước trên những khía cạnh cụ thể vẫn
có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng như vay nợ, một số vấn đề xã
hội nhưng xét về tổng thể, hiệu quả đó thường được xem xét trên tầm vĩ
mô. Điều đó có nghĩa là, hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ của
Nhà nước phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành
9
các mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra mà các khoản chi của tài chính Nhà
nước phải đảm nhận.
Thông thường việc đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính Nhà nước
dựa vào hai tiêu thức cơ bản: lợi ích và chi phí bỏ ra.

Nhận thức đúng đắn đặc điểm kể trên có ý nghĩa quan trọng trong
việc định hướng và có biện pháp sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước tập
trung vào việc xử lý các vấn đề của kinh tế vĩ mô như: đầu tư để tác động
đến việc hình thành cơ cấu kinh tế mới; cấp phát kinh phí cho việc thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực; bồi dưỡng nhân tài; thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; hỗ trợ giải quyết việc
làm và xoá đói, giảm nghèo; góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định thị
trường, giá cả; đảm bảo kinh phí cho việc thực hiện mục tiêu xoá bỏ các tệ
nạn xã hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường thiên
nhiên
3.4. Đặc điểm về phạm vi hoạt động của tài chính Nhà nước
Gắn liền với bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện các
chức năng của Nhà nước và vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với
toàn bộ nền kinh tế, phạm vi ảnh hưởng của tài chính Nhà nước rất rộng
rãi, có thể tác động tới các hoạt động khác nhau nhất của mọi lĩnh vực
kinh tế xã hội.
Thông qua quá trình phân phối các nguồn tài chính, tài chính Nhà
nước có khả năng động viên, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia
vào tay Nhà nước từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế xã
hội; đồng thời, bằng việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước, tài chính
Nhà nước có khả năng tác động tới mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội,
đạt tới những mục tiêu đã định.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc
sử dụng tài chính Nhà nước, thông qua thuế và chi tài chính Nhà nước, để
góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội được đặt ra trong từng thời
kỳ khác nhau của sự phát triển xã hội. Cần thiết phải nhấn mạnh rằng,
trong các vấn đề kinh tế xã hội được đặt ra và đòi hỏi phải được giải
quyết, các vấn đề xã hội và môi trường là những vấn đề mà khu vực tư
nhân và hộ gia đình không có khả năng hoặc chỉ có thể góp được một
phần rất nhỏ thì việc sử dụng tài chính Nhà nước, đặc biệt là chi tài chính

Nhà nước để khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực và đạt tới những mặt
tiến bộ, tích cực là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần quyết định
10
trong việc thực hiện các mục tiêu và yêu cầu cần đạt được của sự phát
triển xã hội.
4. Chức năng của tài chính Nhà nước
4.1. Chức năng phân bổ nguồn lực
Chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước là chức năng
mà nhờ vào đó các nguồn lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước được tổ
chức, sắp xếp, phân phối một cách có tính toán, cân nhắc theo những tỷ lệ
hợp lý nhằm nâng cao tính hiệu quả kinh tế xã hội của việc sử dụng các
nguồn tài lực đó và bảo đảm cho nền kinh tế phát triển vững chắc và ổn
định theo các tỷ lệ cân đối đã định của chiến lược và kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội.
Đương nhiên, ngày nay trong một nền kinh tế đang chuyển đổi như
ở nước ta, việc phân bổ nguồn lực không chỉ duy nhất do tài chính Nhà
nước thực hiện mà còn có sự tham gia của các khâu tài chính khác. Xu
hướng chung là chức năng này đối với tài chính Nhà nước đang có chiều
hướng giảm dần.
Ở nước ta, trong những năm trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế vận
hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước thực hiện chế độ bao
cấp nguồn tài chính từ ngân sách cho phần lớn các hoạt động kinh tế xã
hội. Trong điều kiện đó, có người đã lầm tưởng mà ngộ nhận rằng, ngân
sách Nhà nước ta là ngân sách của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thực ra,
khi đó ngân sách Nhà nước chỉ giữ vai trò như một cái túi đựng số thu của
Nhà nước và để rồi chia nhỏ nó cho các hoạt động mà không biết tính hiệu
quả của nó. Cũng chính trong điều kiện đó, chức năng phân bổ của tài
chính Nhà nước, tưởng như một chức năng rất quan trọng, bao trùm của
tài chính Nhà nước, nhưng lại không phải là một khả năng để phát huy vai
trò thực sự quan trọng của tài chính Nhà nước đối với các hoạt động kinh

tế xã hội dưới sự điều khiển của Nhà nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, với việc Nhà nước từ bỏ dần
những sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế xã hội, để chủ yếu
thực hiện chức năng quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, việc bao cấp
nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước cho các hoạt động kinh tế xã hội
cũng giảm dần. Trong điều kiện mới đó, chức năng phân bổ của tài chính
Nhà nước cũng được sử dụng theo cách khác hơn. Các nguồn lực tài chính
từ ngân sách được phân bổ có sự lựa chọn, cân nhắc, tính toán hơn, có
11
trọng tâm, trọng điểm hơn. Điều đó thể hiện xu hướng mới trong việc sử
dụng chức năng này của tài chính Nhà nước.
Vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước
vào đời sống thực tiễn, con người tổ chức quá trình động viên các
nguồn lực tài chính thuộc quyền chi phối của Nhà nước để tạo lập các
quỹ tiền tệ của Nhà nước và tổ chức quá trình phân phối, sử dụng các
quỹ tiền tệ đó cho các mục đích đã định.
Trong các quá trình kể trên, Nhà nước là chủ thể phân bổ với tư
cách là người có quyền lực chính trị, hoặc là người có quyền sở hữu, hoặc
là người có quyền sử dụng các nguồn tài chính và các nguồn lực tài chính
thuộc quyền chi phối của Nhà nước chính là đối tượng phân bổ.
Kết quả trực tiếp của việc vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực
qua tài chính Nhà nước là các quỹ tiền tệ của Nhà nước được tạo lập, được
phân phối và được sử dụng. Đến lượt nó, việc tạo lập, phân phối và sử
dụng một cách đúng đắn, hợp lý các quỹ tiền tệ đó, tức là sự phân bổ một
cách tối ưu các nguồn lực tài chính thuộc quyền chi phối của Nhà nước lại
có tác động mạnh mẽ tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính;
thúc đẩy hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế xã hội bằng việc tính
toán, sắp xếp các tỷ lệ cân đối quan trọng trong phân bổ các nguồn tài
chính. Một sự phân bổ như thế sẽ là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng tới
sự phát triển vững chắc và ổn định của nền kinh tế.

Những kết quả cần phải đạt được đó của sự phân bổ có thể được coi
là những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ đúng đắn, hợp lý của việc sử
dụng công cụ tài chính Nhà nước trong việc phân bổ các nguồn lực tài
chính. Bên cạnh các tiêu chuẩn đó, đòi hỏi sự phân bổ phải được tính toán
trên cơ sở thực lực nguồn tài chính của toàn xã hội và của Nhà nước, có
cân nhắc cho phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước trong từng thời
kỳ và theo sát các kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà
nước cũng là một tiêu chuẩn không kém phần quan trọng.
Chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước là chức
năng được đề cập với sự quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh kinh tế của
sự phân phối. Phân bổ nguồn lực tài chính qua tài chính Nhà nước mà
Nhà nước là chủ thể phải nhằm đạt tới các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là
hiệu quả, ổn định và phát triển.
Nhằm đạt những mục tiêu kể trên, phân bổ nguồn lực tài chính của
tài chính Nhà nước phải chú ý xử lý hợp lý mối quan hệ giữa khu vực Nhà
12
nước và khu vực tư nhân. Những tỷ lệ hợp lý trong phân bổ nguồn lực tài
chính sẽ đảm bảo nâng cao tính hiệu quả trên cả hai khía cạnh thuế khoá
và chi tiêu của Nhà nước, từ đó, có tác dụng vừa thúc đẩy tập trung vốn
vào tay Nhà nước, vừa thúc đẩy tích tụ vốn ở các đơn vị cơ sở; vừa thúc
đẩy tăng tiết kiệm trong khu vực Nhà nước, vừa thúc đẩy tăng tiết kiệm và
tăng đầu tư trong khu vực tư nhân. Những điều đó sẽ là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng tới sự phát triển và ổn định kinh tế.
4.2. Chức năng phân phối thu nhập
Chức năng phân phối thu nhập của tài chính Nhà nước là chức năng
mà nhờ vào đó tài chính Nhà nước được sử dụng vào việc phân phối và
phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu
công bằng xã hội trong phân phối và hưởng thụ kết quả của sản xuất xã
hội.
Trong chức năng này, chủ thể phân phối là Nhà nước chủ yếu trên

tư cách là người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối là các
nguồn tài chính đã thuộc sở hữu Nhà nước hoặc đang từ thu nhập của các
pháp nhân và thể nhân trong xã hội.
Công bằng trong phân phối biểu hiện trên 2 khía cạnh là công bằng
về mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội. Như đã biết, công bằng về
kinh tế là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường. Do giá cả thị trường
quyết định mà việc đưa các yếu tố vào (chi tiêu) và việc thu nhận các yếu
tố (thu nhập) là tương xứng với nhau, nó được thực hiện theo sự trao đổi
ngang giá trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. Chẳng hạn, việc phân
phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân được thực hiện theo nguyên tắc phân
phối theo lao động, trong đó, cá nhân bằng việc bỏ lao động ra mà có được
thu nhập, nhưng thu nhập mà họ nhận được (thù lao cho lao động) là
tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ bỏ ra. Đó là sự
công bằng về kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do những yếu
tố sản xuất của các chủ thể kinh tế hoặc cá nhân không giống nhau, do sự
không giống nhau về sức khoẻ, độ thông minh bẩm sinh, hoàn cảnh gia
đình mà thu nhập của các chủ thể kinh tế hoặc của các cá nhân có sự
chênh lệch. Sự chênh lệch thu nhập này vượt quá giới hạn nào đó sẽ dẫn
đến vấn đề không công bằng xã hội. Như vậy, công bằng xã hội là yêu cầu
của xã hội trong việc duy trì sự chênh lệch về thu nhập trong mức độ và
13
phạm vi hợp lý thích ứng với từng giai đoạn mà xã hội có thể chấp nhận
được.
Trong lĩnh vực này, tài chính Nhà nước, đặc biệt là ngân sách Nhà
nước, được sử dụng làm công cụ để điều chỉnh lại thu nhập mà các chủ thể
trong xã hội đang nắm giữ. Sự điều chỉnh này được thực hiện theo 2
hướng là điều tiết bớt các thu nhập cao và hỗ trợ các thu nhập thấp. Đối
với những thu nhập do thị trường hình thành như tiền lương của người lao
động, lợi nhuận doanh nghiệp, thu nhập về cho thuê, thu nhập về tài sản,

thu nhập về lợi tức cổ phần thì chức năng của tài chính Nhà nước là
thông qua việc phân phối lại để điều tiết. Những nhu cầu như y tế, bảo vệ
sức khoẻ, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội thì tài chính Nhà nước thực
hiện sự phân phối tập trung từ nguồn tài chính đã được tập trung trong tay
Nhà nước (cùng với việc thực hiện xã hội hoá và đa dạng hoá các nguồn
tài chính cho các hoạt động này).
Trong việc điều tiết thu nhập, thu thuế là biện pháp chủ yếu. Thông
qua các thứ thuế gián thu để điều tiết tương đối giá cả của các loại hàng
hoá, từ đó điều tiết sự phân phối các yếu tố sản xuất của các chủ thể kinh
tế. Thông qua thuế thu nhập doanh nghiệp để điều tiết lợi nhuận của doanh
nghiệp. Thông qua thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập lao động và
thu nhập phi lao động của cá nhân (thu nhập về tài sản, tiền cho thuê, lợi
tức ). Thông qua công cụ thuế, các thu nhập cao được điều tiết bớt một
phần và được tập trung vào ngân sách Nhà nước.
Trong việc hỗ trợ thu nhập, chi tài chính Nhà nước là biện pháp
chủ yếu. Ngân sách Nhà nước sử dụng các nguồn tài chính đã tập trung
được, trong đó có một phần là nguồn tài chính điều tiết từ các thu nhập
cao, để chi cho các vấn đề xã hội kể trên nhằm hỗ trợ thu nhập cho
những người có thu nhập thấp. Như vậy, với tư cách là chủ thể của chức
năng phân phối thu nhập, Nhà nước đóng vai trò như người trung gian
trong việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, hạ thấp bớt các
thu nhập cao và nâng cao thêm các thu nhập thấp nhằm rút ngắn độ
chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân.
Những phân tích kể trên cho thấy phân phối và tái phân phối thu
nhập trở thành một đòi hỏi khách quan của xã hội. Kết quả của việc thực
hiện chức năng này của tài chính Nhà nước chính là nhờ nó có thể điều
chỉnh để có được một khoảng cách hợp lý về thu nhập giữa các tầng lớp
14
dân cư nhằm hướng tới mục tiêu công bằng xã hội cho mọi thành viên xã
hội.

Khác với chức năng phân bổ nguồn lực, chức năng phân phối thu
nhập của tài chính Nhà nước được đề cập với sự quan tâm nhiều hơn tới
khía cạnh xã hội của sự phân phối.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là cần nhận thức và xử lý hợp
lý mối quan hệ giữa mục tiêu công bằng là mục tiêu hiệu quả của kinh tế
vĩ mô. Trong nhiều trường hợp, để đạt tới mục tiêu công bằng, sự phân
phối lại làm tổn hại tới mục tiêu hiệu quả. Chẳng hạn: một sự đánh thuế
quá cao vào thu nhập sẽ hạn chế tác động thúc đẩy tăng tiết kiệm và tăng
đầu tư của tư nhân, đồng thời, có thể dẫn đến hiện tượng tìm cách trốn
thuế tức là làm giảm tính hiệu quả của việc thu thuế do tình trạng quá tải
của thuế mang lại. Một ví dụ khác: một sự trợ cấp xã hội tràn lan, thiếu
tính toán cân nhắc dễ dẫn đến tâm lý chờ được cứu tế, giảm tính tích cực
lao động, đồng thời làm giảm tác dụng tăng tiết kiệm của khu vực Nhà
nước
Do đó, một sự tính toán cân nhắc trong chính sách phân phối và tái
phân phối thu nhập để có thể đạt tới mục tiêu công bằng trên cơ sở đảm
bảo tính hiệu quả kinh tế của sự phân phối và ít ảnh hưởng nhất tới mục
tiêu hiệu quả là điều có ý nghiã đặc biệt quan trọng nhằm sử dụng tài
chính Nhà nước làm công cụ thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
4.3. Chức năng điều chỉnh và kiểm soát
Để quản lý một cách hữu hiệu các hoạt động kinh tế xã hội, việc
tiến hành điều chỉnh và kiểm soát thường xuyên là sự cần thiết khách
quan. Với tư cách là một công cụ quản lý trong tay Nhà nước, tài chính
Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh và kiểm soát như một sứ mệnh
xã hội tất yếu.
Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước là khả
năng khách quan của tài chính Nhà nước để có thể thực hiện việc điều
chỉnh lại quá trình phân phối các nguồn lực tài chính và xem xét lại tính
đúng đắn, tính hợp lý của các quá trình phân phối đó trong mọi lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế quốc dân.

Đối tượng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước trước hết
là quá trình phân bổ các nguồn lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước.
Nói khác đi, đó là quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ mà Nhà
15
nước nắm giữ. Tuy nhiên, cần nhận rõ rằng, việc tạo lập phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước lại luôn có mối liên hệ hữu cơ với việc
lập phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mọi chủ thể kinh tế xã hội
khác và được tiến hành trên cơ sở các chính sách, chế độ do Nhà nước quy
định. Do đó, đối tượng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước
không chỉ là bản thân quá trình phân phối của tài chính Nhà nước mà còn
là các quá trình phân phối các nguồn tài chính ở mọi chủ thể kinh tế xã hội
theo các yêu cầu đặt ra của các chính sách thu, chi tài chính.
Với đối tượng điều chỉnh và kiểm soát như vậy, có thể nhận thấy
rằng, phạm vi điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước là rất rộng
rãi, nó bao trùm mọi lĩnh vực kinh tế xã hội trong suốt quá trình diễn ra
các hoạt động phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ.
Điều chỉnh và kiểm soát có cùng đối tượng quản lý và tác động, đó
là quá trình phân phối các nguồn lực tài chính, quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ, nhưng giữa chúng vẫn có những sự khác nhau về nội
dung và cách thức quản lý và tác động.
Nội dung của kiểm soát - kiểm tra quá trình vận động của các
nguồn tài chính là: kiểm tra việc khai thác, phân bổ và sử dụng các
nguồn lực tài chính; kiểm tra tính cân đối, tính hợp lý của việc phân bổ
và kiểm tra tính tiết kiệm, tính hiệu quả của việc sử dụng chúng. Còn
nội dung của điều chỉnh quá trình vận động của các nguồn tài chính là:
điều chỉnh về mặt tổng lượng của nguồn tài chính nhằm đạt tới cân đối
về tổng lượng cung cấp vốn và tổng lượng nhu cầu vốn; điều tiết cơ cấu
và mối quan hệ tỷ lệ giữa các mặt trong phân bổ các nguồn tài chính
như: quan hệ tỷ lệ giữa tích luỹ với tiêu dùng, giữa tiêu dùng xã hội với

tiêu dùng cá nhân, giữa trung ương với địa phương, giữa các ngành
Kiểm soát quá trình vận động của các nguồn tài chính được thực
hiện thông qua đồng tiền và dựa vào kế hoạch, nó được tiến hành trong
suốt quá trình kế hoạch hoá tài chính từ khi xây dựng, xét duyệt, quyết
định, thực hiện kế hoạch và cả sau khi kế hoạch đã thực hiện xong. Việc
kiểm tra - kiểm soát được thực hiện ở trạng thái tĩnh, trong phạm vi nhất
định và thường mang tính chất độc quyền. Còn điều chỉnh quá trình vận
động của các nguồn tài chính có thể được thực hiện thông qua nhiều công
cụ như kế hoạch, pháp luật, hành chính, các đòn bẩy kinh tế, trong đó
quan trọng và chủ yếu nhất là các đòn bẩy tài chính và tín dụng. Điều
16
chỉnh được thực hiện trong trạng thái động - trạng thái biến đổi và có
phạm vi rộng lớn, mang tính khách quan nhiều hơn.
Mặc dù có những nét khác nhau như vậy, nhưng giữa điều chỉnh
và kiểm soát lại gắn bó mật thiết với nhau, đều nhằm mục đích cuối
cùng là thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược đã đặt ra, đảm bảo cho
nền kinh tế quốc dân phát triển một cách cân đối, ổn định và vững chắc.
Mối quan hệ giữa điều chỉnh và kiểm soát được thể hiện trên hai mặt: 1.
Trên cơ sở kết quả của kiểm tra phát hiện những mất cân đối, bất hợp lý
trong quá trình phân bổ các nguồn tài chính mà tiến hành những điều
chỉnh cần thiết để đảm bảo cho quá trình đó được hợp lý, đúng đắn hơn.
Như vậy, kiểm tra như là chỗ dựa và quỹ đạo của điều chỉnh; 2. Ngược
lại, kiểm tra có thực hiện được hay không và vận dụng có kết quả hay
không lại phụ thuộc vào sự hợp lý, đúng đắn của điều chỉnh. Bởi vì, các
quan hệ tỷ lệ trong phân bổ các nguồn lực tài chính do điều chỉnh tiến
hành chính là cơ sở để kiểm tra xem xét tính đúng đắn, hợp lý của nó.
Vì những quan hệ nội tại khăng khít đó, điều chỉnh và kiểm soát gắn bó
với nhau cấu thành nội dung chức năng điều chỉnh và kiểm soát của tài
chính Nhà nước.
Kết quả của điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước được

thể hiện trên các khía cạnh:
Thứ nhất, đảm bảo cho việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ
tiền tệ của Nhà nước được đúng đắn, hợp lý, đạt kết quả tối đa theo các
mục tiêu, yêu cầu đã định. Việc bảo đảm đó được thực hiện, trước hết,
nhờ tính tự động của điều chỉnh đối với các quá trình phân bổ trên cơ sở
các điều kiện thực tế và đòi hỏi khách quan của sự phát triển; sau nữa qua
kiểm tra mà phát hiện ra những bất hợp lý của quá trình phân bổ để có thể
hiệu chỉnh lại quá trình đó theo các mục tiêu và yêu cầu đã định.
Thứ hai, góp phần điều chỉnh quá trình phân phối các nguồn tài
chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế xã
hội khác, đảm bảo cho các hoạt động thu, chi bằng tiền ở đó được thực
hiện theo đúng các quy định của chính sách chế độ Nhà nước.
Các chức năng của tài chính Nhà nước là sự thể hiện bản chất của
tài chính Nhà nước. Vận dụng các chức năng này vào hoạt động thực tiễn,
tài chính Nhà nước sẽ phát huy những vai trò to lớn của nó.
17
5. Các bộ phận cấu thành của tài chính Nhà nước
5.1. Theo chủ thể quản lý, tức là theo tính chất, đặc điểm của các hoạt
động tài chính Nhà nước, có thể chia tài chính Nhà nước thành các bộ phận:
- Tài chính chung của Nhà nước.
- Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước.
- Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước.
- Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước.
5.1.1. Tài chính chung của Nhà nước
Tài chính chung của Nhà nước tồn tại và hoạt động gắn liền với
việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước. Theo tính chất của
các quỹ tiền tệ, tài chính chung của Nhà nước bao gồm các bộ phận: Ngân
sách Nhà nước, tín dụng Nhà nước, Dự trữ Nhà nước, Ngân hàng Nhà
nước Trung ương.
Ngân sách Nhà nước là mắt khâu quan trọng nhất giữ vị trí chủ đạo

trong tài chính Nhà nước. Thu của ngân sách nhà nước được lấy từ mọi
lĩnh vực kinh tế xã hội, dưới nhiều hình thức và phương pháp khác nhau,
trong đó, thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên tính cưỡng chế là chủ
yếu. Chi tiêu của ngân sách nhằm duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước
và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Đặc tính chủ yếu của
ngân sách Nhà nước là sự phân phối không có tính chất hoàn trả trực tiếp.
Tín dụng Nhà nước là một mắt khâu quan trọng của tài chính Nhà
nước. Tín dụng Nhà nước hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện và có
hoàn trả. Tín dụng Nhà nước thường được sử dụng nhằm hỗ trợ ngân sách
Nhà nước trong những trường hợp cần thiết.
Dự trữ Nhà nước là một khâu quan trọng của tài chính Nhà nước.
Thu nhập của nó chủ yếu được trích từ ngân sách Nhà nước với tính
chất dự trữ nhằm đề phòng, ngăn ngừa và đáp ứng những nhu cầu bất
thường không lường trước được mà ngân sách Nhà nước phải đảm
nhận. Như vậy, chi tiêu của dự trữ Nhà nước là để hỗ trợ ngân sách Nhà
nước trong những trường hợp đặc biệt.
Ngân hàng Nhà nước Trung ương là một mắt khâu rất quan trọng
của tài chính Nhà nước. Quỹ tiền tệ được tạo lập và sử dụng ở mắt khâu
này chủ yếu nhằm mục đích điều hoà lưu thông tiền tệ giữ vững sự ổn
định của kinh tế vĩ mô.
18
5.1.2. Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước
Các cơ quan hành chính Nhà nước bao gồm cả ba hệ thống các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp các cấp từ Trung ương đến địa
phương. Có thể kể đến các bộ phận điển hình như: Văn phòng Quốc hội
và Văn phòng HĐND các cấp; Văn phòng Chính phủ và Văn phòng
UBND các cấp; Văn phòng các Bộ và Văn phòng các Sở; Toà án nhân dân
các cấp
Thu nhập của bộ phận tài chính này chủ yếu do ngân sách Nhà nước
đảm bảo. Chi tiêu của nó nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của bộ

máy Nhà nước như: chi về trả lương, mua sắm đồ đạc, dụng cụ và chi về
các nghiệp vụ hành chính
5.1.3. Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước
Các đơn vị sự nghiệp Nhà nước là các đơn vị thực hiện cung cấp
các dịch vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì hoạt động bình
thường của các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này
không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Các đơn
vị này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - xã hội. Hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế có các đơn vị sự nghiệp của các ngành như: sự nghiệp
nông nghiệp, lâm nghiệp, giao thông, thuỷ lợi
Do hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự
nghiệp số thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu. Do
đó, thu nhập của các đơn vị này chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp toàn
bộ hoặc một phần. Với các dịch vụ kể trên, chi tiêu cả các đơn vị này
chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Từ các nội dung kể trên của tài chính công có thể nhận thấy chính
sách tài chính công là phương thức mà Nhà nước sử dụng để tác động đến
các hoạt động kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô, trong đó, chính sách ngân sách
là bộ phận hạt nhân giữ vai trò quyết định.
5.1.4. Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước ở đây được hiểu là các doanh nghiệp mà
Nhà nước là một chủ sở hữu. Các doanh nghiệp này có thể có hai loại:
- Loại doanh nghiệp do Nhà nước cấp vốn toàn phần (100%).
19
- Loại doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ góp một phần vốn - doanh
nghiệp cổ phần, trong đó cổ phần của Nhà nước có thể là cổ phần chi phối,
có thể là cổ phần đặc biệt.
Các doanh nghiệp Nhà nước theo quan niệm sở hữu kể trên có thể
hoạt động trên hai lĩnh vực:
- Lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phi tài chính,

thường gọi là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ tài chính như các ngân hàng
thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm thường gọi là các tổ
chức tài chính trung gian hay doanh nghiệp tài chính.
Các doanh nghiệp Nhà nước kể trên là các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Do đó, phương thức quản lý
các doanh nghiệp này cũng tương tự như phương thức quản lý đối với mọi
doanh nghiệp khác.
5.2. Theo nội dung quản lý hay mục đích và cơ chế hoạt động của các
quỹ thuộc TCNN có thể chia TCNN thành các bộ phận:
- Ngân sách Nhà nước
- Tín dụng Nhà nước
- Các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước
5.2.1. Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là công cụ tài chính chủ yếu của Nhà nước
phục vụ cho sự tồn tại hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện các
chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là một hệ
thống bao gồm các cấp ngân sách phù hợp với hệ thống chính quyền Nhà
nước các cấp. Tương ứng với các cấp ngân sách của hệ thống NSNN, quỹ
NSNN được chia thành, quỹ ngân sách của Chính phủ Trung ương, quỹ
ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương, quỹ ngân sách của
chính quyền cấp huyện và tương đương, quỹ ngân sách của chính quyền
cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
chính quyền Nhà nước các cấp, quỹ ngân sách lại được chia thành nhiều
quỹ nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau, như: quỹ dùng cho phát
triển kinh tế; quỹ cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, quỹ cho các biện
pháp xã hội, an ninh, quốc phòng
20
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng quỹ
ngân sách Nhà nước là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính

trị của Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
5.2.2. Tín dụng Nhà nước
Tín dụng Nhà nước được sử dụng để động viên các nguồn tài chính
tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể nhân trong xã hội nhằm đáp ứng
nhu cầu tạm thời của các cấp chính quyền Nhà nước trong việc thực hiện
các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, chủ yếu là thông qua việc cấp vốn
thực hiện các chương trình cho vay dài hạn. Việc thu hút các nguồn tài
chính tạm thời nhàn rồi qua con đường tín dụng Nhà nước được thực hiện
bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ như: tín phiếu Kho bạc Nhà
nước, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu công trình, công trái quốc gia
trên thị trường tài chính.
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng quỹ tiền
tệ qua hình thức tín dụng Nhà nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả.
5.2.3. Các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước
Các quỹ ngoài NSNN bao gồm quỹ BHXH, quỹ hưu trí, quỹ quốc
gia giải quyết việc làm, các quỹ chuyên dùng khác của Nhà nước như: quỹ
bảo vệ môi trường, quỹ hỗ trợ đầu tư, quỹ dự trữ tài chính.
Các quỹ ngoài ngân sách có sự khác nhau cả về mục đích, chức
năng hoạt động và cấp quản lý. Theo chức năng hoạt động có thể chia các
quỹ thành quỹ có tính chất kinh tế, quỹ có tính chất xã hội, quỹ có tính
chất bảo vệ môi trường thiên nhiên. Theo cấp quản lý có thể chia thành
quỹ quốc gia và quỹ theo địa phương, vùng lãnh thổ.
Các quỹ ngoài ngân sách chịu sự quản lý của chính quyền các cấp
nhưng được tách khỏi ngân sách và có tính độc lập nhất định. Dù thuộc
cấp chính quyền nào, các quỹ ngoài ngân sách đều có chức năng chủ yếu
là bảo đảm kinh phí để thực hiện các biện pháp theo những mục tiêu riêng
bằng các khoản trích phù hợp và bằng các nguồn vốn huy động khác.
Việc tách các nguồn vốn cấp phát để thực hiện các biện pháp theo
mục tiêu riêng khỏi nguồn vốn ngân sách cho phép mở rộng nguồn vốn
huy động bằng các khoản thu bổ sung như các khoản tiết kiệm, các khoản

nộp và ủng hộ của các thể nhân và pháp nhân trong xã hội, các khoản thu
từ xổ số kiến thiết ; hơn nữa, điều đó còn là bảo đảm cho việc sử dụng
vốn đúng mục đích.
21
Quy chế tự chủ của các quỹ ngoài ngân sách cho phép bảo đảm cấp
phát vốn kịp thời cho việc thực hiện các biện pháp, các chương trình văn
hoá - xã hội quan trọng. Khác với ngân sách, các quỹ ngòai ngân sách chịu
sự điều chỉnh và kiểm tra ít hơn từ các tổ chức chính quyền Nhà nước. Với
phương hướng sử dụng quỹ ngoài ngân sách được thực hiện không cần có
sự tham gia của Quốc hội đã tạo khả năng thực hiện chi các quỹ theo chế
độ linh hoạt hơn và thúc đẩy mối quan tâm của các tổ chức sử dụng quỹ
trong việc khai thác thêm các nguồn vốn.
Các quỹ ngoài ngân sách còn đóng vai trò như là nguồn tài chính dự
trữ giúp các cấp chính quyền trong những trường hợp khó khăn về tài
chính, nhờ đó nâng cao tính cơ động của các nguồn tài chính trong khuôn
khổ hệ thống tài chính Nhà nước thống nhất.
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc tài chính Nhà nước theo cơ chế
nhiều quỹ thành quỹ NSNN và các quỹ ngoài ngân sách là phù hợp với
việc thực hiện phân cấp, phân công quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước.
Điều đó đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các địa
phương, các ngành, các đơn vị trong quản lý kinh tế xã hội và là điều kiện
thực hiện chuyên môn hoá lao động trong quản lý TCNN đảm bảo cho
việc quản lý đó được chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.
Ở các quốc gia khác nhau và ngay ở trong một quốc gia, trong các
thời kỳ phát triển khác nhau, việc phân chia TCNN thành bao nhiêu quỹ là
không giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã
hội, trình độ quản lý TCNN của các quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử
nhất định.
Từ các cách phân loại trên đây của TCNN lại có thể rút ra nhận xét
rằng, vốn TCNN bao gồm vốn của NSNN và vốn ngoài NSNN, trong đó,

vốn của NSNN có quỹ mô lớn nhất và giữ vai trò quyết định đến phạm vi
cũng như hiệu quả hoạt động của TCNN. Tuy vậy, trong điều kiện đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy quyền tự chủ của các ngành, các địa
phương và các đơn vị cơ sở, thực hiện phương châm đa dạng hoá các
nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế xã hội, vốn ngoài ngân sách cũng giữ
một vị trí hết sức quan trọng. Các DNNN làm ăn có lãi được phép giữ lại
một phần lợi nhuận cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các đơn vị
sự nghiệp Nhà nước (như trường học, bệnh viện ) được phép thu phí và
đầu tư trở lại cho phát triển hoạt động của mình Thực tế đó cho thấy,
trong chính sách TCNN, bên cạnh bộ phận hạt nhân là chính sách ngân
22
sách, việc nghiên cứu để có chính sách hợp lý đối với việc quản lý và sử
dụng vốn ngoài ngân sách là cần thiết.
6. Vai trò của tài chính Nhà nước
Vai trò của tài chính Nhà nước có thể được xem xét trên
hai khía cạnh: là công cụ tập trung nguồn lực đảm bảo duy trì sự tồn tại,
hoạt động của bộ máy Nhà nước và là công cụ của Nhà nước trong quản
lý vĩ mô nền kinh tế thị trường.
6.1. Vai trò của tài chính Nhà nước trong việc đảm bảo duy trì sự tồn
tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước
Để duy trì sự tồn tại và hoạt động, bộ máy Nhà nước cần phải có
nguồn tài chính đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu. Các nhu cầu chi tiêu
của bộ máy Nhà nước được đáp ứng bởi tài chính Nhà nước, đặc biệt là
Ngân sách Nhà nước. Vai trò kể trên của tài chính Nhà nước được thể hiện
trên các khía cạnh sau đây.
Một là, khai thác, động viên và tập trung các nguồn tài chính để đáp
ứng đầy đủ kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu đã được Nhà nước dự tính
cho từng thời kỳ phát triển. Các nguồn tài chính này có thể được động
viên cả ở trong nước và từ nước ngoài, từ mọi lĩnh vực hoạt động và mọi
thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc và tự

nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả, trong đó, tính bắt buộc và không
hoàn trả là nét được trưng.
Hai là, phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được vào tay Nhà
nước cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp
lý nhằm vừa đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ
máy Nhà nước, vừa bảo đảm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của
Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Ba là, Kiểm tra giám sát để đảm bảo cho các nguồn tài chính đã
phân phối được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhất,
đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của quản lý Nhà nước và phát triển kinh tế,
xã hội.
6.2. Vai trò của tài chính Nhà nước trong hệ thống tài chính của nền
kinh tế quốc dân
Dựa trên cách tiếp cận về cơ cấu sở hữu và khu vực kinh tế có thể
chia hệ thống tài chính quốc dân thành hai bộ phận:Tài chính của khu vực
Nhà nước và tài chính khu vực phi Nhà nước.
23
Tính đặc thù của tài chính Nhà nước là ở chỗ các hoạt động thu, chi
bằng tiền trong quá trình phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước luôn gắn liền trực tiếp với các hoạt
động kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho các nhu cầu
chung – nhu cầu có tính chất xã hội mà Nhà nước phải đảm nhận do sự
đòi hỏi phải thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Do tính chất đặc biệt kể trên về vị trí, nhiệm vụ và phạm vi hoạt
động của nó, trong hệ thống tài chính quốc dân, tài chính Nhà nước, đặc
biệt là Ngân sách Nhà nước luôn giữ vai trò lãnh đạo và chủ đạo gắn liền
với vai trò lãnh đạo của Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước. Có thể nhận thấy vai trò đó của tài chính Nhà nước trên các khía
cạnh sau đây.
Thứ nhất, tài chính Nhà nước có vai trò chi phối các hoạt động của

tài chính khu vực phi Nhà nước. Sự chi phối đó được thể hiện trên hai mặt
của quá trình phân phối các nguồn tài chính. Một mặt, tài chính phi Nhà
nước có nhiệm vụ thực hiện các khoản thu của tài chính Nhà nước để tạo
lập các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước, đóng góp cho việc thực hiện các
nhu cầu chung của xã hội. Mặt khác, với quy mô lớn của các quỹ tiền tệ
chung của Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách Nhà nước, tài chính Nhà nước
có thể đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tạo thuận
lợi cho hoạt động của khu vực kinh tế phi nhà nước, đồng thời có thể thực
hiện sự trợ giúp về tài chính cho khu vực kinh tế này duy trì và đẩy mạnh
hoạt động.
Thứ hai, tài chính Nhà nước có vai trò hướng dẫn các hoạt động của
tài chính phi Nhà nước. Hoạt động của tài chính nhà nước luôn gắn liền và
phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, định hướng phát triển kinh tế,
xã hội của Nhà nước, do đó, các hoạt động thu, chi của tài chính Nhà nước
như là tấm gương phản ánh các định hướng phát triển đó, từ đó có tác
dụng hướng dẫn các hoạt động thu, chi hoạt động kinh tế xã hội của khu
vực phi Nhà nước. Chẳng hạn, chính sách thuế có tác dụng hướng dẫn đầu
tư, hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư của Nhà nước có tác dụng”châm ngòi” thu
hút đầu tư và hướng dẫn đầu tư của khu vực phi Nhà nước.
Thứ ba, tài chính Nhà nước có vai trò điều chỉnh các hoạt động của
tài chính phi Nhà nước. Vai trò này được thể hiện, thông qua hoạt động
kiểm tra của Tài chính Nhà nước có thể phát hiện những điểm bất hợp lý,
những sự chệnh hướng của các hiện tượng thu, chi trong các hoạt động
24
phân phối nguồn tài chính, trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ
tiền tệ của tài chính phi nhà nước, từ đó đòi hỏi và có biện pháp hiệu chỉnh
các quá trình kể trên đảm bảo cho các nguồn tài chính vận động đúng
hướng và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
6.3.Vai trò của tài chính Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu
của kinh tế vĩ mô

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, việc đề cao vai trò của Nhà
nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế và phát huy vai trò của khu vực kinh
tế Nhà nước ở một giới hạn hợp lý một trong những nhân tố cơ bản để
điều tiết sự phát triển của nền kinh tế nhằm đạt tới ổn định, hiệu quả và
công bằng. Do vị trí đặc biệt của mình, tài chính Nhà nước trở thành công
cụ đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội
nhằm đạt tới các mục tiêu đã định của kinh tế vĩ mô. Có thể khái quát vai
trò kể trên của tài chính Nhà nước các khía cạnh chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, tài chính Nhà nước đóng vai trò quan trọng việc thúc đẩy
phát kinh tế, tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động
kinh tế xã hội – Vai trò kinh tế của tài chính Nhà nước.
Vai trò này được phát huy nhờ vào việc vận dụng chức năng phân
bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước trong hoạt động thực tiễn. Bằng việc
tạo lập, phân phối và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý các quỹ tiền tệ
của nhà nước, tài chính Nhà nước đã tác động tới việc phân bổ và góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của toàn xã hội, từ đó
tác động tới sự phát triển kinh tế ,xã hội.
Thông qua công cụ thuế với các mức thuế suất khác nhau và ưu đãi
về thuế, tài chính Nhà nước có vai trò định hướng đầu tư; điều chỉnh cơ
cấu của nền kinh tế theo các định hướng phát triển của Nhà nước cả về cơ
cấu ngành và cơ cấu vùng lãnh thổ; kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh
doanh theo ngành hoặc theo sản phẩm…
Thông qua hoạt động phân phối các quỹ tiền tệ chung của nhà nước,
đặc biệt là quỹ Ngân sách Nhà nước, cho xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư
vào các ngành then chốt, các công trình mũi nhọn, hình thành các doanh
nghiệp Nhà nước, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp cần nâng đỡ
khuyến khích (qua biện pháp trợ giá, trợ cấp…), tài chính Nhà nước góp
phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần
hình thành và hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, xã hội, đảm bảo
25

×