Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Luận văn nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 123 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lơì mở đầu
Quy ước trình bày
Mục lục
1
Dẫn nhập
5
0.1. Lí do chọn đề tài

5
0.2. Phạm vi nghiên cứu

6
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6
0.3.1. Mục đích nghiên cứu

6
0.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

6
0.4. Lịch sử vấn đề

7
0.4.1. Nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ

7
0.4.2. Nghiên cứu định danh trong tiếng Việt và trong PNNB
-1-



8
0.5. Phương pháp nghiên cứu

10
0.6. Bố cục luận văn:

11
Chương một: Một số vấn đề về Nam Bộ và định danh
13
1.1. Một số vấn đề chung về Nam Bộ

13
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên

14
1.1.1.1. Địa hình, đất đai

14
1.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn

14
1.1.1.3. Sông rạch

15
1.1.1.4. Đảo, bờ biển và rừng

16
1.1.1.5. Hệ quả


16
-2-
1.1.2. Đặc điểm xã hội
18
1.1.2.1. Nguồn gốc dân cư
18
1.1.2.2. Đời sống và tổ chức xã hội
20
1.1.3. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ

23
1.1.3.1. Văn hoá và các thành tố văn hoá
23
1.1.3.2. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ
23
1.1.3.3. Sự biến đổi và giao thoa văn hoá ở Nam Bộ
28
1.1.4. Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
29
1.1.4.1. Kh.niệm PN; từ đ.phương,phân vùng,xác định vùng PNNB
29
1.1.4.2. Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ

32
1.1.4.3. Sự tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ

37
1.2. Định danh từ vựng
38
1.2.1. Khái niệm định danh

38
-3-
1.2.2. Định danh từ vựng
40
1.2.3. Đặc trưng văn hoá trong định danh
46
1.3. Tiểu kết
50
Chương hai: Hệ thống từ ngữ gọi tên riêng
51
2.1. Địa danh
51
2.1.1. Nguồn gốc
51
2.1.2. Cấu tạo
54
2.1.3. Phương thức biểu thị
61
2.1.4. Ngữ nghĩa
67
2.2. Nhân danh
70
2.2.1. Nguồn gốc
71
2.2.2. Cấu tạo
72
2.2.3. Phương thức biểu thị
79
2.2.4. Ngữ nghĩa
81

-4-
2.3. Tiểu kết
84
Chương ba: Hệ thống từ ngữ gọi tên chung
86
3.1. Định danh động vật
86
3.1.1. Nguồn gốc
88
3.1.2. Cấu tạo
88
3.1.3. Phương thức biểu thị
90
3.1.4. Ngữ nghĩa
92
3.2. Định danh thực vật
93
3.2.1. Nguồn gốc
95
3.2.2. Cấu tạo
95
3.2.3. Phương thức biểu thị
96
3.2.4. Ngữ nghĩa
98
3.3. Định danh công cụ, phương tiện sản xuất và sinh hoạt
99
3.3.1. Nguồn gốc

100

3.3.2. Cấu tạo
-5-

101
3.3.3. Phương thức biểu thị

102
3.3.4. Ngữ nghĩa

104


000
3.4. Định danh đơn vị đo lường dân gian 106
3.4.1. Nguồn gốc

107
3.4.2. Cấu tạo

107
3.4.3. Phương thức biểu thị

107
3.4.4. Ngữ nghĩa

108
3.5. Định danh về sông nước và hoạt động trên sông nước

113 3.5.1. Nguồn gốc 0
3.5.1. Nguồn gốc


113
3.5.2. Cấu tạo

114
-6-
3.5.3. Phương thức biểu thị

115
3.5.4. Ngữ nghĩa

116
3.6. Định danh những sản phẩm được chế biến từ nông sản, thuỷ sản

117
3.6.1. Nguồn gốc

118
3.6.2. Cấu tạo

118
3.6.3. Phương thức biểu thị

119
3.6.4. Ngữ nghĩa

121
3.7. Tiểu kết

122

Kết luận

124
Tài liệu tham khảo

128
Phụ lục
-7-
DẪN NHẬP
0.1. Lí do chọn đề tài
0.1.1. Nam Bộ là một vùng đất mới của người Việt ở phương nam. Do có
thuận lợi về điều kiện tự nhiên nên Nam Bộ có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát
triển kinh tế. Tính cách, tâm hồn, nếp sinh hoạt của con người ở đây cũng có những
nét rất riêng so với cội nguồn. Đó là những con người bộc trực, thẳng thắn, yêu ghét
hết mình và vẫn giữ được đức cần cù, chịu khó, lòng yêu nước, thương nòi vốn có
của dân tộc. Một miền đất giàu có, trù phú với mênh mang sông nước và những con
người nhân hậu là sức lôi cuốn những ai yêu quý và quan tâm đến cuộc sống con
người nơi đây.
0.1.2. Phương ngữ Nam Bộ (PNNB), từ địa phương Nam Bộ không những
phản ánh cách phân cắt hiện thực của người Nam Bộ mà nó còn mang những nét
văn hoá rất đặc trưng của vùng đất mới. Đây là nguồn đề tài hấp dẫn cho các nhà
văn hoá học, ngôn ngữ học… Nghiên cứu định danh trong ngôn ngữ chính là
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hoá, ngôn ngữ và tư duy. Mối quan hệ này thể
-8-
hiện ở nhiều cấp độ khác nhau trong ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp.
Trong đó, cấp độ từ vựng là rõ ràng nhất.
Định danh có tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc sống con người. Nếu đối
tượng xung quanh con người không có tên gọi thì con người sẽ mất phương hướng,
ảnh hưởng đến giao tiếp và tư duy. “Mất cái tên gọi con người sẽ mất một trong
những khả năng định hướng trong thế giới quanh mình” [9; 167]. Định danh từ

vựïng trong PNNB là một vấn đề khá thú vị và chưa được các nhà Việt ngữ học
quan tâm. Qua việc nghiên cứu về đặc điểm định danh từ vựng, đề tài thử góp phần
lí giải một phần đặc điểm của PNNB. Đồng thời, qua đó hiểu thêm về môi trường tự
nhiên, xã hội, thấy được nét độc đáo về văn hoá của miền đất tận cùng Tổ quốc này.
0.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về định danh từ vựng, luận văn tập trung nghiên cứu về hệ thống
từ ngữ gọi tên riêng (như: địa danh, nhân danh), hệ thống từ ngữ gọi tên chung
(như: những sản phẩm được chế biến từ nông sản, thuỷ sản; các loại động thực vật;
những công cụ, phương tiện lao động và sinh hoạt của con người; những đơn vị đo
lường dân gian và nhóm từ liên quan đến sông nước) sau khi tìm hiểu về những vấn
đề chung về Nam Bộ và về định danh. Như vậy, đối tượng khảo sát của chúng tôi
bao gồm từ và ngữ định danh. Luận văn cũng chỉ nghiên cứu phương thức định
danh trực tiếp, không có điều kiện nghiên cứu phương thức gián tiếp.
Sở dĩ chúng tôi giới hạn như vậy vì một mặt, bản thân không đủ năng lực,
khuôn khổ luận văn không cho phép; mặt khác, chỉ khảo sát hệ thống từ ngữ nói
trên bởi vì những từ ngữ này được sử dụng nhiều trong đời sống cộng đồng người
dân Nam Bộ, gắn bó với môi trường tự nhiên, thể hiện được đặc trưng văn hoá Nam
Bộ.
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.3.1. Mục đích nghiên cứu: Từ kết quả nghiên cứu tiếng nói của người
Nam Bộ thông qua các tài liệu có được của các tác giả đi trước, qua thực tiễn lời ăn
tiếng nói hằng ngày của người dân địa phương, luận văn nhằm tìm hiểu về định
danh từ vựng của PNNB, đưa ra những nhận xét bước đầu về những đặc điểm có
-9-
tính quy luật trong việc định danh hiện thực của tiếng nói Nam Bộ. Đó cũng chính
là đặc điểm ngôn ngữ – văn hoá của vùng đất này.
0.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra
những nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu về đặc điểm về tự nhiên và xã hội của Nam Bộ.
+ Tìm hiểu đặc trưng văn hoá của Nam Bộ.

+ Nêu lên những đặc điểm của PNNB.
+ Nghiên cứu về sự tri nhận hiện thực qua việc định danh từ ngữ trong
PNNB.
0.4. Lịch sử vấn đề
0.4.1. Nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ
Nghiên cứu PNNB có các tác giả tiêu biểu:
- Hoàng Thị Châu (1989) nghiên cứu PNNB trong phương ngữ Nam (như
cách chia vùng của tác giả) và với công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước của
mình. Bà chú ý đặc biệt đến vấn đề ngữ âm: “Tác giả dựa vào những phương pháp
của ngôn ngữ học và phương ngữ học để miêu tả, phân tích, giới thiệu với bạn đọc
những biến thể địa phương của tiếng Việt, lí giải các nguyên nhân xã hội và các quy
luật biến đổi ngữ âm đã tạo ra sự đa dạng đó” [8; 5,6]. Tác giả cho rằng đây là sự
khác biệt đáng tin cậy và thể hiện lịch sử phát triển của tiếng Việt. Tuy nhiên, vì
ranh giới phân vùng của tác giả về phương ngữ Nam quá rộng, do đó có một số vấn
đề về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, tác giả đã có những nhận xét không chỉ dành
riêng cho PNNB.
- Nguyễn Văn Ái (1994): Do cách phân vùng của tác giả khác với Hoàng Thị
Châu - hẹp hơn vềø phạm vi địa lí, do đó ông miêu tả đặc trưng ngôn ngữ vùng này
cụ thể hơn. Cách xác định vùng PNNB của tác giả trùng khớp với ranh giới địa lí
hiện nay. Đây cũng là quan điểm phân vùng của tác giả luận văn. Các công trình
nghiên cứu của Nguyễn Văn Ái về PNNB khá nhiều. Tuy nhiên, cuốn được giới
nghiên cứu nhắc đến nhiều hơn là Từ điển phương ngữ Nam Bộ.
-10-
- Trần Thị Ngọc Lang (1995): Công trình khoa học (PTS) của bà nghiên cứu
tương đối toàn diện về PNNB. Từ công trình này, tác giả đã cho xuất bản cuốn
Phương ngữ Nam Bộ – những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa so với phương ngữ
Bắc Bộ. Ngoài ra, bà còn có nhiều bài viết khác về PNNB, trong đó đáng chú ý là
bài viết Điểm khác biệt về ngữ pháp của phương ngữ Nam Bộ (so sánh với Bắc Bộ)
(Tạp chí Ngôn ngữ số 2/ 2002).
- Hồ Lê (1992) cùng với nhóm tác giả của mình (Huỳnh Lứa, Thạch Phương,

Nguyễn Quang Vinh) nghiên cứu PNNB dưới góc nhìn văn hoá trong Văn hoá dân
gian người Việt ở Nam Bộ.
- Cao Xuân Hạo (2001) lại đặc biệt quan tâm tới hệ thống âm vị của các
phương ngữ. Ông đối chiếu hệ thống âm vị của PNNB với phương ngữ Hà Nội,
Nam Trung Bộ, cả phát âm cổ để tìm ra nét khu biệt của hệ thống âm vị trong
phương ngữ này. Đây là ý kiến của ông trong bài viết “Hai vấn đề âm vị học của
phương ngữ Nam Bộ” in trong Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm ngữ pháp ngữ nghĩa.
- Bùi Khánh Thế (2001) và nhóm cộng tác trong Mấy vấn đề về tiếng Việt
hiện đại đã dành một số trang nghiên cứu đặc điểm ngữ âm của PNNB qua đặc
điểm ngữ âm tiếng Sài Gòn mà tác giả cho đó là tiếng Nam Bộ chuẩn.
- Huỳnh Công Tín (1999) nghiên cứu về ngữ âm PNNB với luận án tiến sĩ
Hệ thống ngữ âm tiếng Sài Gòn (So sánh với phương ngữ Hà Nội và một số phương
ngữ khác ở Việt Nam). Ngoài ra, anh cũng có một số bài viết về ngôn từ của PNNB,
cách diễn đạt của người dân vùng ĐBSCL.
0.4.2. Nghiên cứu định danh trong tiếng Việt và trong phương ngữ Nam
Bộ
- Nguyễn Đức Tồn (2002): Trong công tình Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân
tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác)
của mình, ông đã đưa ra một số vấn đề về lí thuyết định danh ngôn ngữ; tìm hiểu
đặc điểm dân tộc của định danh động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người… so sánh
với ngôn ngữ khác, đặc biệt là tiếng Nga. Đây là một công trình nghiên cứu theo
-11-
hướng lí thuyết thuộc về lĩnh vực tâm lí – ngôn ngữ học tộc người – một lĩnh vực
khá mới mẻ đối với ngành ngôn ngữ học Việt Nam.
Trước đó, ông cũng đã có một bài viết Đặc trưng dân tộc của tư duy ngôn
ngữ qua hiện tượng từ đồng nghĩa (Tạp chí Ngôn ngữ số 3/ 1993) ít nhiều liên quan
đến lĩnh vực này.
- Đỗ Hữu Châu (1998, 1999) trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Từ vựng
ngữ nghĩa tiếng Việt đã dành nhiều trang nói về chức năng định danh của tín hiệu
ngôn ngữ. Ông khẳng định vai trò quan trọng của định danh trong giao tiếp và tư

duy của con người, miêu tả một cách cụ thể và thuyết phục quá trình định danh
trong tiếng Việt. Tuy nhiên, ông chỉ thừa nhận định danh ở cấp độ từ, không thừa
nhận định danh ở cấp độ cụm từ (trừ cụm từ ở dạng định danh hóa) và câu. Ông cho
cụm từ tự do chỉ có chức năng biểu vật.
- Lí Toàn Thắng (2002, 2005): Một phần quan trọng trong cuốn Mấy vấn đề
Việt ngữ học và ngôn ngữ học đại cương và đặc biệt là cuốn Ngôn ngữ học tri
nhận: Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt của ông là công trình về đại
cương ngôn ngữ học tâm lí và ngôn ngữ học tri nhận. Phần này liên quan đến lí
thuyết về định danh, về sự phân cắt hiện thực của con người.
- Lê Trung Hoa (2002, 2003) đặc biệt chú ý đến mảng địa danh, nhân danh.
Các cuốn sách đáng chú ý về hai mảng này là: Họ và tên người Việt Nam, Tìm hiểu
nguồn gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học, Từ điển địa danh Thành phố Sài
Gòn – Hồ Chí Minh.
- Trịnh Sâm (2002): Cuốn sách Đi tìm bản sắc tiếng Việt của ông là tập hợp
những bài viết về tiếng Việt. Trong đó, PNNB và định danh là hai vấn đề có liên
quan đến đề tài khảo sát ở đây. Ngoài ra, bản sắc văn hoá Việt được ông tìm hiểu
qua ngôn ngữ địa phương Nam Bộ. Ông gợi ra một số vấn đề thú vị liên quan đến
định danh trong bài viết “Về cơ chế ngữ nghĩa – tâm lí trong tổ hợp song tiết chính
phụ tiếng Việt”.
- Nguyễn Thuý Khanh (1994): Với các bài viết về định danh động vật ở
tiếng Việt và tiếng Việt so sánh với tiếng Nga, tác giả đã cho người đọc nắm được
-12-
khá cụ thể và sâu sắc về một lĩnh vực của định danh trong tiếng Việt. Đó là các bài
viết: Đặc điểm định danh tên gọi động vật trong tiếng Việt, Một vài nhận xét về
thành ngữ so sánh có tên động vật tiếng Việt, Đặc điểm định danh của trường tên
gọi động vật tiếng Nga trong sự đối chiếu với tiếng Việt
Trong luận văn của mình, chúng tôi muốn khẳng định lại những thành tựu
của các công trình đi trước. Tuy nhiên, trước những vấn đề còn tranh cãi, chúng tôi
cũng chọn cho mình một quan niệm mà theo chúng tôi là có tính thuyết phục và
được nhiều người đồng tình hơn. Chẳng hạn như phân vùng PNNB theo sự phân

vùng địa lí như hiện nay, quan điểm võ đoán và phi võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ.
Đồng thời, chúng tôi đi sâu vào định danh từ vựng trong PNNB – vấn đề mà các tác
giả đi trước chưa quan tâm nhiều.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
0.5.1. Đề tài tham khảo các tài liệu liên quan đến nhiều lĩnh vực như: tự
nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội, kinh tế của đồng bằng Nam Bộ; liên quan đến các
lĩnh vực ngôn ngữ học như từ vựng học, ngôn ngữ học tri nhận, ngữ pháp học,
phong cách học, ngữ dụng học; đến các tài liệu nghiên cứu về tiếng Việt nói chung,
PNNB nói riêng của các nhà ngôn ngữ học uy tín.
0.5.2. Phương pháp chủ yếu sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp
nghiên cứu liên ngành, phương pháp thống kê – phân loại, phương pháp so sánh -
đối chiếu, phương pháp miêu tả:
- Vấn đề định danh từ vựng có liên quan đến nhiều ngành khoa học khác
nhau như: văn hoá học, tâm lí học, xã hội học, dân tộc học v.v. Do đó, khi thực hiện
đề tài, chúng tôi vừa phải có sự vận dụng tổng hợp kiến thức các chuyên ngành, vừa
sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để có thể tìm hiểu đặc điểm định danh
từ vựng trong PNNB một cách toàn diện và sâu sắc.
- Tiến hành tập hợp ngữ liệu thu thập được qua các tài liệu khoa học, qua
điền dã để làm căn cứ triển khai đề tài hoặc minh hoạ cho các luận điểm. Thống kê,
phân loại ngữ liệu, tư liệu.
-13-
- So sánh các ngữ liệu, số liệu từ vựng đã thống kê được giữa các vùng
phương ngữ khác, đối chiếu với các thời kì khác nhau trong PNNB.
- Miêu tả những ngữ liệu minh hoạ cho những nhận xét bước đầu về định
danh các trường từ vựng trong PNNB.
Các phương pháp trên chúng tôi không thực hiện riêng lẻ, biệt lập mà phối
hợp với nhau trong suốt quá trình nghiên cứu.
0.6. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm ba chương. Thứ tự tên các chương như sau: Một số vấn đề về Nam Bộ và định

danh, Hệ thống từ ngữ gọi tên riêng, Hệ thống từ ngữ gọi tên chung.
Ở chương một, luận văn trình bày các vấn đề về đặc điểm tự nhiên như địa
hình, đất đai, khí hậu, thuỷ văn, hệ thống sông rạch, đảo, bờ biển và rừng. Đây là
điều kiện để tạo nên những ưu thế cũng như hạn chế về môi trường ở vùng đất mới.
Nó tác động, chi phối đến đời sống sinh hoạt, đến tâm hồn, tính cách của con người
nơi đây. Ở chương này, luận văn cũng trình bày một số vấn đề về nguồn gốc dân cư,
cách tổ chức xã hội rất riêng của Nam Bộ; phác hoạ đôi nét về đặc trưng và sự giao
thoa văn hoá ở Nam Bộ. Những điều này, không thể không liên quan tới đặc điểm
ngôn ngữ của người Việt ở phương nam.
Luận văn cũng đồng quan điểm với các tác giả đi trước về khái niệm phương
ngữ, từ địa phương. Chúng tôi cố gắng trình bày một cách ngắn gọn về việc phân
vùng phương ngữ trong tiếng Việt, đưa ra quan niệm mà chúng tôi cho là hợp lí
trong việc xác định ranh giới vùng PNNB để tiện cho việc nghiên cứu.
Luận văn trình bày cơ sở lí luận về định danh, dẫn ra những khái niệm về
định danh, định danh từ vựng. Đây là những quan niệm của những nhà ngôn ngữ
học có uy tín và được nhiều người thừa nhận. Bên cạnh đó, chương này còn quan
tâm đến các nội dung như quy trình định danh, một số đặc điểm trong định danh từ
vựng, đặc trưng văn hoá trong định danh. Ở đây, chúng tôi cũng chọn cho mình một
quan niệm về cơ sở định danh (võ đoán và phi võ đoán) trước những quan niệm trái
chiều nhau.
-14-
Phương ngữ và định danh là hai vấn đề có tính chất cơ sở có thể coi là điểm
xuất phát làm định hướng cho việc triển khai đề tài ở chương hai và ba.
Nhìn chung, nội dung chương một không mới. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng
trình bày ngắn gọn, hệ thống, chọn lọc những ý cơ bản và chỉ nhấn mạnh đến những
vấn đề phục vụ cho mục đích của đề tài. Mặt khác, chương này cũng có một vài ý
kiến nhỏ được nhìn nhận theo quan điểm riêng của tác giả luận văn.
Đóng góp chủ yếu của luận văn tập trung ở chương thứ hai và thứ ba. Ở hai
chương này, chúng tôi tập trung trình bày những vấn đề như: đặïc điểm nguồn gốc,
đặc điểm cấu tạo, đặc điểm về phương thức biểu thị, đặc điểm ngữ nghĩa trong định

danh từ vựng. Luận văn lần lượt trình bày các đối tượng định danh mà chúng tôi
cho là mang dấu ấn rất nhiều của ngôn ngữ vùng đất Nam Bộ.
Chương một
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NAM BỘ VÀ ĐỊNH DANH
1.1. Một số vấn đề chung về Nam Bộ
Nam Bộ gồm 19 tỉnh thành, chia thành hai khu vực: miền Đông Nam Bộ
(ĐNB) và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL, còn gọi là Tây Nam Bộ). ĐNB gồm
các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và
thành phố Hồ Chí Minh; ĐBSCL gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang, An Giang,
Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, Vĩnh
Long, Trà Vinh và thành phố Cần Thơ.
Vị trí địa lí Nam Bộ: phía bắc và tây - bắc giáp Cam-pu-chia, tây - nam giáp
vịnh Thái Lan; đông và nam giáp biển Đông; đông - bắc giáp Tây Nguyên và Nam
Trung Bộ.
-15-
Nam Bộ có diện tích: 63.258 km
2
(ĐNB: 23.545 km
2
, ĐBSCL: 39.713 km
2
),
dân cư: 27,3 triệu người (ĐNB:10,8 triệu người; ĐBSCL: 16.5 triệu người) – (số
liệu năm 2001).
Có thể đánh giá chung về Nam Bộ như sau: “Vùng đất Nam Bộ bao gồm cả
hai khu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long – địa bàn định cư cuối cùng của
những thế hệ lưu dân Việt – là một vùng thiên nhiên vừa hào phóng vừa khắc
nghiệt, nơi hàm chứa nhiều tiềm năng phong phú, nơi khí hậu thuận hoà, sông rạch
chằng chịt, có nhiều cửa sông lớn thông ra đại dương tạo nên những điều kiện đặc
thù cho sự quần cư và sáng tạo đời sống cộng đồng, cho sự phát triển kinh tế nông

nghiệp, khai thác thuỷ hải sản, xây dựng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và
mở rộng giao lưu với bên ngoài. Tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội đó có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành tính cách, tâm lí, phong cách ứng xử của người
Việt ở nơi đây.” [52; 3]
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1. Địa hình, đất đai
Nếu ĐNB địa hình thoải, có độ cao trung bình thì ĐBSCL do thuộc hạ lưu
sông Mê Công nên địa hình thấp và bằng phẳng.
Đồng bằng Nam Bộ có diện tích lớn nhất trong số các đồng bằng của cả
nước, rộng 36000 km
2
. Miền ĐNB là đồng bằng bồi tụ – xâm thực rộng lớn, có độ
cao khoảng 100 m, là phù sa cổ, đất xám được nâng lên. Ngược lại, ĐBSCL là vùng
đồng bằng thấp, ngập nước, đang tiếp tục hình thành, có độ cao trung bình khoảng 2
m được cấu tạo bởi phù sa mới có nguồn gốc sông – biển và chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của thuỷ triều. Ở đây, hằng năm nước lũ tràn ra hai bên các bờ sông làm ngập cả
một vùng rộng lớn hàng triệu ha, nhiều nơi ngập tới 2 m vào mùa lũ. Vùng không bị
ngập có diện tích rộng lớn, đất đai phì nhiêu, là vựa lúa, vựa cây trái nổi tiếng Nam
Bộ.
Đất ruộng có thể chia thành hai loại: ruộng núi và ruộng cỏ. Ruộng núi còn
gọi là sơn điền, là nơi đất cao, khô, nhiều cây cối, tập trung ở các vùng Bà Rịa, Biên
Hoà (Đồng Nai), ở các miền đất cao khu vực sông Vàm Cỏ, Mỹ Tho… Ở đây có
-16-
nhiều bãi, giồng đất màu mỡ, ít lũ lụt, nước ngọt quanh năm. Ruộng cỏ còn gọi là
thảo điền, là nơi đất thấp, nhiều cỏ lác, sình lầy, mùa khô nứt nẻ lọt bàn chân, tập
trung nhiều ở tả ngạn sông Tiền, Bến Tre, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch
Giá, Cà Mau, Bạc Liêu…
1.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn
Khí hậu Nam Bộ là khí hậu cận xích đạo, nhiệt đới nóng ẩm quanh năm. Độ
ẩm trung bình hằng năm từ 80 – 90 %. Thời tiết hai mùa mưa, nắng. Mùa mưa kéo

dài từ tháng tư đến tháng mười. Lượng mưa dồi dào, 90% lượng mưa tập trung vào
mùa mưa. ĐBSCL có mùa nước nổi (mỗi năm từ ba đến bốn tháng). Hằng năm cứ
khoảng tháng 10 âm lịch có hiện tượng thuỷ triều lên cao nhất. Một tháng hai lần
nước rong hay nước lớn (thường vào ngày 15 và 30 âm lịch) và hai lần nước kém
hay nước ròng (thường vào ngày 9, 10 và 24, 25 âm lịch). Trong mỗi ngày đều có
nước lớn, nước ròng…
Nam Bộ là vùng đất rất đa dạng sinh học. Khí hậu - thuỷ văn ở đây tạo điều
kiện cho động thực vật sinh sôi nảy nở, thích hợp cho việc phát triển nguồn sinh vật
trên cạn và dưới nước, thuận lợi cho canh tác nông nghiệp, cho phát triển thuỷ hải
sản.
1.1.1.3. Sông rạch
Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch (cả kênh tự nhiên và kênh đào) ở Nam Bộ
dày đặc, chằng chịt. Hệ thống sông Cửu Long với hai nhánh lớn sông Tiền và
sông Hậu. Hệ thống sông này tạo ra chín cửa sông trước khi hoà vào biển Đông.
Chín cửa đó là (tính theo thứ tự từ Bắc vào Nam): Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông,
Cổ Chiên, Cung Hầu (đúng ra là Cồn Ngao) thuộc sông Tiền và Định An, Ba
Thắc, Trần Đề (sự thực là Trấn Di) thuộc sông Hậu. [theo 66; 367]. Hệ thống sông
Đồng Nai với mạng lưới sông nhánh khá dày như sông La Ngà, sông Bé, sông Sài
Gòn…
Các hệ thống sông ngòi, kênh rạch này hình thành nên những vùng châu thổ
rộng lớn. Những dòng sông, kênh rạch ấy không những mang phù sa bồi đắp cho
đôi bờ mà còn mang nước ngọt tưới mát cho những vườn cây ăn trái sum sê, những
-17-
cánh đồng thẳng cánh cò bay. Sông ngòi, kênh rạch Nam Bộ tạo nên một nền “văn
minh sông nước” phát triển, một mạng lưới giao thông thuận lợi và một tiềm năng
thuỷ sản dồi dào (sông Cửu Long hằng năm có thể cung cấp hơn chục nghìn tấn cá).
Vùng sông nước ấy đi vào tiếng nói, lời ca của con người nơi đây. Chúng ta
có thể bắt gặp rất nhiều những câu như: ”Nhà Bè nước chảy chia hai”, “Vàm nao
sóng vỗ lao xao”, “sông Cửa Đại hai chiều nước chảy”, “sông Tiền cá lội xoè vi”,
“Sông dài cá lội biệt tăm”, “Sông sâu nước chảy ngập kiều”, “Bìm bịp kêu nước

lớn anh ơi, buôn bán không lời chèo chống mải mê”… Theo Nguyễn Chí Bền thì
hình ảnh sông nước xuất hiện 85 lần trong 550 bài ca dao về tình yêu lứa đôi ở Nam
Bộ [dẫn theo 52; 66].
1.1.1.4. Đảo, bờ biển và rừng
Nam Bộ còn có những vùng duyên hải và biển với khá nhiều đảo trải dài như
đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Nghệ… Đảo không chỉ có
tác dụng chắn sóng, tạo ra các bãi bồi làm tăng diện tích đất nổi cho cả vùng, mà
đảo còn cho con người nhiều lâm sản quý khác.
Từ Vũng Tàu đến Hà Tiên bờ biển thấp, bằng phẳng, nhiều bãi triều bùn phủ
kín rừng ngập mặn, có tốc độ tiến ra biển lớn nhất cả nước.
Ven biển có rừng ngập mặn rộng lớn. Từ Cà Mau đến Kiên Giang có rừng
nguyên sinh U Minh Thượng, U Minh Hạ. Rừng ở đây có nhiều loài động thực vật
quý hiếm. Hình ảnh quen thuộc là những sân chim, kèo ong, sếu đầu đỏ; những
mênh mông rừng tràm, rừng đước với một trữ lượng than bùn khổng lồ… Có thể
nói, rừng ngập mặn Nam Bộ rộng lớn nhất, đa dạng và phong phú nhất trên bán đảo
Đông Dương.
1.1.1.5. Do khí hậu, độ ẩm, lượng mưa… có nhiều thuận lợi cho nên Nam Bộ
trở thành một vùng đất trù phú, màu mỡ, phì nhiêu; có thảm thực vật, động vật hết
sức đa dạng phong phú: nhiều loài cây công nghiệp quý như cao su, tiêu, điều…;
nhiều loài cây ăn trái đặc sản nổi tiếng như: xoài cát Hoà Lộc, vú sữa Vĩnh Kim,
sầu riêng Ngũ Hiệp, bưởi Năm Roi, nhãn Vĩnh Long, Bạc Liêu, chôm chôm Chợ
-18-
Lách, quýt Lai Vung, cam Phong Điền, Tam Bình…; động vật có giá trị như chim,
ong mật, cá, tôm và nhiều hải sản quý khác.
Dấu ấn về một vùng đất “gạo trắng nước trong” in đậm trong những câu tục
ngữ, ca dao: “Cần Thơ gạo trắng nước trong”, “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”,
“Cơm Nai, Rịa; cá Rí, Rang” hay:
“Ai ơi về miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn” (ca dao)
v.v.

Trong Gia Định thành thông chí (GĐTTC) có đoạn: “Huyện Kiến Hoà đất
màu ruộng tốt, trông bát ngát không cùng, dân đều lấy canh nông làm việc căn bản,
nhà nào cũng có kho chứa lúa lộ thiên, thóc gạo đầy ắp” [24; 51].
Nam Bộ có nhiều cảnh đẹp như: Vũng Tàu, Hà Tiên, Long Hải “Trấn Biên
Hoà- núi đẹp, nước trong, tục hậu việc ít, sĩ phu chuộng thi thư, nhân dân chăm cày
dệt, đều có nghiệp thường cả. Văn vật, áo quần, nhà cửa cùng với người Kinh
giống nhau” [24;150]. Sông nước là cảnh quan nổi bật, chiếm ưu thế ở đây, tiện lợi
cho việc phát triển du lịch sinh thái. Nhiều di tích lịch sử: Bến cảng Nhà Rồng, địa
đạo Củ Chi, nhà tù Côn Đảo, Hội trường Thống Nhất… còn ghi dấu mãi một thời
hào hùng của dân tộc. Thiên nhiên hào phóng nhưng cũng vô cùng hiểm nguy và
khắc nghiệt. Đó là cảnh “hùm tha, sấu bắt”, ”Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tựa
bánh canh”, vùng nước mặn, đất phèn khó trồng cấy, gió mưa lũ lụt quanh năm v.v.
Có thể lấy nhận xét của nhà báo Phan Quang về ĐBSCL để nói về Nam Bộ
nói chung: “…hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen
lẫn, Đồng bằng sông Cửa Long hiện lên trước mắt ta ngồn ngộn sức sống” [68;
370].
1.1.2. Đặc điểm xã hội
1.1.2.1. Nguồn gốc dân cư
Những khám phá khảo cổ học trên đất Nam Bộ cho chúng ta biết rằng: từ
thuở xa xưa, ít nhất là cách ngày nay từ 2500 đến 4000 năm, con người đã có mặt
-19-
trên vùng đất mới này. Họ có mặt đầu tiên ở vùng phù sa cổ (ĐNB), sau đó mới tiếp
tục hành trình xuống phía tây nam – vùng phù sa mới (châu thổ sông Cửu Long).
Chủ nhân đầu tiên có mặt ở vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam, người
Chân Lạp: “Chủ nhân ban đầu của vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam mà sách
Tấn thư của Trung Hoa mô tả là”đen và xấu xí, tóc quăn, ở trần, đi đất, tính tình
mộc mạc, thẳng thắn, không trộm cắp” với hoạt động nông nghiệp và giao thông
đường thuỷ rất phát triển. Rồi đến thế kỉ VI thì Phù Nam nông nghiệp đã bị người
Chân Lạp dương tính hơn thôn tính.” [89; 603].
Từ thế kỉ XVII trở đi, Nam Bộ xuất hiện người Khơme, người Việt. Người

Việt là những lưu dân từ miền Bắc và miền Trung vào. Đây là những người dân bần
cùng hoặc muốn tránh cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn đẫm máu kéo dài (thế kỉ
XVII). Họ ra đi để kiếm sống và cũng mong được an thân. Lớp nông dân nghèo
khác cũng tiến vào Nam theo chính sách đinh điền của nhà Nguyễn. “Trong sự
nghiệp 300 năm mở mang, khai phá vùng lãnh thổ phía Nam của đất nước, lớp lớp
thế hệ người Việt từ vùng đất sinh tụ lâu đời của mình là châu thổ sông Hồng, sông
Mã và dải đất ven biển miền Trung đã nối tiếp nhau đến lập nghiệp ngày càng đông
tại địa bàn Nam Bộ ngày nay.” [52; 3]
Những người dân nghèo này chinh phục vùng đất phía Nam bằng bàn tay
khối óc của mình, bằng sự cần cù, lam lũ: “Họ là những toán tiên phong vũ trang
bằng óc phiêu lưu mạo hiểm, bằng cán búa, lưỡi cày, tấm lưới” [59; 60]. Hoặc
“Nam Kì được chinh phục không phải bằng thanh gươm vó ngựa mỗi ngày đi hàng
chục dặm mà bằng lưỡi cày đôi trâu đi từng bước một” [59; 60].
Thời kì này, còn có lính tráng, các tội đồ bị triều đình bắt buộc vào Nam lập
đồn điền, bảo vệ biên cương một vùng đất nước.
Thế kỉ XVII, XVIII, người Hoa từ các tỉnh Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng
Đông, Quảng Tây, Hải Nam (Trung Quốc) dắt díu nhau nhập cư vào ĐBSCL lập
nghiệp. Một số khác vốn là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều Mãn
Thanh đến đây tị nạn, làm ăn. Giữa thế kỉ XVIII, người Chăm (ở Chân Lạp – cuối
thế kỉ XVII) chuyển về vùng núi Bà Đen. Cả người Pháp, Anh, Mã Lai, Ấn Độ…
-20-
cũng có mặt ở Nam Bộ: “Gia Định là đất miền Nam của nước Việt, khi bắt đầu khai
thác, dân lưu tán của nước ta và người Đường (tục xưng người Đại Thanh là người
Đường, cũng như rợ Ri xưng người Trung Quốc là người Hán, chứ không phải Hán
của lưu Hán, Đường của Lí Đường. Người Quảng Đông tự nhận là Đường của đời
Đường Ngu không phải quá khoe). Người Tây Dương (các nước Phú Lãng Sa,
Hồng Mao, Mã Cao (Áo Môn), các nước phương Tây gọi là Tây Dương), người
Cao Miên, người Chà Và (phàm 36 cảng ở Mãn Lạt Đa (Malucca) gọi là hải đảo.
Người Sơn Nam theo đạo Bái Nhật (thờ mặt trời, tóm gọi là Chà Là). Các nước
Kiều ngụ phần nhiều ở xen lẫn nhau, mà áo mặc đồ dùng đều nước nào theo lối

nước ấy” [24; 143].
Thế kỉ XIX, lưu dân Việt có mặt ngày càng đông ở phía nam sông Hậu như
Long Xuyên, Rạch Giá… Họ đã chinh phục và biến cải cơ bản vùng đất mới và thu
được những kết quả to lớn. Họ đã biến một vùng hoang dại thành vùng đất trù phú,
cây trái sum sê.
Sau này vào phương Nam còn có lớp dân di cư từ các tỉnh phía Bắc năm
1954 và những người đi xây dựng vùng kinh tế mới sau 1975.

1.1.2.2. Đời sống và tổ chức xã hội
Người mới đến tiến hành khai hoang, đào kênh, lập làng mới. Đặc trưng
chung của làng Nam Bộ mang tính mở, không khép kín như kiểu làng Bắc Bộ,
Trung Bộ. Thôn ấp của nông dân Việt ở Nam Bộ được triển khai tự do, thoáng đãng
dọc theo các kênh rạch, sông ngòi chằng chịt, lợi dụng những điều tự nhiên thuận
lợi, tránh những điều bất lợi. Vì sống trong một môi trường mênh mang sông nước
nên người dân sinh hoạt “trên bến dưới thuyền” tấp nập, đi lại chủ yếu bằng thuyền
bằng ghe, thậm chí thuyền, ghe được dùng như là ngôi nhà của người dân ở đây. “Ở
Gia Định chỗ nào cũng có thuyền ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để
đi chợ, thăm bà con, chở củi gạo, đi buôn bán lại càng tiện lợi. Thuyền ghe đầy
sông, đi lại đêm ngày, mũi thuyền đuôi thuyền liền nhau” [24; 148].
-21-
Nam Bộ là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em: người Việt (Kinh), người
Hoa, người Chăm, người Ấn, người Khơme… Lớp dân cư mới đông nhất vẫn là
người Việt. Nơi tập trung đông nhất của họ là những vùng đất dễ làm, có nước ngọt,
thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Đó là những vùng gần sông Vàm Cỏ, sông Tiền,
là đất Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé… Người Khơme là dân tộc đông thứ hai ở Nam
Bộ. Họ thường định cư, canh tác trên nhữõng nơi đất cao, màu mỡ như giồng, cù
lao… thuộc các tỉnh ven biển, nhiều nhất ở hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Các dân
tộc lập làng, dựng nhà cạnh nhau, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc
sống, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ thuở vua Hùng. Dân tộc nào
theo phong tục dân tộc đó. Tuy có ảnh hưởng nhau nhưng không nhiều.

Buổi đầu cuộc sống có phần thoải mái, “làm chơi ăn thật”. Con người tin cậy
vào sự hào phóng của thiên nhiên:
- “Hết gạo thì có Đồng Nai,
Hết củi thì có Tân Sài chở vô” (ca dao)
- “Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua” (ca dao)
Đời sống dân chúng dễ chịu, không phải lo cái ăn cái mặc: “Thành Gia Định
Việt Nam ta, đất rộng lương thực nhiều, không lo về đói rét, cho nên ít chứa sẵn,
tục dân sa hoa, kẻ sĩ đua nhau tài giỏi. Người bốn phương ở lẫn nhau, mỗi nhà tự
có tục riêng” [24; 141], “Người Gia Định ngày ăn ba bữa đều ăn cơm cả, cháo gạo
cũng ít ăn, huống chi là thứ khác, do thóc gạo thừa thãi, hằng năm không mất mùa
đói kém nên như thế” [24; 155].
Tuy nhiên, cuộc sống của họ buổi đầu không phải không có những khó khăn.
Khó khăn một phần do công cụ lao động còn thô sơ, chỉ có cái cày, cái cuốc, cây
rựa, cái leng… Phần nữa, do thiên nhiên gây không ít khó khăn và ẩn chứa nhiều
hiểm nguy. Việc khai phá vùng đất hoang, ban đầu thường là khoảnh đất nằm lọt
giữa một vùng rậm rạp, lầy trũng, con người luôn phải đương đầu với những mối
nguy hiểm như hùm beo, cá sấu, rắn rết… Mặt khác, mùa nước nổi thì “cá nhiều
-22-
gạo thiếu”. Công tác thuỷ lợi luôn đặt ra để khắc phục tình trạng ngập úng. Mùa khô
(nắng) người nông dân sống bằng nghề “đổi nước”, chăn vịt ngoài đồng. Những nơi
đất phèn mặn năng xuất lúa thấp, làm mỗi năm chỉ được một vụ. Sự xâm nhập của
nước mặn và sự khan hiếm nước ngọt thường xuyên xảy ra ảnh hưởng nhiều đến
sản xuất và sinh hoạt của con người.
Đời sống người nông dân khoảng đầu thế kỉ này thật cực khổ mà nguyên
nhân còn là sự bóc lột của bọn phong kiến, thực dân: “Hàng ngày sáng ra lót lòng
sơ với muối mè (vừng), trưa và chiều hai bữa đạm bạc cá mắm canh rau, quần bố
áo vải, no bụng ấm thân thì thôi… Con nít bảy tám tuổi chỉ mặc một cái áo phủ đến
trôn, chưa cho mặc quần, chín tuổi mới mặc quần cụt, mười tuổi đủ trí nhớ, con
nhà giàu cho đến ở nhà thầy mà học tập, con nhà nghèo thì chịu dốt, cho nên thuở

xưa ít có người biết chữ” [68; 481].
Sau này, chính con người đã làm cho thiên nhiên nổi giận. Nạn cháy rừng,
săn bắt động vật quý hiếm, khai thác tài nguyên theo kiểu huỷ diệt, làm ô nhiễm
môi trường… khiến cho tài nguyên ngày càng cạn kiệt, đời sống dân chúng ngày
càng khó khăn.
Nam Bộ có lực lượng lao động dồi dào, người dân kiên cường bất khuất, cần
cù, năng động sáng tạo, linh hoạt trong sản xuất hàng hóa, thích ứng với lũ hằng
năm, luôn tìm cách để làm cuộc sống của mình ngày một tốt hơn.
ĐNB là vùng phát triển kinh tế – xã hội rất năng động. Đó là kết quả khai
thác tổng hợp lợi thế của vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
trên đất liền, trên biển. Đây là vùng có cơ cấu kinh tế phát triển nhất so với các
vùng khác trong nước. Công nghiệp (khai thác dầu khí, hoá dầu, cơ khí, điện tử,
công nghệ cao, chế biến nông sản, hải sản xuất khẩu, hàng tiêu dùng…) và dịch vụ
(thương mại, du lịch, xuất nhập khẩu, vận tải, bưu chính viễn thông…) chiếm tỉ
trọng cao nhất trong GDP, tập trung ở thành phố ở Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu.
Sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng nhỏ nhưng giữ vai trò quan trọng. ĐNB lấy
nghề trồng lúa khô (lúa rẫy) làm hoạt động sản xuất chính trong nông nghiệp.
-23-
ĐBSCL là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhất cả
nước. Vùng dân cư hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu (miệt vườn) chủ yếu làm
nghề trồng lúa, làm vườn. Vùng dân cư ven biển (miệt biển): trồng lúa nước, đánh
bắt hải sản, “bán vàm”, làm nghề “ăn ong” Làng xóm ở đây thưa thớt, cuộc sống
lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười mỗi
năm chịu ngập lụt 3 - 4 tháng, đồng ruộng mênh mông cỏ lác. Cuộc sống người dân
vất vả, lệ thuộc vào môi trường tự nhiên. Đánh bắt cá, làm thuê, làm mướn là nghề
chính ở đây.
Điều kiện tự nhiên đã tạo cho người dân Nam Bộ sống bằng nhiều nghề khác
nhau. Nghề thủ công được tổ chức thành phường thợ, có hàng trăm phường thợ
như: chiếu, tiện, đinh, dầu, vạn đò, chỉ, gốm, vôi, sồi, buồm, bột… Nếu trước đây
“9 người làm ruộng mới có một người buôn bán” [24; 151] thì sau này nghề buôn

bán ở đây lại rất phát triển. “Trong khi người nông dân Bắc Bộ coi buôn bán là
nghề xấu thì người Việt ở Nam Bộ không những đã chấp nhận mà còn coi buôn là
một “đạo”, còn là một đạo “vui” (…) Biểu tượng của của Sài Gòn là chợ Bến
Thành; Sài Gòn –Tp Hồ Chí Minh nói riêng và Nam Bộ nói chung là nơi có nhiều
chợ nhất trong cả nước” [89; 199].
1.1.3. Đặc trưng văn hóa Nam Bộ
1.1.3.1. Văn hoá và các thành tố văn hoá
- Khái niệm văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
của mình” [89; 25].
- Theo Trần Ngọc Thêm, văn hoá gồm bốn thành tố sau đây: văn hoá nhận
thức, văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên (tận dụng
và đối phó với môi trường) và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội [theo 89; 28,
29].
“Văn hoá vùng là một phạm vi, một khu vực địa lí – văn hoá có đặc điểm và
bản sắc riêng” [76; 5]. Nam Bộ là một vùng văn hoá.
-24-
Chúng ta sẽ tìm nét đặc trưng của văn hoá Nam Bộ theo góc nhìn từ các
thành tố văn hoá trên.
1.1.3.2. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ
Trên con đường Nam tiến, người Việt đã mang theo mình một nền văn hóa
Việt. Trước điều kiện sống khắc nghiệt, con người đã có cách ứng xử thích ứng với
môi trường mới, hoàn cảnh sống mới, nhanh chóng nắm bắt được quy luật tự nhiên,
thích nghi với nó và bắt nó phải phục vụ con người.
Nền văn hoá Việt được người Việt ở Nam Bộ vận dụng, mang tính động hơn,
và đã hình thành nên một vùng văn hóa đặc sắc Nam Bộ, làm phong phú và tô đậm
thêm nền văn hóa Việt Nam nói chung.
Có thể phác thảo vài nét đặc trưng về văn hoá Nam Bộ như sau: “Vùng văn
hoá Nam Bộ có hai tiểu vùng: Đông Nam Bộ (lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài

Gòn) và Tây Nam Bộ (lưu vực sông Cửu Long), với khí hậu hai mùa (khô – mưa),
với mênh mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa, tới khai phá
đã nhanh chóng hoà nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer,
Ma, Xtiêng, Chơro, Mnông). Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa
ăn giàu thuỷ sản; tính cách con người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng, tôn giáo hết
sức phong phú và đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong trong quá trình giao lưu
hội nhập với văn hoá phưong Tây…” [89; 63]
Trong cách ứng xử với tự nhiên, người Việt ở Nam Bộ vẫn giữ được nếp
sống hoà hợp và tôn trọng. Tuy nhiên, dưới một khung trời khác, mưa nắng khác,
sông núi cỏ cây khác, những lưu dân Việt đã chọn cho mình một cách sống phù hợp
với điều kiện của mình, phù hợp với môi trường hoàn toàn mới. Sinh hoạt và sản
xuất ở Nam Bộ luôn gắn bó với những đổi thay, biến động của con nước, của dòng
sông và của thủy triều. Những biểu hiện của văn minh sông nước thể hiện rõ trong
phương thức lao động, trong nhịp sống sinh hoạt, trong tín ngưỡng, trong phong tục
và ngôn ngữ…
Trong lối ứng xử xã hội, người Việt phương nam vẫn giữ được sự mềm dẻo,
hiền hoà của con người gốc nông nghiệp. Họ thích ứng với môi trường linh hoạt
-25-

×