Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận nghiên cứu đề tài “tổng cung và chu kỳ kinh doanh”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.75 KB, 40 trang )

Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: SAU ĐẠI HỌC



KINH TẾ VĨ MÔ
Đề tài:

TỔNG CUNG VÀ CHU KỲ KINH DOANH
Giảng viên

: PGS. TS. Hạ Thị Thiều Dao

Lớp

: CH16B02

Nhóm

: 02

TP Hồ Chí Minh – 06/2015
1


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN NHÓM 02


1) Lê Quốc Huy
2) Nguyễn Hồng Tuyến
3) Nguyễn Hạ Huyền
4) Phạm Ngọc Trinh
5) Vũ Lê Thu Hà
6) Bùi Quốc Huy
7) Đặng Thị Thu Hà
8) Nguyễn Bình Phương
9) Võ Thị Thủy Tiên
10) Nguyễn Thị Bích Thùy

MỤC LỤC

2


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ

Trong quá trình vận động nền kinh tế của một quốc gia có những giai đoạn kinh tế phát
triển thịnh vượng, tăng trưởng đi lên, đến một thời điểm nhất định sự phát triển đạt đến điểm
cực đại, lúc này kinh tế sẽ có khuynh hướng đi xuống. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà
kinh tế đã tìm ra được những quy luật vận động của các hoạt động kinh tế riêng biệt theo những
chu kỳ nhất định và tổng hoà sự vận động của chúng tạo nên những chu kỳ kinh doanh (hay
còn gọi là chu kỳ kinh tế).
Để hiểu rõ thêm về các quy luật vận động của chu kỳ kinh tế và kết hợp liên hệ thực trạng
chu kỳ kinh tế của Việt Nam những năm qua biến đổi như thế nào, nhóm chúng tôi đã chọn
nghiên cứu đề tài “Tổng cung và chu kỳ kinh doanh”.
Trên cơ sở những kiến thức đã học được từ môn Kinh tế vĩ mô và sự hướng dẫn, hỗ trợ

của Giảng viên, đề tài đã chỉ ra được tổng cung trong nền kinh tế, các chính sách chi phối của
nhà nước và cũng khái quát được chu kỳ kinh doanh của Việt Nam trong những năm qua trải
qua những giai đoạn tăng trưởng và suy thoái như thế nào.
Nội dung của của đề tài gồm có 3 phần:
CHƯƠNG 1: TỔNG CUNG
CHƯƠNG 2: CHU KỲ KINH DOANH
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN CHU KỲ KINH DOANH TẠI VIỆT NAM NĂM 1989 2014

3


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

4


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

CHƯƠNG 1: TỔNG CUNG
1. Cung cầu lao động
1.1.

Các khái niệm

Cung lao động là số lượng lao động mà nền kinh tế có thể cung ứng, tương ứng với từng
mức lương thực tế.
Cầu về lao động cho biết các hãng kinh doanh cần bao nhiêu lao động tương ứng với mỗi
mức tiền công thực tế, trong các điều kiện khác như vốn, tài nguyên,... không đổi
Tiền lương danh nghĩa là số lượng tiền tệ người lao động nhận được do kết quả lao động
của mình

Tiền lương thực tế được biểu hiện bằng số lượng và chất lượng hàng hóa và dịch vụ mà
người lao động trao đổi được thông qua tiền lương danh nghĩa của mình.
Người lao động quan tâm nhất và trước hết là đến tiền lương thực tế vì chính tiền lương
thực tế mới phản ánh mức sống thực tế của họ. Tiền lương thực tế phụ thuộc vào tiền lương
danh nghĩa và sự biến động của giá cả.
Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế
Wr = Wn/P = W/P
Wr: Tiền lương thực tế
Wn hoặc W: Tiền lương danh nghĩa
P: Mức giá chung
1.2.

Cân bằng cung cầu lao động:

Cung và cầu lao động sẽ quyết định mức lương và số lượng lao động trong một ngành hay một
nền kinh tế.

5


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Sơ đồ 1.1:
Wr
Dn

Sn

W
0
0


N

N0

Cân bằng cung cầu lao động
Tuy nhiên trong một nền kinh tế luôn tồn tại một tỷ lệ thất nghiệp nhất định . Thất nghiệp
được chia làm 2 loại: Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện
-

Thất nghiệp tự nguyện: Là tình trạng thất nghiệp mà ở đó công nhân không muốn làm việc với
mức lương trên thị trường lúc đó.

W

w

Thất nghiệp do tiền lương cứng nhắc
SL

AS

W2
W1

DL
AD

LD


Ls

6

L

L


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Sơ đồ 1.2: Thất nghiệp không tự nhiên
-

Thất nghiệp
w

S

L

Thất nghiệp do tiền lương cứng
nhắc

W2
W1

L
D

LD


L

Ls

khơng tự nguyện: Là tình trạng với mức lương cứng nhắc, không thay đổi, một quỹ lương nhất
định chỉ thuê một số lượng lao động nhất định, số còn lại muốn đi làm với mức lương đó nhưng
khơng tìm được việc làm
Sơ đồ 1.3: Thất nghiệp tự nhiên
1.3.

Mối quan hệ giữa tổng cung và thị trường lao động

Tổng cung cho biết mối quan hệ giữa GDP thực mà nền kinh tế sản xuất và mức giá. GDP
thực sản xuất phụ thuộc vào yếu tố đầu vào. Trong số các yếu tố đầu vào quan trọng nhất là lao
động. Do vậy tổng cung có mối quan hệ chặt chẽ và phụ thuộc vào thị trường lao động.
1.4.

Quan hệ giữa giá cả, tiền lương, việc làm

Trong nền kinh tế thị trường, giá cả phụ thuộc vào nhiều yếu tố, các yếu tố này quyết định
vị trí, độ dốc của các đường tổng cung và tổng cầu.
Về phía cung, giá cả phụ thuộc nhiều vào tiền công, đặc biệt là trong thời gian ngắn hạn.
Vì ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, tiền công chiếm tỷ lệ cao trong giá thành sản
phẩm. Tiền công lại phụ thuộc vào trạng thái của thị trường lao động, tức là tình trạng thất
nghiệp và số việc làm của nền kinh tế. Giá cả còn phụ thuộc vào giá trị của tài sản cố định, tuy
nhiên trong thời gian ngắn hạn việc thay đổi tiền công tiền lương là yếu tố chủ yếu quyết định
sự thay đổi của giá cả sản phẩm đầu ra của nền kinh tế.

7



Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng tiền công danh nghĩa và giá cả hoàn toàn linh hoạt,
dẫn đến tiền công thực tế sẽ tự điều chỉnh để giữ cho thị trường lao động luôn cân bằng. Nền
kinh tế luôn ở trạng thái tồn dụng nhân cơng, khơng có thất nghiệp không tự nguyện.
Các nhà kinh tế theo trường phái Keynes cho rằng giá cả và tiền công danh nghĩa khơng
hồn tồn linh hoạt, thâm chí khơng thay đổi. Tiền công thực tế do vậy cũng không thay đổi ,
thị trường lao động ln trong tình trạng có thất nghiệp.
So với giá cả hàng hóa thơng thường, thì tiền lương có tính cứng nhắc, nó chỉ điều chỉnh
sau 1 đến 3 năm sau khi có hợp đồng lao động mới. Nguyên nhân là: Các doanh nghiệp trong
ngành công nghiệp, họ định ra thang lương rồi thuê công nhân hạn chế theo mức lương đó.
Thang lương có khuynh hướng giữ nguyên trong một năm.

2. Tổng cung
2.1.

Khái niệm tổng cung

Tổng cung (ký hiệu là AS) là tổng khối lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mà các
doanh nghiệp sẽ sản xuất và bán ra trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, khả năng sản xuất
và chi phí sản xuất đã chọn.
Tổng cung liên quan đến sản lượng tiềm năng (Q).Sản lượng tiềm năng là mức sản lượng
đạt được trong khi nền kinh tế tồn tại một mức thất nghiệp bằng với thất nghiệp tự nhiên. Như
vậy, Yếu tố nào quyết định mức sản lượng của nền kinh tế? Có thể và có nên can thiệp vào nền
kinh tế thị trường không? Can thiệp bằng cách tác động vào đâu? Để trả lời câu hỏi điều gì
quyết định mức sản lượng của một quốc gia có hai quan điểm lý thuyết khác nhau: Lý thuyết
cổ điển và lý thuyết của J.M. Keynes.
2.2.


Lý thuyết cổ điển và lý thuyết của J.M. Keynes

a. Tổng cung theo trường phái cổ điển
Theo trường phái cổ điển trong điều kiện tự do cạnh tranh thì giá cả P và tiền lương W
hoàn toàn linh hoạt, chúng biến động để lập sự cân bằng của tổng cung và tổng cầu. Đường
tổng cung theo trường phái cổ điển là một đường thẳng đứng, cắt trục hoành tại mức sản lượng
tiềm năng Y*. Đường tổng cung theo trường phái cổ điển dựa trên giả thiết rằng, các thị
trường, trong đó đặc biệt là thị trường lao động, ln cân bằng. Giá cả hàng hóa được điều
chỉnh linh hoạt sao cho số lượng hàng hóa sản xuất ra đúng bằng số lượng hàng hóa mà người
8


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
tiêu dùng mong muốn mua. Tiền công cũng linh hoạt điều chỉnh cho đến khi nào mọi người
muốn làm việc tại mức tiền cơng đó đều có việc làm và các doanh nghiệp sử dụng đúng số lao
động mà họ muốn thuê. Khi tiền cơng được điều chỉnh linh hoạt thì thị trường lao động ln ở
trạng thái cân bằng, khơng có thất nghiệp. Nền kinh tế tồn dụng nhân cơng, nền kinh tế đã sử
dụng hết nguồn lực lao động. Trong ngắn hạn nguồn lao động đã sử dụng hết thì sản lượng sẽ
không tăng nữa và sẽ bằng với mức sản lượng tiềm năng. Từ giả thiết trên nên đường tổng
cung ngắn hạn theo trường phái cổ điển là đường thẳng đứng cắt trục hoành tại mức sản lượng
tiềm năng, mọi sự biến động của tổng cầu chỉ có thể làm tăng (giảm) mức giá chung nhưng
không làm thay đổi sản lượng.

P
P
P
1
0

A

E
E
S
1
Y0
p

A
A
D
Y
D
1
0

Sơ đồ 1.4: Tổng cung theo trường phái cổ điển
Với mức sản lượng Yp cho trước thì khi tổng cầu tăng từ ADo  AD1 chỉ có thể làm
tăng mức giá Po lên P1 xác định vị trí cân bằng Eo  E1 mà không làm thay đổi sản lượng Yp.
Ý nghĩa của mơ hình cổ điển:
Nền kinh tế ln đạt trạng thái tồn dụng: Tồn dụng lao động là trạng thái mà ở đó, nền
kinh tế ở trạng thái: tất cả mọi người thuộc lực lượng lao động đều có việc làm. Nền kinh tế chỉ
tồn tại thất nghiệp tự nhiên, nguồn nhân lực trong nền kinh tế được sử dụng đạt hiệu quả tối ưu.
Chính sách kinh tế của chính phủ khơng có tác dụng. Chính phủ khơng nên can thiệp vào
nền kinh tế. Vì các chính sách can thiệp của chính phủ chỉ làm tăng giá cả khơng làm tăng sản
lượng Y.
Nhược điểm của mơ hình cổ điển
Khơng giải thích được tình trạng thất nghiệp cao
9



Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Khơng giải thích được sự sụt giảm sản lượng do sự chậm biến động của giá cả và tiền
lương
Tổng cung theo trường phái Keynes
Đường tổng cung Keynes giả định các doanh nghiệp sẽ cung cấp bất kỳ mức sản lượng
yêu cầu nào tại mức giá hiện tại. Điều này xảy ra khi có tỷ lệ thất nghiệp cao và các doanh
nghiệp có thể thuê bất kỳ số lượng lao động nào mà họ muốn tại mức lương hiện tại.
Trong trường hợp này đường tổng cung là đường nằm ngang tại mức giá ban đầu, có
nghĩa là tổng cung hồn tồn co giãn theo giá.
Đường tổng cung Keynes dựa trên giả thuyết là các thị trường, đặc biệt là thị trường lao
động, không phải lúc nào cũng cân bằng và trong nền kinh tế ln có tình trạnh thất nghiệp.
Quan điểm của Keynes
Giá cả và tiền lương hồn tồn linh hoạt vì:
-

Tiền lương được quy định theo hợp động lao động
Giá cả một số mặt hàng do chính phủ quy định
Các tổ chức lớn có quyền quyết định giá cả một số sản phẩm

P

AD

A

P

1

E


E
S

0

Y
0
0

AD
Y
0

1

p

Sơ đồ 1.5: Tổng cung theo quan điểm Keynes
Đường cung về lao động là đường nằm ngang, có độ co giãn hồn tồn tại mức lương
hiện tại. Do đó, các doanh nghiệp có thể thuê tất cả số lao động muốn mà không ảnh hưởng đến
mức lương (lương không tăng). Như vậy, trong mơ hình tổng cung Keynes, giá cả và tiền
lương khơng đổi.
Ý nghĩa của mơ hình Keynes
Thất nghiệp có thể xảy ra, có thể kéo dài
10


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Chính phủ có vai trị quan trọng, can thiệp vào nền kinh tế bằng chính sách kinh tế vĩ mơ

Nhược điểm:
Khơng giải thích được hiện tượng nền kinh tế vừa suy thối vừa lạm phát
Các nhà kinh tế đã sử dụng 2 quan điểm lý thuyết trên để giải thích sự điều chỉnh của nền
kinh tế trong ngắn hạn và trong dài hạn: Trong ngắn hạn tổng cầu sẽ quyết định sản lượng còn
trong dài hạn mức sản lượng tiềm năng sẽ quyết định sản lượng. Từ kết luận này có thể phân
biệt được các chính sách ngắn hạn để điều chỉnh tổng cầu và chính sách dài hạn tác động đến
mức tiềm năng. Mơ hình Keynes mơ tả hành vi nền kinh tế trong ngắn hạn, cịn mơ hình cổ
điển mơ tả hành vi nền kinh tế trong dài hạn.
Giả sử rằng có sự gia tăng về tổng cầu AD do chi tiêu chính phủ tăng hay cung tiền tăng,
đường AD dịch chuyển sang phải. Tuy nhiên, đường tổng cung Keynes là đường nằm ngang
nên ảnh hưởng dài hạn là sự thay đổi về thu nhập thực tại mức giá hiện tại P1.

Sơ đồ 1.6: Chính sách tài khố và tiền tệ có ảnh hưởng đến sản lượng cân bằng
Tóm tắt ảnh hưởng của chính sách tài khố và tiền tệ theo quan điểm cổ điển và Keynes
Chính Sách

Tổng Cung

Sản lượng

Lãi suất

Giá cả

Tài khóa

Keynes

+


+

0

Cổ điển

0

+

+

Keynes

+

-

0

Tiền tệ

Cổ điển
0
+
Bảng 1.1: Chính sách Tổng cung Sản lượng Lãi suất Giá cả

+

Hai trường hợp đặc biệt trên về đường tổng cung AS phản ánh hai quan điểm khác nhau

về sự hoạt động của giá cả và tiền lương trong nền kinh tế thị trường. Trong mơ hình cổ điển
11


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
khẳng định rằng những điều chỉnh trong giá cả và tiền lương xảy ra nhanh chóng (rất linh hoạt)
trong khi đó trong mơ hình Keynes lại khẳng định giá cả và tiền lương là cứng nhắc. Sự khác
nhau này còn bao hàm cả quan điểm khác nhau về tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế. Trong
thực tế, giá cả và tiền lương khơng hồn tồn linh hoạt và cũng khơng hồn toàn cứng nhắc.
Đường tổng cung AS trong thực tế phải là một đường dốc lên nhất định.
Tổng cung thực tế ngắn hạn
Được xây dựng trên cơ sở kết hợp 3 mối quan hệ sau trong ngắn hạn:
-

Giữa việc làm và sản lượng
Giữa việc làm và tiền công
Giữa tiền công và giá cả (hay năng suất lao động và giá cả)
Vị trí của đường AS phụ thuộc vào giá cả của thời kỳ trước đó
Đường AS dịch chuyển theo thời gian, phụ thuộc vào sản lượng của nền kinh tế. Nếu sản
lượng kỳ này cao hơn sản lượng tiềm năng, thì sau một thời gian tiền lương sẽ tăng và giá cả sẽ
tăng, đường tổng cung dịch chuyển sang trái

P

A
SA
A
’S

S



P
P
1
P
20
1

Y
*

Y

Sơ đồ 1.7: Tổng cung theo thực tế ngắn hạn

12


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

CHƯƠNG 2: CHU KỲ KINH DOANH
1 Khái niệm chu kỳ kinh doanh (hay còn gọi là chu kỳ kinh tế)
Nền kinh tế của tất cả các nước thường phải đối mặt với chu kỳ kinh doanh. Liên quan
đến chu kỳ kinh doanh đó là sự đình trệ sản xuất, lạm phát và thất nghiệp. Vậy chu kỳ kinh
doanh là gì? Sau đây nhóm sẽ đi sâu phân tích.
1.1.

Chu kỳ kinh doanh hiểu theo nghĩa chung
Y


Sản lượng
Một chu kì

Yp





t



Thu hẹp sx

đáy
Mở rộng sx

năm

Khi nghiên cứu chu kỳ kinh doanh, các nhà phân tích xem xét một cách cẩn thận nó có thể chỉ
diễn ra ở mức độ nhẹ nhưng cũng có thể là rất khốc liệt; sự phục hồi có thể diễn ra từ từ hoặc
cũng có thể là phát triển rất nhanh chóng.
Sơ đồ 2.1: Chu kỳ kinh doanh
Theo nghĩa chung nhất thì Chu kỳ kinh doanh được hiểu là sự biến động của các hoạt
động kinh tế ngắn hạn trong một thời kỳ nhất định, trong đó các giai đoạn tăng trưởng và các
giai đoạn suy giảm luân chuyển lẫn nhau không ngừng.
1.2.


Chu kỳ kinh doanh theo quan điểm của các nhà kinh tế

Người ta có thể dễ dàng nhận ra một số biểu hiện của chu kỳ kinh doanh, đặc biệt là
những biểu hiện mang tính đặc thù, nhưng rất khó có thể định nghĩa được một cách chính xác
về chu kỳ kinh doanh. Trong quá trình nghiên cứu những biến đổi rõ rệt của nền kinh tế, ban
13


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
đầu các nhà nghiên cứu và các sử gia đều tiến hành những quan sát trên nhiều khía cạnh khác
nhau: từ thời tiết xấu tới các cuộc chính biến, sự ham mê đầu cơ và những lỗi lo sợ, hoảng loạn.
Mục đích của quá trình nghiên cứu này chủ yếu là để giải thích cho sự khủng hoảng, suy sụp
của nền kinh tế.
Nhưng đối với các nhà kinh tế, họ quan tâm đến khái niệm chu kỳ kinh doanh bao gồm cả
những biến động của bản thân các hoạt động kinh tế và những nguyên nhân khác gây ra chu kỳ
kinh doanh. Ví dụ, theo quan điểm của Cassel thời kỳ Tăng vọt là một thời kỳ tăng đặc biệt về
đầu tư vốn cố định; “Thời kỳ Suy giảm hay Suy thoái là thời kỳ mà sự đầu tư về vốn cố định
giảm xuống dưới điểm mà nó đãđạt trước đây. Điều này có nghĩa là sự thay đổi giữa giai đoạn
tăng vọt và sụt giảm nhanh về cơ bản là sự biến đổi về đầu tư vốn cố định, nhưng nó không liên
quan trực tiếp đến những phần đầu tư khác. Các nhà kinh tế tin rằng những thay đổi về chi phí
và giá trị của tư liệu sản xuất là yếu tố chính lái sự vận động có tính chu kỳ của nền kinh tế.
Việc tìm ra một khái niệm về chu kỳ kinh doanh là rất khó khăn. Tuy nhiên Mitchell đã
tiến hành nghiên cứu theo cách nhận dạng qua kinh nghiệm thực tế những vấn đề chủ yếu xảy
ra trong các quá trình mở rộng và thu hẹp sản xuất và đãđưa ra được một định nghĩa như sau:
“Chu kỳ kinh doanh là một loại dao động được nhận thấy trong các hoạt động kinh tế
tổng hợp của những quốc gia mà tổ chức công việc chủ yếu của họ diễn ra trong các đơn vị
sản xuất kinh doanh: một chu kỳ gồm có các q trình mở rộng sản xuất xuất hiện vào các
khoảng thời gian giống nhau ở rất nhiều hoạt động kinh tế, kế theo là các giai đoạn giảm sút,
thu hẹp và các giai đoạn phục hồi tương tự mà những giai đoạn này hợp nhất vào giai đoạn
mở rộng của chu kỳ tiếp theo; quá trình thay đổi liên tiếp này thường xuyên diễn ra nhưng

khơng mang tính định kỳ; độ dài của các chu kỳ kinh doanh thường từ hơn 1 năm tới 10 hoặc
20 năm; chúng không thể chia được thành các chu kỳ ngắn hơn mà những chu kỳ này có những
đặc tính tương tự với biên độ dao động xấp xỉ của chính chúng.”
Điểm chính ở đây là sự cùng vận động của nhiều biến kinh tế hoặc các q trình kinh tế
xuất hiện mang tính đồng bộ trong quá trình diễn biến của bất kỳ chu kỳ kinh doanh nào. Rất
nhiều loại hoạt động khác nhau có xu hướng phát triển và tác động lẫn nhau. Trạng thái tự
nhiên của chu kỳ kinh doanh phụ thuộc và thay đổi theo những đặc điểm chủ yếu của nền kinh
tế, xã hội và thể chế chính trị.
14


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

15


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

2. Các pha của chu kỳ kinh doanh
2.1.

GDP
Thực tế

Đỉnh

Đỉnh
Hưng thịnh

Suy thoái


Phục hồi

Đường khuynh
hướng

Đáy
Một chu kì

Thời gian (năm)

Chu kỳ kinh doanh bốn pha (bốn giai đoạn)
Sơ đồ 2.2: Chu kỳ kinh doanh 4 pha
Giai đoạn 1:Suy thoái: là giai đoạn bắt đầu từ đỉnh của chu kỳ đến khoảng gần đáy. Lúc
này nền kinh tế vừa kết thúc thúc một chu kỳ và tiếp tục một chu kỳ mới nên nền kinh tế bắt
đầu đi xuống.
Thể hiện rõ nhất là tốc độ tăng trưởng GDP sẽ suy giảm trong trong 2 hay 3 quý liên
tiếp. Trong giai đoạn suy thoái, doanh nghiệp sẽ:
-

Cắt giảm nhân viên, tiết kiệm chi tiêu vì doanh thu bị sụt giảm mạnh.
Hạn chế tích trữ hàng tồn kho.
Trì hoãn các kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh.
Do bị ảnh hưởng bởi điều này, nhà cung cấp cũng sẽ làm tất cả mọi thứ để “phòng thân”.
Họ cũng cắt giảm chi phí, sa thải nhân viên và đẩy thất nghiệp tăng cao. Thất nghiệp tăng cao,
thu nhập giảm sút sẽ khiến chi tiêu co hẹp. Nền kinh tế vì vậy sẽ tiếp tục trượt dốc.
Giai đoạn 2: Đáy của suy thoái (Giai đoạn Khủng hoảng): là giai đoạn tiếp theo của
suy thoái tới đáy của chu kỳ. Đây là một sự suy thoái trầm trọng và kéo dài.

16



Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Đặc điểm của nền kinh tế trong giai đoạn này là tỷ lệ thất nghiệp cao, thu nhập giảm
sút,nguồn cung hàng hóa ứ đọng, tỷ lệ hàng tồn kho cao. Khi GDP bắt đầu ngừng suy giảm và
bắt đầu tăng trưởng trở lại thì nền kinh tế đã đạt đáy của chu kỳ. Sớm hay muộn thì cuộc suy
thối cũng sẽ đạt đáy, nhưng việc “nằm “ tại đó trong bao lâu thì rất khó đốn. Trong cuộc suy
thối của nền kinh tế Mỹ những năm 1930, đáy của chu kỳ kéo dài hàng năm trời.
Giai đoạn 3: Phục hồi: Là giai đoạn từ đáy của chu kỳ đến điểm ngang bằng với đỉnh của chu
kỳ trước.
Lúc này, GDP bắt đầu tăng trưởng trở lại, và nền kinh tế hồi phục khỏi suy thoái. Hoạt
động kinh doanh bắt đầu tiến triển một chút và doanh nghiệp tuyển lao động trở lại, tăng lượng
đặt hàng từ nhà cung cấp. Những nhà cung cấp này sẽ khởi động lại việc mở rộng sản xuất và
tuyển nhân viên.Nhiều công ăn việc làm hơn sẽ giúp người lao động cải thiện thu nhập và sau
đó tăng chi tiêu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Giai đoạn 4: Đạt đỉnh (Giai đoạn Hưng thịnh, bùng nổ): Là giai đoạn bắt đầu từ điểm
ngang bằng với đỉnh của chu kỳ trước đến đỉnh của chu kỳ hiện tại.
Lúc này, GDP thực của nền kinh tế không ngừng tăng trưởng thêm, đạt đỉnh và bắt đầu có
dấu hiệu đi xuống. Tại đỉnh của chu kỳ, hoạt động kinh doanh sẽ ngừng mở rộng thêm, việc
làm, tiêu dùng và sản xuất của nền kinh tế đạt đến mức cao nhất.Giống như điểm đáy của suy
thoái, thời kỳ đạt đỉnh này có thể dài hoặc ngắn. Khi thời kỳ đạt đỉnh kéo dài thì chúng ta sẽ
được hưởng lợi từ một giai đoạn thịnh vượng của nền kinh tế.
2.2. Chu kỳ kinh doanh 3 pha:
Trước đây sự biến động này diễn ra theo trình tự bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng
hoảng, phục hồi, và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa
kinh tế tiêu điều, thất nghiệp lan tràn, các nhà máy đóng cửa hàng loạt,v.v... khơng xảy ra nữa.
Vì thế tồn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn suy thoái và khủng hoảng, khi nền kinh
tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là pha suy thoái.
-


Suy thoái: là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng,
khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai q liên tiếp thì mới gọi là suy

-

thối.
Phục hồi: là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước khi suy thoái.
17


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
-

Hưng thịnh (bùng nổ):Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh. Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thối
mới.
Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha
chính là suy thối và hưng thịnh (hay mở rộng). Pha thứ nhất - giai đoạn mở rộng (thời gian từ
điểm cực tiểu đến điểm cực đại; Pha thứ hai - giai đoạn thu hẹp (thời gian từ điểm cực đại đến
điểm cực tiểu).
2.3. Chu kỳ kinh tế 6 pha
Đỉnh

Mở rộng

Thu hẹp

Phục hồi

Suy thoái


Chạm đáy

18


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

Idealized six stages of the business
Stage 1

Stage 2

Stage 4

Stage 3

Bonds

Stage 5
Stocks

Stage 6
commodities

recovery
recession

Bonds


Stocks

commodities

Sơ đồ 2.3: Chu kỳ kinh doanh 6 pha
Biểu đồ chu kỳ này là dựa trên một mối quan hệ trong liên thị trường theo đánh giá của
Martin Pring. Chu kỳ kinh doanh được thể hiện như sóng hình sin. Ba giai đoạn đầu tiên là một
phần của suy giảm kinh tế (suy yếu, đáy, phục hồi). Giai đoạn 3 cho thấy kinh tế trong giai
đoạn co thắt, nhưng hồi phục sau khi tạo đáy. Khi sóng hình sin vượt qua trục giữa, nền kinh tế
chuyển từ thu hẹp sang ba giai đoạn phát triển kinh tế (tăng trưởng, đỉnh và thu hẹp). Giai đoạn
6 vẫn cho thấy nền kinh tế trong một giai đoạn mở rộng, nhưng nền kinh tế đã suy yếu ở giai
đoạn này sau khi đạt đỉnh ở giai đoạn 5.
- Giai đoạn 1: cho thấy nền kinh tế thu hẹp và trái phiếu có xu hướng đi lên do lãi suất giảm.
Suy yếu kinh tế dẫn đến việc chính phủ thực hiện các chính sách nới lỏng tiền tệ và hạ thấp lãi
suất, điều này làm tăng đối với trái phiếu.
-

Giai đoạn 2: Đánh dấu một đáy trong nền kinh tế và cả thị trường chứng khoán. Mặc dù

điều kiện kinh tế đã ngừng xấu đi nhưng nền kinh tế vẫn không ở giai đoạn mở rộng hoặc thực
sự phát triển. Tuy nhiên, cổ phiếu được dự đoán một giai đoạn mở rộng của đáy trước khi kết
thúc giai đoạn suy yếu (thị trường chứng khoán thường đi trước nền kinh tế 6-9 tháng).
- Giai đoạn 3: Cho thấy một cải tiến lớn trong điều kiện kinh tế cũng như chu kỳ kinh doanh
chuẩn bị bước vào một giai đoạn mở rộng. Cổ phiếu đã tăng lên và hàng hóa hiện tại dự đốn
một giai đoạn mở rộng và giá có xu hướng đi lên.

19


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh

- Giai đoạn 4:Đánh dấu một giai đoạn phát triển đầy đủ. Cả cổ phiếu và hàng hóa đang tăng
lên, nhưng trái phiếu lại đi xuống vì việc mở rộng làm tăng áp lực lạm phát. Lãi suất bắt đầu
tăng cao hơn để chống lại áp lực lạm phát.
- Giai đoạn 5: Đánh dấu một đỉnh cao trong tăng trưởng kinh tế và thị trường chứng khoán.
Mặc dùviệc mở rộng tiếp tục, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ chậm hơn vì lãi suất tăng cao
và giá cả hàng hóa tăng cao gây ra nhiều tổn thất.Cổ phiếu dự đoán một giai đoạn thu hẹp vì đã
tạo đỉnh trước khi giai đoạn mở rộng thực sự kết thúc. Hàng hóa vẫn ở mức cao và tạo đỉnh sau
thị trường chứng khoán.
- Giai đoạn 6: Đánh dấu sự suy giảm trong nền kinh tế như các chu kỳ kinh doanh chuẩn bị
để di chuyển từ một giai đoạn mở rộng sang một giai đoạn suy thối. Cổ phiếu có xu hướng đi
xuống và giá cả hàng hóa hiện tại cũng thấp hơn trước nhu cầu giảm từ các nền kinh tế đang
xấu đi.
Đây là chu kỳ kinh doanh lý tưởng trong một môi trường lạm phát. Cổ phiếu và trái phiếu
cùng đi lên trong giai đoạn 2 và 3. Tương tự vậy, cả hai đều giảm trong giai đoạn 5 và 6. Điều
này sẽ không phải là trường hợp đúng trong một môi trường giảm phát, khi trái phiếu và cổ
phiếu sẽ di chuyển theo hướng ngược nhau.
Về cơ bản thì việc phận chia các pha trong chu kỳ kinh doanh của Martin Pring cũng
giống như trên tuy nhiên đánh giá của ông là dựa vào mối quan hệ trong liên thị trường nên có
sự cụ thể hóa hơn đó là dựa vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Từ đó ông cũng phân chia
các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh chi tiết hơn. Ông tách biệt 2 giai đoạn là khi chu kỳ đạt
đỉnh và chạm đáy ra thành 2 giai đoạn riêng. Và dựa vào mối quan hệ liên thị trường này ơng
suy rộng ra cho tồn nền kinh tế.
Ngồi chu kỳ kinh doanh như vừa trình bày, kinh tế học cịn nói đến chu kỳ Juglar, chu
kỳ Kuznets, chu kỳ Kondratiev, và chu kỳ Kitchen. Tuy nhiên, ngày nay người ta hầu như
không dùng các chu kỳ này để mô tả xu thế biến động kinh tế nữa do chúng khơng cịn phù hợp
với điều kiện hiện đại.

3. Biểu hiện của chu kỳ kinh doanh
Lịch sử phát triển kinh tế của nhiều nước khác nhau, nhất là của những nước công nghiệp
phát triển, đã trải qua nhiều chu kỳ kinh doanh khác nhau. Song thực tế cho thấy, chu kỳ kinh

20


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
doanh ở nước nào cũng lặp đi lặp lại không theo một độ dài thời gian giống nhau, không theo
một biên độ dao động giống nhau về các kết quả hoạt động kinh tế vĩ mô như GDP (theo giá so
sánh), thất nghiệp, lạm phát... Do vậy, rất khó dự báo trước được với độ chính xác cao. Sự kế
tiếp nhau các chu kỳ kinh doanh có thể được mơ tả một cách hình thức theo sơ đồ 2.1:
- Đỉnh là điểm cao nhất mà GDP đạt tới trong một chu kỳ.
- Đáy là điểm thấp nhất mà GDP giảm xuống trong một chu kỳ.
- Giai đoạn suy giảm của chu kỳ được xét là khoảng thời gian giữa đỉnh của chu kỳ liền
trước với đáy của chu kỳ được xét.
- Giai đoạn tăng trưởng của chu kỳ được xét là khoảng thời gian giữa đáy của chu kỳ
được xét với đỉnh của chu kỳ liền sau.
Mặc dù đãđơn giản hoá thực tế đi rất nhiều, song đồ thị mô tả sự kế tiếp nhau các chu kỳ
kinh doanh được vẽ ở trên cũng chứa đựng ba điểm đáng lưu ý sau:
- Đỉnh được xét đều cao hơn đỉnh liền trước, đáy được xét đều sâu hơn đáy liền sau.
- Giai đoạn tăng trưởng thường dài hơn giai đoạn suy giảm.
- Các chu kỳ kinh doanh thường khác nhau về độ dài thời gian.
Tuy nhiên, Chu kỳ kinh doanh vẫn có những đặc trưng sau đây:
Đặc trưng thứ nhất: các nhân tố chính thúc đẩy kinh tế phát triển trong một thời kỳ dài
nhiều thập kỷ thường là tiềm năng sản xuất và tổng mức cung, chứ không phải tổng mức cầu
của một năm nào đó. Nguồn gốc làm cho sản lượng tiềm năng tăng lên thường được phân ra
làm hai loại: loại thứ nhất là tăng mức đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên...); loại thứ hai là tiến
bộ của các lĩnh vực khoa học đặc biệt là khoa học công nghệ. Loại nguồn thứ hai có xu hướng
vận động đi lên khơng ngừng, ngày càng giữ vai trị trọng yếu hơn, nhất là trong những thập kỷ
gần đây.
Đặc trưng thứ hai: các chủ doanh nghiệp tích luỹ học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm,
tri thức hơn trong việc đối phó với chu kỳ kinh doanh làm cho biến động kinh tế diễn ra ít sóng
gió hơn.

Đặc trưng thứ ba: có thể là do những cú sốc bên ngoài xảy ra bất thường, khơng lệ thuộc
vào nội tình bên trong hệ thống kinh tế của mỗi quốc gia.

21


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Trong thực tế, mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh ở nước nào cũng thế, đều có những
hiện tượng đặc thù xảy ra trở thành những đặc điểm để nhận dạng. Như với giai đoạn suy giảm,
thường có những hiện tượng sau xuất hiện:
- Hàng tồn kho thường được thanh toán vào khởi đầu giai đoạn; ít lâu sau đó, vốn đầu tư
kinh doanh vào các nhà máy và các máy móc trang thiết bị cũng giảm mạnh - suy giảm loại
vốn này là hiện tượng dễ thấy nhất.
- Cầu về lao động giảm mạnh, đầu tiên là giảm sút về số giờ làm việc bình qn ngày,
tuần, tháng..., sau đó là giãn thợ và dẫn đến thất nghiệp cao hơn.
- Giá cả các mặt hàng nhạy cảm thường giảm.
- Lãi kinh doanh giảm mạnh.
- Giá chứng khốn giảm, vì những người đầu tư trên thị trường loại này khá nhạy bén cảm
nhận được điềm xấu.
- Yêu cầu tín dụng giảm, kéo theo lãi suất giảm.
Giai đoạn tăng trưởng thì có hình ảnh ngược lại của giai đoạn suy giảm, cho nên những
đặc trưng cho suy giảm xảy ra theo chiều ngược lại ở giai đoạn tăng trưởng.

4. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh là những biến động khơng mang tính quy luật. Khơng có hai chu kỳ
kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có cơng thức hay phương pháp nào dự
báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt
là pha suy thối sẽ khiến cho cả khu vực cơng cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn.
Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch
vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.


5. Nguyên nhân và biện pháp đối phó với chu kỳ kinh doanh
5.1. Nguyên nhân:
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
Các lý thuyết nghiên cứu về chu kỳ kinh doanh thường phân chia các nhân tố gây ra chu
kỳ kinh doanh làm hai loại.
a. Các nhân tố bên trong hệ thống kinh tế

22


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt củachính sách
tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh
tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù
hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Hoa Kỳ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất
danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
Mơ hình gia tốc – số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mơ hình này cho rằng các biến
động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư tạo ra
những dao động có tính chu kỳ của GDP.
Lý thuyết chính trị: đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus, Michał Kalecki,…
Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng
các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như Robert Lucas, Jr., Robert
Barro, Thomas Sargent…phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của giá cả,
tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản
lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong
suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao
động.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu cực

vềnăng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra những dao
động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải
Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,…
b. Các nhân tố bên ngoài hệ thống kinh tế
Các nhân tố bên ngoài kinh tế như là chính trị, thời tiết, dân số, chiến tranh,… gây nên
những cú sốc ban đầu. Những cú sốc này sau đó truyền vào nền kinh tế. Các yếu tố bên trong
vốn chứa đựng những yếu tố gây ra chu kỳ kinh doanh, phản ứng lại khuyếch đại thành những
chu kỳ kinh doanh lặp đi lặp lại.
Trong đó một trong những cơ chế gây ra chu kỳ kinh doanh là tác động qua lại giữa số
nhân Keynes và nhân tố gia tốc.
Nguyên nhân số nhân – gia tốc của chu kỳ kinh doanh:
23


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
Thuyết mơ hình số nhân – gia tốc đề xuất cách giải thích chu kỳ dựa vào một cú sốc bên
ngồi, được lan truyền bởi số nhân cùng với nhân gia tốc, tạo nên sự dao động lên xuống của
sản lượng.
-

Số nhân Keynes: là hệ số phản ánh lượng thay đổi của sản lượng khi tổng cầu thay đổi một
đơn vị. Một trong các yếu tố năng động làm thay đổi tổng cầu là đầu tư của tư nhân (I). Theo
Samuelson, sự thay đổi trong đầu tư vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của chu kỳ kinh doanh.
Là nguyên nhân bởi vì việc gia tăng hay giảm bớt đầu tư sẽ dẫn đến sự gia tăng hay sụt giảm
của sản lượng. Tác động này được thể hiện bằn mơ hình số nhân

∆ Y = m’. ∆ AD. Là kết

quả vì trong các chu kỳ kinh doanh, sản lượng liên tục tăng lên và giảm xuống. Khi sản lượng
thay đổi, đầu tư cũng thay đổi theo. Tác động của sản lượng làm thay đổi đầu tư được gọi là

-

nhân tố gia tốc.
Nhân tố gia tốc: là một lý thuyết nói về các nguyên nhân quyết định đầu tư ròng. Đây là
nguyên nhân chủ yếu chi phối các chu kỳ kinh doanh. Đầu tư rịng tăng khi sản lượng tăng
(tăng theo mơ hình số nhân), thu nhập tăng, đầu tư tăng lại làm cho sản lượng tăng. Ngược lại
đầu tư ròng giảm thì làm cho sản lượng giảm (giảm theo mơ hình số nhân), sản lượng giảm thì

đầu tư rịng giảm.
 Samuelson cho rằng sự tương tác giữa số nhân và gia tốc tạo ra chu kỳ kinh doanh. Cơ chế phối
hợp nhân tố gia tốc và mơ hình số nhân có thể mơ tả như sau (cơ chế hình thành chu kỳ kinh
doanh):
Đầu tư tăng => sản lượng tăng (theo mô hình số nhân) => đầu tư tăng (theo số nhân gia
tốc) => sản lượng tăng ,… đạt đỉnh chu kỳ.
Tiếp đến: Sản lượng ngừng tăng => đầu tư giảm (theo số nhân gia tốc) => sản lượng giảm
(theo mơ hình số nhân) => đầu tư giảm (theo nhân tố gia tốc) => sản lượng giảm,… chạm đáy
chu kỳ. Tiếp đến, đầu tư tăng lên và chu kỳ lại bắt đầu từ đầu.
Việc phân tích chu kỳ kinh doanh một cách đơn giản như trên, cần được bổ sung thêm
bằng những đặc trưng kinh tế khác nhau của nền kinh tế hiện đại như: Thị trường tài chính,
Lạm phát,… thì các phân tích mới trở nên hồn chỉnh hơn.
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, khơng có lý thuyết nào tỏ ra
đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi.

24


Nhóm 2: Tổng cung và chu kỳ kinh doanh
5.2. Biện pháp
Chu kỳ kinh doanh khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh
tế của nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến động theo chu kỳ kinh

tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất,
chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, vì cách lý
giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên
biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
-

Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường khơng hồn hảo, khiến
cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản
lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ nới lỏng. Khi nền kinh tế khuếch trương thì lại chuyển hướng các chính sách đó sang thắt
chặt.
A

giá P

A

A

D’

Mức

D

S

P
P


Q


Q Mức giá
tiềm năng

Sản
lượng Q

Sơ đồ 2.4: Tác động tổng cầu lên sản lượng tiềm năng
Sơ đồ 2.4 minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: tổng cầu dịch chuyển từ AD sang AD'
khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (lạm phát giảm).
-

25


×