Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

an ninh con người và sự bất an trong cuộc sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.06 KB, 12 trang )

TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 01 - 2009

Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM Trang 5
AN NINH CON NGƯỜI VÀ SỰ BẤT AN TRONG CUỘC SỐNG HÔM NAY
Vũ Dương Ninh
Đại học Quốc gia Hà Nội
TÓM TẮT:Sau khi giới thiệu khái niệm an ninh con người trong xã hội hiện đại bài viết
đã phân tích một cách toàn diện và sâu sắc những cơ tiềm ẩn về chiến tranh, mâu thuẫn sắc
tộc tôn giáo mất an ninh lương thực, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và năng lượng v.v… ở khu
vực Đông Nam Á. Đồng thời bài viết cũng phân tích các nguy cơ mất an ninh ô nhiễm môi
trường tự
nhiên và xã hội ở Việt Nam và đề nghị cần phải hoạch định một chiến lược lâu dài
để phát triển bền vững.

1. AN NINH CON NGƯỜI – ĐÔI
NÉT VỀ KHÁI NIỆM
Chưa bao giờ, vấn đề an ninh con
người được đặt ra một cách khẩn thiết như
ngày nay. Nó trở thành mối quan tâm của
toàn nhân loại, là đề tài bàn thảo trong
nhiều hội nghị quốc gia và quốc tế, được
hoạch định trong chính sách của các nhà
nước vì cuộc sống của con người ngày
càng bị đe doạ bởi nhiều yếu tố bất
an:chiến tranh, n
ạn đói, dịch bệnh, ô nhiễm
môi trường, cạn kiệt tài nguyên … Cho
nên đi tìm những yếu tố bất an chính là để
thấy rõ nguy cơ và biện pháp phòng tránh,
bảo vệ an ninh con người.
Năm 1994, Tiến sĩ Mahbub ul Haq nêu


lên khái niệm về an ninh con người
(Human Security) trong báo cáo của
UNDP về Phát triển con người. Theo thời
gian, khái niệm này dần được bổ sung và
phát triển. Vấn đề an ninh con người được
nhìn nhận từ hai góc độ: 1) sự an toàn c
ủa
con người trước những nguy cơ lâu dài
như đói khát, dịch bệnh, chiến tranh và sự
áp bức; 2) sự bảo vệ con người trước
những đe doạ bất thường và nguy hại trong
khuôn khổ gia đình, nơi làm việc hay cộng
đồng.
Nói rộng ra như cựu Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc Kofi Annan thì an ninh con
người gắn liền với hoà bình và phát triển
của thế giới cũ
ng như của quốc gia, khu
vực. Nó không chỉ là không có xung đột
bạo lực mà còn phải bảo đảm quyền con
người, sự quản lý tốt của nhà nước, cơ hội
tiếp cận với các điều kiện thuận lợi về giáo
dục, y tế và sự lựa chọn điều kiện phát huy
năng lực của mỗi cá nhân.
Tuy còn nhiều bàn luận song hầu như
người ta d
ễ gặp nhau trong quan niệm về
nội hàm của an ninh con người bao gồm 7
lĩnh vực là kinh tế, lương thực, sức khoẻ,
Science & Technology Development, Vol 12, No.01 - 2009


Trang 6 Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
môi trường, cá nhân, cộng đồng và chính
trị. Trong cuộc sống, những điều bất an đối
với con người bắt nguồn từ những nhân tố
tự nhiên (thiên tai) và nhân tố con người
(nhân tai). Hai nhân tố đó tác động lẫn
nhau trong mối quan hệ nhân - quả của
nhau.
Năm 2002 trong Tuyên bố chung
ASEAN – Trung Quốc tại Phnom Penh
xuất hiện một thuật ngữ mới: “an ninh phi
truyền thống”. Bản Tuyên bố nêu rõ các
nhà lãnh đạ
o ASEAN và Trung Quốc bày
tỏ “sự quan ngại về những vấn đề an ninh
phi truyền thống ngày càng gia tăng như
buôn lậu, ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ
em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí,
rửa tiền, tội phạm kinh tế quôc tế và tội
phạm công nghệ cao”. Đoạn văn trên tự nó
đã nói rõ nội hàm của khái niệm này. Và tự
nhiên, người ta nghĩ đến thuật ngữ có
nghĩa
đối lập của nó là “an ninh truyền
thống”. Có thể hiểu khái niệm này bao
hàm những yếu tố an ninh (và yếu tố bất
an) vốn có từ lâu đời như thiên tai, nạn đói,
dịch bệnh, chiến tranh… Tất nhiên sự phân
biệt này không rạch ròi vì ngay các loại an

ninh phi truyền thống cũng đã từng xuất
hiện từ xa xưa trong lịch sử như nạn buôn
người (nô lệ, phụ nữ, trẻ
em), nạn cướp
biển, nạn buôn lậu v.v…
Điều đáng quan tâm chính là trong thời
đại toàn cầu hoá thì các vấn đề an ninh
không thu hẹp trong phạm vi nhỏ của địa
phương hay từng nước mà nó nhanh chóng
trở thành vấn đề của thế giới, của toàn
nhân loại. Do vậy cuộc đấu tranh gìn giữ
an ninh con người, ngăn ngừa những yếu
tố bất an, chống các nguy cơ đe doạ phải
mang tính toàn c
ầu, đòi hỏi sự đồng tâm và
phối hợp của các quốc gia, các tổ chức khu
vực và tổ chức quốc tế.
2.ĐÔNG NAM Á TRONG THẾ
GIỚI TIỀM ẨN NHIỀU YẾU TỐ BẤT
AN
2.1. Toàn thể nhân loại đã từng chào
đón đêm giao thừa bước sang năm 2000
với niểm hân hoan và hy vọng về một thế
kỷ hoà bình, một thiên niên kỷ hưng thịnh.
Như
ng chẳng bao lâu sau, trong khi khói
lửa vùng Bancăng chưa lụi tắt thì vụ khủng
bố ngày 11/9/2001 vào Trung tâm Thương
mại Thế giới của Hoa Kỳ làm cả thế giới
bàng hoàng. Từ đó, những cuộc chiến

tranh chống khủng bố hoặc mang danh
chống khủng bố xuất hiện và lan rộng như
chiến tranh Apganixtan, chiến tranh Irăc,
những vụ truy lùng tàn quân Taliban khắp
các vùng Bắc Phi, Nam Á và ngay cả ở các
nước Âu Mỹ
.
Cùng với không khí căng thẳng đó là
cuộc chạy đua vũ trang hầu như không
dừng lại sau chiến tranh lạnh, chi phí quân
sự của các quốc gia ngày càng gia tăng.
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 01 - 2009

Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM Trang 7
Ngân sách quốc phòng của thế giới
trong vòng 10 năm sau chiến tranh lạnh
giảm đi 30%, nhưng đến những năm đầu
thế kỷ mới lại tăng vọt lên. Năm 2007đạt
mức kỷ lục chưa từng có là 1339 tỷ USD,
tăng 6% so với năm 2006, tăng 45% so với
cách đây 10 năm, trong đó Mỹ chiếm 45%.
Việc xuất khẩu vũ khí tăng nhanh, trong đó
3 nước xuất kh
ẩu nhiều nhất là Mỹ chiếm
31% thị phần, Nga 25% và Đức 10%.
(Theo báo cáo của SIPRI - Viện
nghiên cứu hoà bình quốc tế Stockholm).
Điều nguy hiểm là việc áp dụng công
nghệ cao để sáng chế các loại vũ khí siêu
chính xác, tàng hình mang bom xuyên siêu

lớp (sâu tới 200m), phi sát thương (bằng
các loại vũ khí chùm tia, gây sốc điện, siêu
âm thanh), vũ khí hạt nhân cỡ nhỏ…Các
loại vũ khí thuộc thế hệ mới tinh vi hơn, có
sức huỷ diệt m
ạnh hơn và mở rộng phạm
vi lên đến vệ tinh quân sự.
Tính đến năm 2010, có 5 nước dẫn đầu
về chi phí quân sự là Trung Quốc, Ấn Độ,
Nga, Arap Sauđi và Hàn Quốc với mức gia
tăng ngân sách quốc phòng mỗi năm là
30%. Riêng Trung Quốc, chi phí quốc
phòng năm 2008 là 58 tỷ USD, tăng 17%
so với 2006.
Điều đáng nói là người ta dành 25 tỷ
USD cho việc cứu đói trên thế giới, con số
đó chưa bằng 2% chi phí cho quân s
ự toàn
cầu. Có nghĩa là nếu như dùng 2 USD để
cứu người thì lại chi 98 USD để chế tạo vũ
khí giết người. Tự con số đó đã là lời bình
luận đầy đủ.
Đông Nam Á cũng bị cuốn hút vào
tình hình căng thẳng đó. Hoạt động khủng
bố lan rộng: lực lượng Abu Sayyaf ở miền
nam Philippin tăng cường cuộc chiến
chống quân chính phủ, các vụ nổ
bom liều
chết của lực lượng Jemaah Islamiyah (JI) ở
Inđônêxia, những cuộc nổi loạn đẫm máu ở

miền nam Thái Lan. Trước nguy cơ đó, các
nước Đông Nam Á đều tham gia cuộc đấu
tranh chống khủng bố, ASEAN nhiều lần
ra tuyên bố và ký hiệp định về sự phối hợp
đấu tranh giữa các nước thành viên cũng
như phối hợp với các nước bên ngoài trên
trận chiến này. Song cho đến nay, m
ặc dầu
đã bắt được một vài kẻ chủ mưu, phá được
một vài hang ổ nhưng vẫn chưa thấy được
hồi kết, nhiều quốc gia ở khu vực vẫn nằm
trong vòng đe doạ của nguy cơ bị khủng
bố. Đông Nam Á - nơi chiếm 1/5 số tín đồ
Hồi giáo trên thế giới – luôn nằm trong sự
cảnh báo “sau Trung Đông, Đông Nam Á
trở thành sàn diễn th
ứ hai của các hoạt
động do Bin Laden chỉ đạo, tài trợ hoặc
gợi ý” (Báo Nước Bỉ tự do 14/10/2002).
Hơn nữa, Đông Nam Á vốn là một khu
vực nhạy cảm do tầm quan trọng của vị trí
đường biển nối liền Thái Bình Dương với
Ấn Độ dương, lại chứa đựng nhiều tiềm
năng dầu lửa và khí đốt nên đã là và sẽ là
Science & Technology Development, Vol 12, No.01 - 2009

Trang 8 Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM
nơi đụng độ lợi ích giữa các quốc gia trong
khu vực với các nước láng giềng và các
cường quốc khác. Trong bối cảnh của thế

giới hôm nay, các nước thoả thuận về một
giải pháp chung trong “Tuyên bố về cách
ứng xử của các bên ở Biển Đông” (2002)
song điều đó không thể ngăn cản những vụ
lấn chiếm nhỏ lẻ và càng khó tránh khỏi
xung đột trong những hoàn cả
nh nhất định.
Yếu tố bất an này là lâu dài, dai dẳng
Nhìn trên bản đồ địa chính trị, không
một thành viên nào của ASEAN đủ sức
chế tạo vũ khí hạt nhân nhưng rõ ràng là
Đông Nam Á đang bị vây quanh bởi các
quốc gia hạt nhân. Sát vách là Trung Quốc
và Ấn Độ, xa chút nữa là Bắc Triều Tiên,
Pakixtan, Iran (?). Và không thể không
nhắc đến các cường quốc hạt nhân có tầm
ảnh hưởng thế giới như Mỹ, Nga, Anh,
Pháp. T
ừ đầu những năm 90, ASEAN đã
ra “Tuyên bố về khu vực không có vũ khí
hạt nhân” (SEANWFZ) cùng việc tổ chức
“Diễn đàn khu vực ASEAN” (ARF) nhằm
bảo đảm hoà bình, an ninh Đông Nam Á.
Song dẫu sao, trước những biến động khi
hoà dịu, khi gay gắt của tình hình thế giới
thì hiểm hoạ đối với Đông Nam Á cũng
như đối với thế giới là không thể lường hết
được.
Cũng không nên quên nh
ững nhân

tố bất an nằm ngay trong bản thân mỗi
quốc gia như các cuộc bạo loạn ly khai, va
chạm sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo và
những vụ xung đột về biên giới lãnh thổ,
lãnh hải giữa các nước láng giềng. Chỉ một
đốm lửa ở nơi này, nơi khác cũng có thể
gây ảnh hưởng đến toàn khu vực và sự bất
cẩn trong cách giải quyết tranh chấp có thể
dẫn đế
n nhiều hậu quả ngoài mong đợi.
Trong xu thế chung của thế giới sau
chiến tranh lạnh sẽ không có hoặc có rất ít
khả năng xảy ra chiến tranh trên quy mô
thế giới (như hai cuộc Thế chiến của thế kỷ
XX) nhưng nguy cơ xảy ra những cuộc
chiến tranh trong phạm vi nhỏ, những cuộc
xung đột vũ trang vẫn chưa thực sự biến
mất. Tình trạng bất an do kh
ủng bố, xung
đột và chiến tranh vẫn là điều chẳng nên
quên !
2.2. Hành tinh xanh từ ngàn đời nay đã
từng nuôi sống con người cùng bao loài
sinh vật. Con người đã khai thác nó, tận
dụng nó, đồng thời phá hoại nó, tạo nên
mối nguy cơ lớn đối với môi trường sinh
thái. Có điều tưởng như nghịch lý là sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã đưa con
người lên trình độ
văn minh rất cao nhưng

chính sự phát triển mạnh mẽ của công
nghiệp trong khoảng 2-3 thế kỷ qua lại
càng làm gia tăng hiểm hoạ của môi trường
đối với cuộc sống.
Các nhà khoa học tính toán rằng trong
vòng nửa sau của thế kỷ XX, nền kinh tế
thế giới đã tăng gấp 6 lần. Nếu tính trung
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 12, SỐ 01 - 2009

Bản quyền thuộc ĐHQG-HCM Trang 9
bình kinh tế toàn cầu mỗi năm tăng 3% thì
từ khởi điểm 30 ngàn tỷ USD cuối thập
niên 90 sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020 và
từ mức đó lại tăng gấp đôi vào năm 2050.
Với nhịp độ như vậy, khả năng cung ứng
của trái đất bị cạn kiệt và con người phải
chịu đựng “sự trả thù của giới tự nhiên”
như Anghen đã cảnh báo từ giai đoạn đầu
của cách mạng công nghiệp. Các chất thải
công nghiệp như khí CO2 đã làm thay đổi
khả năng bức xạ nhiệt mặt trời, gây hiệu
ứng nhà kính, trái đất nóng lên, phá vỡ thế
cân bằng sinh thái. Hậu quả là bão tố, lũ
lụt, động đất, sóng thần, sa mạc hoá, hạn
hán…xảy ra ngày càng dày đặc hơn, và tác
hại càng khốc liệt hơn.
Theo th
ống kê, tần số các trận bão và
lũ lụt lớn gây nhiều thiệt hại năm 1950 có
20 trận, 1970 – 47 trận,1990 – 86 trận trên

thế giới. Số người chết vì thiên tai như sau:
15% do bão, 49% do lũ lụt, 30% do động
đất và núi lửa, 6% do các thiên tai khác.
Trong thời gian 1987-1997, có khoảng
44% thảm hoạ lũ lụt xảy ra ở châu Á, cướp
đi sinh mạng của 228 ngàn người, thiệt hại
kinh tế lên tới 136 tỷ USD.
Vấn đề trái đất nóng lên làm cho n
ước
biển dâng, dẫn đến nhiều hệ luỵ khác đang
là mối lo của toàn nhân loại.
Trong thế kỷ XX, nhiệt độ trung bình
của trái đất tăng 0,74 độ C. nhưng dự tính
trong thế kỷ XXI, nhiệt độ sẽ tăng từ 1,8
đến 4 độ C. Trái đất nóng lên sẽ dẫn đến
việc băng tan, nước biển dâng làm cho
cuộc sống của 500 triệu người Nam Á, 250
triệu người Trung Quốc và t
ừ 75-250 triệu
người châu Phi bị đe doạ và 20% - 30% hệ
động thực vật sẽ bị tuyệt chủng. (Theo
Tạp chí Cộng sản: Hồ sơ - Sự kiện số 21 –
2007)
Đông Nam Á do những điều kiện tự
nhiên là nơi hứng chịu nhiều thảm hoạ về
môi trường. Hằng năm, Philippin đón
nhiều trận bão từ Thái Bình Dương tràn về
rồi theo hướng tây – tây bắ
c vào đến bờ
biển Việt Nam hoặc Trung Hoa. Núi lửa và

động đất là những tai hoạ luôn rình rập các
quần đảo Inđônêxia, Philippin… Gần đây
nhất là vụ sóng thần ở Inđônêxia và ven
biển Thái Lan, vụ động đất ở Mianma đã
gây nên nỗi kinh hoàng cho cả loài người.
Trận động đất ở Ấn Độ Dương năm
2004 đã tạo ra một loạt cơn sóng thần
khủng khiếp gi
ết hại 230 000 người, làm
thiệt hại hàng tỷ USD.
Tại Achê (Inđônêxia), đợt sóng thần
năm đó có độ cao 24m, có lúc lên đến 30
m, di chuyển với tốc độ từ 500 – 1000
km/giờ. Độ tàn phá của các đợt sóng thần
lên đến 5 megaton thuốc nổ TNT, tức là
gấp 2 lần lượng thuốc nổ trong Thế chiến 2
(kể cả 2 quả bom nguyên tử).
Thiên tai thường đến bất ngờ, chỉ trong
khoảnh khắ
c đã cướp đi hàng trăm ngàn

×