Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tìm thấy các di vật cổ thông qua việc khảo sát và minh giải số liệu địa vật lý khu vực đình Chu Quyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 12 trang )

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Cơng nghệ 23 (2007) 118-129

Tìm thấy các di vật cổ thông qua việc khảo sát và minh giải
số liệu địa vật lý khu vực đình Chu Quyến
Vũ Đức Minh1,*, Nguyễn Bá Duẩn2
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Viện Vật lý Địa cầu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, Việt Nam

1
2

Nhận ngày 5 tháng 6 năm 2007

Tóm tắt. Bài báo trình bày các kết quả khảo sát, minh giải số liệu của các phương pháp Rađa xuyên
đất và Thăm dò điện đa cực, cũng như các kết quả đào thám sát bước đầu của Viện Bảo tồn Di
tích. Chúng tơi đã tìm ra các cổ vật trong khu vực đình Chu Quyến một cách khá chính xác bằng
các phương pháp Địa Vật lý nói trên càng khẳng định tính ưu việt và hiệu quả của các phương
pháp này đối với công tác khảo cổ. Kết quả này chắc chắn sẽ có những đóng góp tích cực cho cơng
tác bảo tồn, tu bổ, tơn tạo đình Chu Quyến nói riêng và các cơng trình Di tích văn hố khác nói chung.

Theo yêu cầu của Viện Bảo tồn Di tích là
khảo sát sơ bộ tồn bộ mặt bằng xung quanh
đại đình Chu Quyến; chúng tôi đã áp dụng
các phương pháp địa vật lý gần mặt đất,
phân giải cao để tiến hành khảo sát sơ bộ, và
trong điều kiện có thể thì phát hiện các cổ vật
bị chơn vùi ở khu vực đình Chu Quyến.
Kết quả minh giải số liệu đã tìm thấy các
di vật cổ tại khu vực đình Chu Quyến.
Chúng tơi giới thiệu trong bài báo này một số
kết quả chính áp dụng các phương pháp Địa


Vật lý để phát hiện các cổ vật bị chôn vùi.

1. Đặt vấn đề
Ngày 01/04/2007, Cục Di sản Văn hố - Bộ
Văn hố Thơng tin đã quyết định đầu tư để
tu bổ, tôn tạo kiến trúc tịa đại đình Chu
Quyến, tứ trụ, sân vườn và các hạng mục
khác thuộc khu vực này. Dự án do Viện Bảo
tồn Di tích thi cơng, dự kiến hồn thành vào
tháng 2 năm 2009. ∗
Đây là dự án thực nghiệm đầu tiên được
thực hiện, cho nên một trong các hạng mục
của dự án là tìm kiếm và phát hiện các di vật
cổ bị chôn vùi ở trong khu vực xung quanh
đại đình. Được biết, thực dân Pháp đã cho tu
sửa đình và xây nhà hội đồng (sau là hội
trường xã) vào năm 1926, rất có thể họ cũng
cho tơn tạo lại sân đình. Trước đây, đã có một
số hố khai quật được đào nhưng khơng thấy
có biểu hiện các hiện vật.

2. Khu vực và các phương pháp nghiên cứu
2.1. Khu vực nghiên cứu
Đình Chu Quyến nằm trong quần thể các
di tích gồm đình, chùa, lăng và đền thuộc xã
Chu Minh, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Theo
tài liệu để lại, Đình Chu Quyến được xây

______



Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-8587781
E-mail:

118


V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

dựng từ năm 1692 theo kiến trúc nhà sàn.
Đây là ngôi đình cổ và lớn của tỉnh Hà Tây,
được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm
1962. Đình có kết cấu tiêu biểu cho kiến trúc
gỗ cổ truyền Việt Nam, hiện còn lưu giữ
được các mảng chạm mang phong cách nghệ
thuật cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII
nhưng hệ thống cột, sàn, trần, vách, ... đã bị
xuống cấp, có nguy cơ biến dạng và đổ vỡ.
Theo quyết định của Cục Di sản Văn hố
- Bộ Văn hố Thơng tin, Viện Bảo tồn Di tích
đã bắt đầu thi cơng. Hiện trạng mặt bằng
cơng trình đang được lấp cát phía trước sân,
đã dựng 2 nhà khung sắt mái tơn ở phía Tây
Nam và phía Tây của đại đình phục vụ cho
việc chuẩn bị thi cơng hạ giải tồn bộ đại
đình và các hạng mục khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp Rađa xuyên đất (GroundPenetrating Radar - GPR) [1, 2] và Thăm dò
điện đa cực (Multi-electrode Resistivity
Imaging - MRI) [3, 4] đang được coi là hai

phương pháp chủ đạo trong các phương
pháp Địa vật lý khảo cổ hiện nay, giúp các
nhà khảo cổ thấy được khung cảnh tổng thể
của khu vực cần nghiên cứu một cách nhanh
chóng. Chúng tơi đã sử dụng hai phương
pháp này để khảo sát khu vực đại đình Chu
Quyến.
Theo yêu cầu của Viện Bảo tồn Di tích,
mặt khác do mặt bằng thi công đang triển
khai đồng thời các hạng mục khác cho nên
việc bố trí các tuyến khảo sát cũng như lựa
chọn ăngten thu phát, khoảng cách các điện
cực khá khó khăn. Vì vậy, chúng tơi mới chỉ
bố trí các tuyến và lựa chọn thơng số khảo sát
sao cho có thể khảo sát sơ bộ để có bức tranh
tổng thể ban đầu của khu vực đại đình Chu
Quyến và phát hiện các cổ vật bị chôn vùi ở
khu vực này dọc theo các tuyến khảo sát.

119

Các tuyến khảo sát được bố trí trên hình
1, trong đó có 28 tuyến GPR và 1 tuyến MEI.
Các tuyến này tập trung vào các vùng mặt
bằng cịn trống xung quanh đại đình và theo
các hướng hoặc vng góc hoặc song song
với các mặt đại đình.

3. Kết quả minh giải
Trong bài báo này chúng tơi chỉ giới thiệu

một số kết quả chính có liên quan đến các đối
tượng nghiên cứu phát hiện được để khai
quật, trong đó có tìm ra di vật cổ.
3.1. Các tuyến ở mặt trước đại đình
Bốn tuyến GPR đầu tiên CQD1, 4D1, 4D2
và 4D3 được tiến hành ở phía trước đại đình
theo cùng một hướng song song với mặt
trước đại đình theo thứ tự cách mép hiên
trước là 0.5, 1.0, 2.0 và 3.0 m. Tuyến CQD1
được bắt đầu cách mép hiên phải 1.5 m, kết
thúc cách mép hiên trái 4.2 m; tuyến 4D1 và
4D2 bắt đầu cách mép hiên phải 6.5 m, kết
thúc cách mép hiên trái khoảng 7 m; tuyến
4D3 bắt đầu cách mép hiên phải 2.5 m, kết
thúc cách mép hiên trái khoảng 8.5 m (hình 2).
Hình 3 là kết quả minh giải 4 tuyến trên.
Các mũi tên biểu thị các lớp có mặt trong lát
cắt. Trên các tuyến 4D1, 4D2 và 4D3 xuất
hiện vị trí dị thường (liên quan đến các di vật
cổ) ở các mét tương ứng là 33.5 (tuyến 4D1);
34 (tuyến 4D2) và 30 (tuyến 4D3), ở độ sâu
khoảng 50 - 60cm, ngoài ra ở độ sâu hơn cịn
có thể có đối tượng lớn hơn dạng khối, chúng
được khoanh bằng hình trịn nét đứt. Ngồi
ra, ngay phía trước sát hiên cửa đại đình có
thể có đối tượng dạng bậc khối.
Mặc dù trong bài báo này chúng tôi
không đi sâu nhiều đến các lớp địa chất,
nhưng qua minh giải tất các tuyến GPR,
chúng tôi thấy rằng lớp 1 (có độ sâu từ 0 - 15



V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

vực, lưu ý rằng dị thường phát hiện ở các
tuyến trên đều nằm trong lớp thứ 3 này. Vì
vậy, có thể lớp này liên quan đến lớp mặt sân
cổ. Cuối cùng là lớp 4 (từ ~ 1 m trở xuống)
xuất hiện không rõ ràng trên các tuyến. Các
lớp được chỉ ra bng cỏc hỡnh mi tờn thng
ng.
Đờng đất

Đờng đất

cm) liờn quan đến lớp đất trồng trên mặt; lớp
2 (từ 15 - 30 cm) có thể liên quan đến lớp sân
nền thời Pháp. Chúng ta có thể thấy rõ lớp
nền này ở phần đầu (từ 0 - 6 m) tuyến 4D2
(hình 3) là phần nằm ở phần sân lát gạch
trước nhà hội đồng; lớp 3 (từ 30 - 60 cm) có
thể liên quan đến mực nước mặt trong khu

3 3,010

18
5,8

1,270


3,9
64

83
1,4

5,252

5,167

7,491

1,347

2,980

3,935

4N6 (26.7m)

503

18,574

997

980 1,015

2,981


404

5

15,106

0

2

4D5 (30.0m)

4D4 (41.0m)
CQD2 (38.5m)

4D3 (38.0m)

4D2 (40.6m)

11,475

CQD1 (32.7m)
4D1 (40.3m)
611

1,113
4,018

623


1,825
1,084

4N2 (28.0m)

4N4 (22.0m)

2,942

559

27,000

2
TuyÕn cèng xây thoát nớc thải khu vực

4N3 (27.5m)
4N1 (22.0m)

Ghi chú

2,4
29
3
2,94

Đờng đất

4,187


22,764

1 6,07 3

1 ,808

4,415

23,931

Tuyến đo Địa vật lý
(Tên v độ d i tuyến)

9,600

3

5,586

5,624

2,156

44D4 (11.0m)

5

4D1 (40.3m)

6,536


Sân lát gạch chỉ
nứt vỡ, cỏ dại mäc

1,513
1,288
3,506

4

10,052

44D3 (11.0m)

7,143

44D2 (11.0m)

4,379

842

2,525

1,526

2,455

1,754


14,189

4N5 (15.0m)

1- Trơ biĨu
4- Nh ®Ĩ bia
5- Nh vệ sinh
2- Đại đình
3- Hội trờng xà 6- Miếu thờ thôn

11,478

3,041

4N5L1 (18.0m)

44D1 (10.0m)

Mặt bằng tổng thể hiện trạng v các tuyến đo Địa vật lý
Đình Chu Quyến - Chu Minh, Ba Vì, H Tây

43D1 (26.0m)

b
1,033
497

1

999


42D4 (19.0m)
42D3 (18.0m)

1,458

Đờng đất

42D2 (13.0m)

8,387
6,966

7,891

2,894

10m

DIEN (26.0m)

3,893

6,006

42D7 (19.0m)

6

6,728


42D1 (13.0m)
10,996

42D8 (14.0m)

2,289

7,023

42N4 (17.0m)

5,361

42N5 (17.0m)

42D9 (24.0m)

4,297

2,005

13,148

120

81 5

Hình 1. Sơ đồ các tuyến khảo sát Địa vật lý khu vực đình Chu Quyến.



V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Cơng nghệ 23 (2007) 118-129

Hình 2. Ví trí các tuyến CQD1, 4D1, 4D2 và 4D3.

Hình 3. Kết quả minh giải trên giản đồ sóng các tuyến CQD1, 4D1, 4D2 và 4D3.

Hình 4. Ví trí các tuyến 4N5, 4N5L1, 4N4, 4N1, 4N2 và 4N3.

121


122

V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Cơng nghệ 23 (2007) 118-129

Hình 5. Kết quả minh giải trên giản đồ sóng các tuyến 4N5, 4N5L1, 4N4, 4N1, 4N2, 4N3 và 4N6.

Vng góc với mặt trước đại đình là các
tuyến 4N5, 4N5L1, 4N4, 4N1, 4N2, 4N3 và
4N6. Các tuyến này đều bắt đầu từ mép hiên
trước đại đình, song song với lối đi vào đại

đình có vị trí được biểu diễn trên hình 1,
trong đó có các tuyến 4N4, 4N1, 4N2 và 4N3
nằm trong lối đi vào đại đình (hình 4). Trên 7
tuyến này cũng khơng có biểu hiện dị thường


V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129


mặc dù các biểu hiện phân chia các lớp khá
rõ (hình 5).
Các hình 6 - 8 xây dựng lại kết quả minh
giải các tuyến trên dưới dạng hình ảnh ghép
2D từng cặp các tuyến vng góc và song

123

song với nhau. Từ các hình này chúng ta có
thể hình dung khá rõ các lớp (ký hiệu mũi
tên) và dị thường (ký hiệu khoanh trịn)
trong khu vực các tuyến đi qua.

Hình 6. Hình ảnh ghép 2D giản đồ sóng các tuyến 4D1 và 4N4.
Hai tuyến này cắt nhau tại vị trí mét thứ 18.5 tuyến 4D1 và mét thứ 1 tuyến 4N4.

Hình 7. Hình ảnh ghép 2D giản đồ sóng các tuyến 4D3 và 4N5L1.
Hai tuyến này cắt nhau tại vị trí mét thứ 11 tuyến 4D3 và mét thứ 3 tuyến 4N5L1.


124

V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Cơng nghệ 23 (2007) 118-129

Hình 8. Hình ảnh ghép 2D giản đồ sóng các tuyến 4D4 và 4N6.
Hai tuyến này cắt nhau tại vị trí mét thứ 32.5 tuyến 4D4 và mét thứ 6 tuyến 4N6.

3.2. Các tuyến ở mặt trái đại đình
Tuyến MEI được tiến hành bắt đầu cách

mép hiên trước đại đình 8 m, cách mép hiên
trái 4 m. Khoảng cách điện cực đo là 1 m với
2 loại cấu hình (đối xứng và lưỡng cực).
Hình 9 là kết quả minh giải, hình trên và
dưới cùng là mặt cắt điện trở suất, hình ở

giữa là mặt cắt độ phân cực. Do khoảng cách
điện cực lớn nên các di vật có kích thước
nhỏ (nếu có) sẽ khơng thể phát hiện được.
Tuy nhiên trên cả 3 mặt cắt đều xuất hiện dị
thường điện trở suất thấp, độ phân cực lại
cao ở mét thứ 4 - 7, độ sâu mặt trên khoảng
gần 2 m. Dị thường này liên quan đến đối
tượng dạng đất bở rời hay bùn nhão.

Hình 9. Mặt cắt điện trở suất (hình trên và dưới cùng) và mặt cắt độ phân cực (hình giữa) tuyến MEI.


V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

3.3. Các tuyến ở mặt sau đại đình
Hình 10 biểu diễn vị trí và kết quả minh
giải trên giản đồ sóng tuyến 43D1 song song
với mép hiên sau đại đình và cách mép hiên
1 mét. Lớp thứ 2 cũng khá rõ với bề mặt ghồ

125

ghề, trong lớp này đáng chú ý nhất là phần
dị thường (có thể liên quan đến đối tượng

dạng khối) nằm khoảng từ mét thứ 11 - 14
của tuyến, ở độ sâu khoảng 30 - 40 cm.

Hình 10. Vị trí và kết quả minh giải trên giản đồ sóng tuyến 43D1.

3.4. Các tuyến ở mặt phải đại đình
Bốn tuyến song song với mép hiên phải
đại đình, đều bắt đầu từ trước nhà để bia,
gồm 44D1, 44D2, 44D3 và 44D4 lần lượt cách
mép hiên phải đại đình 2.5 , 4.0, 5.2 và 8.7 m
(hình 11); các kết quả minh giải cũng được
biểu diễn trên hình 11. Cả 4 tuyến này nằm
trên sân lát gạch là bề mặt phản xạ mạnh làm
biên độ sóng suy giảm đáng kể khi lan
truyền xuống bên dưới, do vậy lớp thứ 3 và 4
xuất hiện rất mờ so với các tuyến khác. Khi

so sánh phần cuối (từ mét 8 - 11) tuyến 44D3
(hình 11) và phần đầu (mét thứ 0 - 6) tuyến
4D1 (hình 3) mà hai tuyến này cắt nhau tại vị
trí mét thứ 1.3 tuyến 4D1 và mét thứ 11 tuyến
44D3 thì lớp thứ 2 ở vùng này khá ghồ ghề
và phần giản đồ sóng trên đó bị mất tín hiệu,
giống như tuyến 43D1 nằm sau đại đình. Khi
biểu diễn hình ảnh ghép 2D từ hai giản đồ
sóng của hai tuyến 44D2 và 4D2, chúng ta
thấy khá rõ dị thường cần quan tâm (hình
12).



126

V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Cơng nghệ 23 (2007) 118-129

Hình 11. Vị trí và kết quả minh giải trên giản đồ sóng các tuyến 44D1, 44D2, 44D3 và 44D4.

Hình 12. Vị trí và kết quả minh giải trên hình ảnh ghép 2D giản đồ sóng các tuyến 44D2 và 4D2.


33,010

18
5,8

127

Đờng đất

Đờng đất

V.. Minh, N.B. Dun / Tp chớ Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

1,2 70

3,9
64

83
1,4


5,252

5,361

Đờng đất

7,491

2,2 89

1,977

2,024

6

1,347

Hố đ o 2

3,907

7,023

1,788

1,458

1,05
4


2,890
1,911

18,574

Hố đ o 1

4,297

1

23,931

sai số về độ sâu khoảng 20 cm

Lu ý: các mặt l các mặt đại đình, tính từ nền đá

Vị trí tâm cách m trớc 1 m cách mặt phải 3.8 m
:
ặt
;

Kích thớc: 0.7 x 2 m; sâu 0.5 m

H ® o 4:
è

KÝch th−íc: 0.6 x 3 m; s©u 0.5 m


H đ o 3:


Vị trí tâm: cách m trớc 1.8 m; cách mặt trái 4 m
ặt

Kích thớc: 2 x 2 m; sâu 2 m

Vị trí tâm cách mặt trớc 2 m; cách mặt trái 0 m
:

H đ o 1:


Kích thớc: 1 x 3 m sâu 0.5 m
;

703

Sân lát gạch chỉ

nứt vỡ, cỏ dại m
ọc

2,280

2,4
29
43
2,9


22,764

Đờng đất

4,187

5

9,600

3

5,586

5,624

2,156

4

7,143

Hố đ o 4

Hố đ o 2:

11,478

3,867


1,754

1,143

4,379

842

Vị trí tâm cách mặt sau 1 m; cách m trái 12 m (thẳng trục tâm đại đình)
:
ặt

4,018

27,000

2

2,944

H đ o3


1,001

Tuyến cống xây thoát nớc thải khu vực

Đình Chu Quyến - Chu Minh, Ba Vì, H Tây


Mặt bằng tổng thể hiện trạng v các tuyến đo Địa vật lý

12
,197

11,475

15,106

557

16,073
1,808

4,415

815

Hỡnh 13. S đồ vị trí, kích cỡ các hố đào dự kiến.

3.5. Kiến nghị về các vị trí đào thám sát
Qua khảo sát sơ bộ và kết quả minh giải
nêu trên, chúng tôi đã đề nghị đào thám sát 4
hố với vị trí và kích thước trình bày trong
hình 13:
- Hố thứ nhất là hố triển vọng có di vật cổ
ở độ sâu khoảng 50 - 60cm, phía dưới có thể
có đối tượng lớn hơn dạng khối.
- Hố thứ hai liên quan đến đối tượng
dạng đất bở rời hoặc bùn nhão ở độ sâu

khoảng 2m, có thể nằm trong khu vực ao
hoặc giếng đã bị lấp.

- Hố thứ ba có thể liên quan đến đối
tượng dạng khối ở độ sâu khoảng 30 - 40 cm.
- Hố thứ tư có thể chỉ là một lớp nền cổ ở
độ sâu khoảng 20 - 30cm.
Ngoài ra, ngay phía trước sát hiên cửa đại
đình có thể có đối tượng dạng bậc khối (hình 3).
Tuy nhiên như đã nói ở trên, do lối vào đại
đình có hai bờ gạch tạo ra các phản xạ nhiễu
loạn, cho nên rất khó phán đốn được dị
thường ở vùng này. Vì vậy, nếu có thể thì đề
nghị cho đào thám sát hố thứ 5 tại vị trí này
để kiểm tra.


128

V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

4. Kết quả đào thám sát
Sau khi xác định từng vị trí cần tiến hành
đào thám sát trên bản vẽ tổng thể, trong hai
ngày 21 và 22/7/2007, Viện Bảo tồn Di tích đã
mở hai hố thám sát tại góc Tây Nam của đại
đình (hố 1 và hố 2). Kết quả thu được như
sau:
Hố thứ 1:
- Vị trí: Nằm ở góc Tây Nam và cách mép

ngồi hiên phía trước đình 0,5m. Hố được
mở có chiều Đơng - Tây là 2m, chiều Bắc Nam là 1m.
- Kết quả đào thám sát: Tới độ sâu 0,5m
bắt đầu xuất lộ nhiều hiện vật, trong đó có 01
kìm nóc bằng đất nung phong cách nghệ

thuật thế kỷ 17 nằm tại góc Đơng Bắc hố.
Ngồi ra, tại phần vách phía Nam cịn phát
hiện được nhiều mảnh gốm, sành (niên đại
chưa xác định) cùng một phần đầu rồng đất
nung phong cách nghệ thuật thế kỷ 17 – 18
(hình 14)
Hố thứ 2:
- Vị trí: nằm về phía Nam của hố 1, cách
2,5m, với diện tích 4m2 (mỗi chiều 2m).
- Kết quả đào thám sát: Khi đào tới độ sâu
1,6m chúng tôi mới gặp trong hố vài mảnh
sành, gốm, gạch vụn nhỏ, khơng có hiện vật
giá trị nào. Tiếp tục đào xuống tới độ sâu 2m,
tại phần vách phía Nam của hố là chất đất
nhão, rời, không giống như chất đất sét ở
tầng trên.

Hình 14. Hình ảnh ví dụ về một số di vật cổ tìm thấy ở hố thứ 1.

5. Kết luận
- Kết quả đào thám sát bước đầu của Viện
Bảo tồn Di tích (có xác nhận của Cục Di sản
Văn hố - Bộ Văn hố Thơng tin) tại hố thứ 1
và hố thứ 2 mà chúng tôi đã chỉ ra là khá phù

hợp với kết quả khảo sát và minh giải số liệu
Địa Vật lý do chúng tôi thực hiện. Một lần
nữa khẳng định tính ưu việt và hiệu quả của
các phương pháp Địa Vật lý là không phá
huỷ, có thể khảo sát trên diện rộng trong thời
gian khảo sát ngắn và giá thành thấp, ngồi
ra có thể cung cấp cho các nhà khảo cổ biết

hướng phát triển, phạm vi phân bố của các
đối tượng khảo cổ một cách khá chính xác.
Đây là cơ sở quan trọng để Viện Bảo tồn Di
tích có thể mở tiếp những hố thám sát khác.
Kết quả nói trên chắc chắn sẽ có những đóng
góp tích cực cho cơng tác bảo tồn, tu bổ, tơn
tạo đình Chu Quyến nói riêng và các cơng
trình Di tích văn hố khác nói chung.
- Do việc khảo sát tiến hành song song
với các công việc tu bổ khác cho nên địa hình
bề mặt khá khó khăn cho việc đo đạc, có ảnh
hưởng nhiều đến kết quả đo đạc GPR, nhất là
khi phải sử dụng ăngten tần cao. Mặt khác,


V.Đ. Minh, N.B. Duẩn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 23 (2007) 118-129

do mục đích chỉ khảo sát sơ bộ (đã trình bày
ở trên) nên thời gian khảo sát cịn ít, chưa
thiết kế khảo sát chi tiết cho nên chưa thể có
bức tranh chi tiết và đầy đủ cho toàn khu
vực, đặc biệt có thể đã bỏ qua các đối tượng

khảo cổ có kích cỡ nhỏ. Vì vậy, theo chúng
tơi cần phải tiếp tục tiến hành khảo sát Địa
Vật lý chi tiết hơn.
- Hiện nay, theo đề nghị của Cục Di sản
Văn hoá - Bộ Văn hố Thơng tin, chúng tơi đã
kết hợp với Viện Bảo tồn Di tích viết báo cáo
làm cơ sở cho Cục Di sản Văn hoá phê duyệt
kế hoạch khai quật chính thức. Đề nghị các
cấp nhanh chóng cho khai quật tiếp các hố đã
khai quật cũng như các hố đã chỉ ra mà chưa
khai quật để có kết quả đầy đủ hơn.
Lời cảm ơn: Tác giả cảm ơn các cán bộ
của Viện Bảo tồn Di tích là CN. Phạm Hoài
Nam, ThS. Tạ Quốc Khánh; cảm ơn ThS. Đỗ
Anh Chung, cán bộ Trung tâm Nghiên cứu

129

phòng trừ Mối - Viện Khoa học Thuỷ lợi đã
giúp đỡ chúng tôi trong q trình đo đạc
ngồi thực địa và nhanh chóng tổ chức đào
thám sát để minh chứng cho kết quả của
chúng tôi.

Tài liệu tham khảo
[1] Conyers, B. Lawrence, Dean Goodman, Ground
Penetrating
Radar:
An
Introduction

for
Archaeologists, Altamira Press, Walnut Creek,
California, U.S.A, 1997.
[2] N. Stewart, H. Griffiths, Ground Penetrating
Radar-2nd Edition, MPG Books Limited, Bodmin,
Cornwall, UK, 2004.
[3] M.H. Loke, Electrical Imaging Surveys for
Environmental and Engineering Studies, Penang,
Malaysia, 1999.
[4] Res2dinv Manual Ver.3.5.4, Geotomo Software,
Penang, Malaysia, 2004.

Finding the old objects by investigating and analysing
geophysical data in area of Chu Quyen Temple
Vu Duc Minh1 , Nguyen Ba Duan2
1
2

College of Science, VNU, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam

Institute of Geophysics, Vietnamese Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Hanoi, Vietnam

The results of investigating and analysing geophysical data obtained with Ground-Penetrating
Radar (GPR) and Multi-electrode Resistivity Imaging (MRI) methods and the results of preliminary
investigating dig of Institute for Conservation of Monuments are presented in this paper. We have
found the old objects exactly in the area of Chu Quyen Temple by above-mentioned geophysical
methods. This confirms the advantages and effectiveness of the GPR and MRI methods for
archaeology. These results certainly contribute to conservation, restoration and embellishment of Chu
Quyen Temple in particular and of other cultural vestiges in general.




×