Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 104 trang )

MỤC LỤC

Dẫn nhập
0.1. Lí do chọn đề tài
0.2. Phạm vi nghiên cứu
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.3.1. Mục đích nghiên cứu
0.1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
0.4. Lịch sử vấn đề
0.4.1. Nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ
0.4.2. Nghiên cứu định danh trong tiếng Việt và trong PNNB
0.5. Phương pháp nghiên cứu
0.6. Bố cục luận văn
Chương một: Một số vấn đề về Nam Bộ và định danh
1.1. Một số vấn đề chung về Nam Bộ
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1. Địa hình, đất đai
1.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn
1.1.1.3. Sông rạch
1.1.1.4. Đảo, bờ biển và rừng
1.1.1.5. Hệ quả
1.1.2. Đặc điểm xã hội
1.1.2.1. Nguồn gốc dân cư
1.1.2.2. Đời sống và tổ chức xã hội
1.1.3. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ
1.1.3.1. Văn hoá và các thành tố văn hoá
1.1.3.2. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ
1.1.3.3. Sự biến đổi và giao thoa văn hoá ở Nam Bộ
1.1.4. Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
1.1.4.1. Kh.niệm PN; từ đ.phương, phân vùng, xác định vùng PNNB
1.1.4.2. Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ


-1-
1.1.4.3. Sự tiếp xúc ngôn ngữ ở Nam Bộ
1.2. Định danh từ vựng
1.2.1. Khái niệm định danh
1.2.2. Định danh từ vựng
1.2.3. Đặc trưng văn hoá trong định danh
1.3. Tiểu kết
Chương hai: Hệ thống từ ngữ gọi tên riêng
2.1. Địa danh
2.1.1. Nguồn gốc
2.1.2. Cấu tạo
2.1.3. Phương thức biểu thị
2.1.4. Ngữ nghĩa
2.2. Nhân danh
2.2.1. Nguồn gốc
2.2.2. Cấu tạo
2.2.3. Phương thức biểu thị
2.2.4. Ngữ nghĩa
2.3. Tiểu kết
Chương ba: Hệ thống từ ngữ gọi tên chung
3.1. Định danh động vật
3.1.1. Nguồn gốc
3.1.2. Cấu tạo
3.1.3. Phương thức biểu thị
3.1.4. Ngữ nghĩa
3.2. Định danh thực vật
3.2.1. Nguồn gốc
3.2.2. Cấu tạo
3.2.3. Phương thức biểu thị
3.2.4. Ngữ nghĩa

3.3. Định danh công cụ, phương tiện sản xuất và sinh hoạt
3.3.1. Nguồn gốc
3.3.2. Cấu tạo
-2-
3.3.3. Phương thức biểu thị
3.3.4. Ngữ nghĩa
3.4. Định danh đơn vị đo lường dân gian
3.4.1. Nguồn gốc
3.4.2. Cấu tạo
3.4.3. Phương thức biểu thị
3.4.4. Ngữ nghĩa
3.5. Định danh về sông nước và hoạt động trên sông nước 3.5.1. Nguồn gốc 0
3.5.1. Nguồn gốc
3.5.2. Cấu tạo
3.5.3. Phương thức biểu thị
3.5.4. Ngữ nghĩa
3.6. Định danh những sản phẩm được chế biến từ nông sản, thuỷ sản
3.6.1. Nguồn gốc
3.6.2. Cấu tạo
3.6.3. Phương thức biểu thị
3.6.4. Ngữ nghĩa
3.7. Tiểu kết
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DẪN NHẬP
-3-
0.1. Lí do chọn đề tài
0.1.1. Nam Bộ là một vùng đất mới của người Việt ở phương nam. Do có thuận
lợi về điều kiện tự nhiên nên Nam Bộ có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế.

Tính cách, tâm hồn, nếp sinh hoạt của con người ở đây cũng có những nét rất riêng so
với cội nguồn. Đó là những con người bộc trực, thẳng thắn, yêu ghét hết mình và vẫn
giữ được đức cần cù, chịu khó, lòng yêu nước, thương nòi vốn có của dân tộc. Một miền
đất giàu có, trù phú với mênh mang sông nước và những con người nhân hậu là sức lôi
cuốn những ai yêu quý và quan tâm đến cuộc sống con người nơi đây.
0.1.2. Phương ngữ Nam Bộ (PNNB), từ địa phương Nam Bộ không những phản
ánh cách phân cắt hiện thực của người Nam Bộ mà nó còn mang những nét văn hoá rất
đặc trưng của vùng đất mới. Đây là nguồn đề tài hấp dẫn cho các nhà văn hoá học, ngôn
ngữ học… Nghiên cứu định danh trong ngôn ngữ chính là nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn hoá, ngôn ngữ và tư duy. Mối quan hệ này thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau trong
ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Trong đó, cấp độ từ vựng là rõ ràng nhất.
Định danh có tầm quan trọng đặc biệt đối với cuộc sống con người. Nếu đối
tượng xung quanh con người không có tên gọi thì con người sẽ mất phương hướng, ảnh
hưởng đến giao tiếp và tư duy. “Mất cái tên gọi con người sẽ mất một trong những khả
năng định hướng trong thế giới quanh mình” [9; 167]. Định danh từ vựng trong PNNB
là một vấn đề khá thú vị và chưa được các nhà Việt ngữ học quan tâm. Qua việc nghiên
cứu về đặc điểm định danh từ vựng, đề tài thử góp phần lí giải một phần đặc điểm của
PNNB. Đồng thời, qua đó hiểu thêm về môi trường tự nhiên, xã hội, thấy được nét độc
đáo về văn hoá của miền đất tận cùng Tổ quốc này.
0.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về định danh từ vựng, luận văn tập trung nghiên cứu về hệ thống từ
ngữ gọi tên riêng (như: địa danh, nhân danh), hệ thống từ ngữ gọi tên chung (như:
những sản phẩm được chế biến từ nông sản, thuỷ sản; các loại động thực vật; những
công cụ, phương tiện lao động và sinh hoạt của con người; những đơn vị đo lường dân
gian và nhóm từ liên quan đến sông nước) sau khi tìm hiểu về những vấn đề chung về
Nam Bộ và về định danh. Như vậy, đối tượng khảo sát của chúng tôi bao gồm từ và ngữ
định danh. Luận văn cũng chỉ nghiên cứu phương thức định danh trực tiếp, không có
điều kiện nghiên cứu phương thức gián tiếp.
-4-
Sở dĩ chúng tôi giới hạn như vậy vì một mặt, bản thân không đủ năng lực, khuôn

khổ luận văn không cho phép; mặt khác, chỉ khảo sát hệ thống từ ngữ nói trên bởi vì
những từ ngữ này được sử dụng nhiều trong đời sống cộng đồng người dân Nam Bộ,
gắn bó với môi trường tự nhiên, thể hiện được đặc trưng văn hoá Nam Bộ.
0.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.3.1. Mục đích nghiên cứu: Từ kết quả nghiên cứu tiếng nói của người Nam Bộ
thông qua các tài liệu có được của các tác giả đi trước, qua thực tiễn lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người dân địa phương, luận văn nhằm tìm hiểu về định danh từ vựng của
PNNB, đưa ra những nhận xét bước đầu về những đặc điểm có tính quy luật trong việc
định danh hiện thực của tiếng nói Nam Bộ. Đó cũng chính là đặc điểm ngôn ngữ – văn
hoá của vùng đất này.
0.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra
những nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu về đặc điểm về tự nhiên và xã hội của Nam Bộ.
+ Tìm hiểu đặc trưng văn hoá của Nam Bộ.
+ Nêu lên những đặc điểm của PNNB.
+ Nghiên cứu về sự tri nhận hiện thực qua việc định danh từ ngữ trong PNNB.
0.4. Lịch sử vấn đề
0.4.1. Nghiên cứu về phương ngữ Nam Bộ
Nghiên cứu PNNB có các tác giả tiêu biểu:
- Hoàng Thị Châu (1989) nghiên cứu PNNB trong phương ngữ Nam (như cách
chia vùng của tác giả) và với công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước của mình. Bà
chú ý đặc biệt đến vấn đề ngữ âm: “Tác giả... dựa vào những phương pháp của ngôn
ngữ học và phương ngữ học để miêu tả, phân tích, giới thiệu với bạn đọc những biến thể
địa phương của tiếng Việt, lí giải các nguyên nhân xã hội và các quy luật biến đổi ngữ
âm đã tạo ra sự đa dạng đó” [8; 5,6]. Tác giả cho rằng đây là sự khác biệt đáng tin cậy
và thể hiện lịch sử phát triển của tiếng Việt. Tuy nhiên, vì ranh giới phân vùng của tác
giả về phương ngữ Nam quá rộng, do đó có một số vấn đề về ngữ âm, từ vựng và ngữ
pháp, tác giả đã có những nhận xét không chỉ dành riêng cho PNNB.
- Nguyễn Văn Ái (1994): Do cách phân vùng của tác giả khác với Hoàng Thị
Châu - hẹp hơn về phạm vi địa lí, do đó ông miêu tả đặc trưng ngôn ngữ vùng này cụ

thể hơn. Cách xác định vùng PNNB của tác giả trùng khớp với ranh giới địa lí hiện nay.
-5-
Đây cũng là quan điểm phân vùng của tác giả luận văn. Các công trình nghiên cứu của
Nguyễn Văn Ái về PNNB khá nhiều. Tuy nhiên, cuốn được giới nghiên cứu nhắc đến
nhiều hơn là Từ điển phương ngữ Nam Bộ.
- Trần Thị Ngọc Lang (1995): Công trình khoa học (PTS) của bà nghiên cứu
tương đối toàn diện về PNNB. Từ công trình này, tác giả đã cho xuất bản cuốn Phương
ngữ Nam Bộ – những khác biệt về từ vựng – ngữ nghĩa so với phương ngữ Bắc Bộ.
Ngoài ra, bà còn có nhiều bài viết khác về PNNB, trong đó đáng chú ý là bài viết Điểm
khác biệt về ngữ pháp của phương ngữ Nam Bộ (so sánh với Bắc Bộ) (Tạp chí Ngôn
ngữ số 2/ 2002).
- Hồ Lê (1992) cùng với nhóm tác giả của mình (Huỳnh Lứa, Thạch Phương,
Nguyễn Quang Vinh) nghiên cứu PNNB dưới góc nhìn văn hoá trong Văn hoá dân gian
người Việt ở Nam Bộ.
- Cao Xuân Hạo (2001) lại đặc biệt quan tâm tới hệ thống âm vị của các phương
ngữ. Ông đối chiếu hệ thống âm vị của PNNB với phương ngữ Hà Nội, Nam Trung Bộ,
cả phát âm cổ để tìm ra nét khu biệt của hệ thống âm vị trong phương ngữ này. Đây là ý
kiến của ông trong bài viết “Hai vấn đề âm vị học của phương ngữ Nam Bộ” in trong
Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm ngữ pháp ngữ nghĩa.
- Bùi Khánh Thế (2001) và nhóm cộng tác trong Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện
đại đã dành một số trang nghiên cứu đặc điểm ngữ âm của PNNB qua đặc điểm ngữ âm
tiếng Sài Gòn mà tác giả cho đó là tiếng Nam Bộ chuẩn.
- Huỳnh Công Tín (1999) nghiên cứu về ngữ âm PNNB với luận án tiến sĩ Hệ
thống ngữ âm tiếng Sài Gòn (So sánh với phương ngữ Hà Nội và một số phương ngữ
khác ở Việt Nam). Ngoài ra, anh cũng có một số bài viết về ngôn từ của PNNB, cách
diễn đạt của người dân vùng ĐBSCL.
0.4.2. Nghiên cứu định danh trong tiếng Việt và trong phương ngữ Nam Bộ
- Nguyễn Đức Tồn (2002): Trong công tình Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân tộc
của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) của
mình, ông đã đưa ra một số vấn đề về lí thuyết định danh ngôn ngữ; tìm hiểu đặc điểm

dân tộc của định danh động vật, thực vật, bộ phận cơ thể người… so sánh với ngôn ngữ
khác, đặc biệt là tiếng Nga. Đây là một công trình nghiên cứu theo hướng lí thuyết thuộc
về lĩnh vực tâm lí – ngôn ngữ học tộc người – một lĩnh vực khá mới mẻ đối với ngành
ngôn ngữ học Việt Nam.
-6-
Trước đó, ông cũng đã có một bài viết Đặc trưng dân tộc của tư duy ngôn ngữ
qua hiện tượng từ đồng nghĩa (Tạp chí Ngôn ngữ số 3/ 1993) ít nhiều liên quan đến lĩnh
vực này.
- Đỗ Hữu Châu (1998, 1999) trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Từ vựng ngữ
nghĩa tiếng Việt đã dành nhiều trang nói về chức năng định danh của tín hiệu ngôn ngữ.
Ông khẳng định vai trò quan trọng của định danh trong giao tiếp và tư duy của con
người, miêu tả một cách cụ thể và thuyết phục quá trình định danh trong tiếng Việt. Tuy
nhiên, ông chỉ thừa nhận định danh ở cấp độ từ, không thừa nhận định danh ở cấp độ
cụm từ (trừ cụm từ ở dạng định danh hóa) và câu. Ông cho cụm từ tự do chỉ có chức
năng biểu vật.
- Lí Toàn Thắng (2002, 2005): Một phần quan trọng trong cuốn Mấy vấn đề Việt
ngữ học và ngôn ngữ học đại cương và đặc biệt là cuốn Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lí
thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt của ông là công trình về đại cương ngôn ngữ
học tâm lí và ngôn ngữ học tri nhận. Phần này liên quan đến lí thuyết về định danh, về
sự phân cắt hiện thực của con người.
- Lê Trung Hoa (2002, 2003) đặc biệt chú ý đến mảng địa danh, nhân danh. Các
cuốn sách đáng chú ý về hai mảng này là: Họ và tên người Việt Nam, Tìm hiểu nguồn
gốc địa danh Nam Bộ và tiếng Việt văn học, Từ điển địa danh Thành phố Sài Gòn – Hồ
Chí Minh.
- Trịnh Sâm (2002): Cuốn sách Đi tìm bản sắc tiếng Việt của ông là tập hợp
những bài viết về tiếng Việt. Trong đó, PNNB và định danh là hai vấn đề có liên quan
đến đề tài khảo sát ở đây. Ngoài ra, bản sắc văn hoá Việt được ông tìm hiểu qua ngôn
ngữ địa phương Nam Bộ. Ông gợi ra một số vấn đề thú vị liên quan đến định danh trong
bài viết “Về cơ chế ngữ nghĩa – tâm lí trong tổ hợp song tiết chính phụ tiếng Việt”.
- Nguyễn Thuý Khanh (1994): Với các bài viết về định danh động vật ở tiếng

Việt và tiếng Việt so sánh với tiếng Nga, tác giả đã cho người đọc nắm được khá cụ thể
và sâu sắc về một lĩnh vực của định danh trong tiếng Việt. Đó là các bài viết: Đặc điểm
định danh tên gọi động vật trong tiếng Việt, Một vài nhận xét về thành ngữ so sánh có
tên động vật tiếng Việt, Đặc điểm định danh của trường tên gọi động vật tiếng Nga
trong sự đối chiếu với tiếng Việt...
Trong luận văn của mình, chúng tôi muốn khẳng định lại những thành tựu của
các công trình đi trước. Tuy nhiên, trước những vấn đề còn tranh cãi, chúng tôi cũng
-7-
chọn cho mình một quan niệm mà theo chúng tôi là có tính thuyết phục và được nhiều
người đồng tình hơn. Chẳng hạn như phân vùng PNNB theo sự phân vùng địa lí như
hiện nay, quan điểm võ đoán và phi võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ. Đồng thời, chúng tôi
đi sâu vào định danh từ vựng trong PNNB – vấn đề mà các tác giả đi trước chưa quan
tâm nhiều.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
0.5.1. Đề tài tham khảo các tài liệu liên quan đến nhiều lĩnh vực như: tự nhiên,
lịch sử, văn hoá, xã hội, kinh tế của đồng bằng Nam Bộ; liên quan đến các lĩnh vực
ngôn ngữ học như từ vựng học, ngôn ngữ học tri nhận, ngữ pháp học, phong cách học,
ngữ dụng học; đến các tài liệu nghiên cứu về tiếng Việt nói chung, PNNB nói riêng của
các nhà ngôn ngữ học uy tín.
0.5.2. Phương pháp chủ yếu sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp nghiên
cứu liên ngành, phương pháp thống kê – phân loại, phương pháp so sánh - đối chiếu,
phương pháp miêu tả:
- Vấn đề định danh từ vựng có liên quan đến nhiều ngành khoa học khác nhau
như: văn hoá học, tâm lí học, xã hội học, dân tộc học v.v. Do đó, khi thực hiện đề tài,
chúng tôi vừa phải có sự vận dụng tổng hợp kiến thức các chuyên ngành, vừa sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành để có thể tìm hiểu đặc điểm định danh từ vựng
trong PNNB một cách toàn diện và sâu sắc.
- Tiến hành tập hợp ngữ liệu thu thập được qua các tài liệu khoa học, qua điền
dã để làm căn cứ triển khai đề tài hoặc minh hoạ cho các luận điểm. Thống kê, phân
loại ngữ liệu, tư liệu.

- So sánh các ngữ liệu, số liệu từ vựng đã thống kê được giữa các vùng phương
ngữ khác, đối chiếu với các thời kì khác nhau trong PNNB.
- Miêu tả những ngữ liệu minh hoạ cho những nhận xét bước đầu về định danh
các trường từ vựng trong PNNB.
Các phương pháp trên chúng tôi không thực hiện riêng lẻ, biệt lập mà phối hợp
với nhau trong suốt quá trình nghiên cứu.
0.6. Bố cục luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
ba chương. Thứ tự tên các chương như sau: Một số vấn đề về Nam Bộ và định danh, Hệ
thống từ ngữ gọi tên riêng, Hệ thống từ ngữ gọi tên chung.
-8-
Ở chương một, luận văn trình bày các vấn đề về đặc điểm tự nhiên như địa hình,
đất đai, khí hậu, thuỷ văn, hệ thống sông rạch, đảo, bờ biển và rừng. Đây là điều kiện để
tạo nên những ưu thế cũng như hạn chế về môi trường ở vùng đất mới. Nó tác động, chi
phối đến đời sống sinh hoạt, đến tâm hồn, tính cách của con người nơi đây. Ở chương
này, luận văn cũng trình bày một số vấn đề về nguồn gốc dân cư, cách tổ chức xã hội rất
riêng của Nam Bộ; phác hoạ đôi nét về đặc trưng và sự giao thoa văn hoá ở Nam Bộ.
Những điều này, không thể không liên quan tới đặc điểm ngôn ngữ của người Việt ở
phương nam.
Luận văn cũng đồng quan điểm với các tác giả đi trước về khái niệm phương
ngữ, từ địa phương. Chúng tôi cố gắng trình bày một cách ngắn gọn về việc phân vùng
phương ngữ trong tiếng Việt, đưa ra quan niệm mà chúng tôi cho là hợp lí trong việc
xác định ranh giới vùng PNNB để tiện cho việc nghiên cứu.
Luận văn trình bày cơ sở lí luận về định danh, dẫn ra những khái niệm về định
danh, định danh từ vựng. Đây là những quan niệm của những nhà ngôn ngữ học có uy
tín và được nhiều người thừa nhận. Bên cạnh đó, chương này còn quan tâm đến các nội
dung như quy trình định danh, một số đặc điểm trong định danh từ vựng, đặc trưng văn
hoá trong định danh. Ở đây, chúng tôi cũng chọn cho mình một quan niệm về cơ sở định
danh (võ đoán và phi võ đoán) trước những quan niệm trái chiều nhau.
Phương ngữ và định danh là hai vấn đề có tính chất cơ sở có thể coi là điểm xuất

phát làm định hướng cho việc triển khai đề tài ở chương hai và ba.
Nhìn chung, nội dung chương một không mới. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng
trình bày ngắn gọn, hệ thống, chọn lọc những ý cơ bản và chỉ nhấn mạnh đến những vấn
đề phục vụ cho mục đích của đề tài. Mặt khác, chương này cũng có một vài ý kiến nhỏ
được nhìn nhận theo quan điểm riêng của tác giả luận văn.
Đóng góp chủ yếu của luận văn tập trung ở chương thứ hai và thứ ba. Ở hai
chương này, chúng tôi tập trung trình bày những vấn đề như: đặc điểm nguồn gốc, đặc
điểm cấu tạo, đặc điểm về phương thức biểu thị, đặc điểm ngữ nghĩa trong định danh từ
vựng. Luận văn lần lượt trình bày các đối tượng định danh mà chúng tôi cho là mang
dấu ấn rất nhiều của ngôn ngữ vùng đất Nam Bộ.
-9-
Chương một
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NAM BỘ VÀ ĐỊNH DANH
1.1. Một số vấn đề chung về Nam Bộ
Nam Bộ gồm 19 tỉnh thành, chia thành hai khu vực: miền Đông Nam Bộ (ĐNB)
và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL, còn gọi là Tây Nam Bộ). ĐNB gồm các tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí
Minh; ĐBSCL gồm các tỉnh Long An, Tiền Giang, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Bến Tre, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh và thành phố
Cần Thơ.
Vị trí địa lí Nam Bộ: phía bắc và tây - bắc giáp Cam-pu-chia, tây - nam giáp vịnh
Thái Lan; đông và nam giáp biển Đông; đông - bắc giáp Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.
Nam Bộ có diện tích: 63.258 km
2
(ĐNB: 23.545 km
2
, ĐBSCL: 39.713 km
2
), dân
cư: 27,3 triệu người (ĐNB:10,8 triệu người; ĐBSCL: 16.5 triệu người) – (số liệu năm

2001).
Có thể đánh giá chung về Nam Bộ như sau: “Vùng đất Nam Bộ bao gồm cả hai
khu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long – địa bàn định cư cuối cùng của những thế
hệ lưu dân Việt – là một vùng thiên nhiên vừa hào phóng vừa khắc nghiệt, nơi hàm
chứa nhiều tiềm năng phong phú, nơi khí hậu thuận hoà, sông rạch chằng chịt, có nhiều
cửa sông lớn thông ra đại dương tạo nên những điều kiện đặc thù cho sự quần cư và
sáng tạo đời sống cộng đồng, cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, khai thác thuỷ hải
sản, xây dựng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và mở rộng giao lưu với bên ngoài.
Tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội đó có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tính
cách, tâm lí, phong cách ứng xử của người Việt ở nơi đây.” [52; 3]
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1. Địa hình, đất đai
Nếu ĐNB địa hình thoải, có độ cao trung bình thì ĐBSCL do thuộc hạ lưu sông
Mê Công nên địa hình thấp và bằng phẳng.
Đồng bằng Nam Bộ có diện tích lớn nhất trong số các đồng bằng của cả nước,
rộng 36000 km
2
. Miền ĐNB là đồng bằng bồi tụ – xâm thực rộng lớn, có độ cao khoảng
-10-
100 m, là phù sa cổ, đất xám được nâng lên. Ngược lại, ĐBSCL là vùng đồng bằng
thấp, ngập nước, đang tiếp tục hình thành, có độ cao trung bình khoảng 2 m được cấu
tạo bởi phù sa mới có nguồn gốc sông – biển và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thuỷ
triều. Ở đây, hằng năm nước lũ tràn ra hai bên các bờ sông làm ngập cả một vùng rộng
lớn hàng triệu ha, nhiều nơi ngập tới 2 m vào mùa lũ. Vùng không bị ngập có diện tích
rộng lớn, đất đai phì nhiêu, là vựa lúa, vựa cây trái nổi tiếng Nam Bộ.
Đất ruộng có thể chia thành hai loại: ruộng núi và ruộng cỏ. Ruộng núi còn gọi là
sơn điền, là nơi đất cao, khô, nhiều cây cối, tập trung ở các vùng Bà Rịa, Biên Hoà
(Đồng Nai), ở các miền đất cao khu vực sông Vàm Cỏ, Mỹ Tho… Ở đây có nhiều bãi,
giồng đất màu mỡ, ít lũ lụt, nước ngọt quanh năm. Ruộng cỏ còn gọi là thảo điền, là nơi
đất thấp, nhiều cỏ lác, sình lầy, mùa khô nứt nẻ lọt bàn chân, tập trung nhiều ở tả ngạn

sông Tiền, Bến Tre, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu…
1.1.1.2. Khí hậu, thuỷ văn
Khí hậu Nam Bộ là khí hậu cận xích đạo, nhiệt đới nóng ẩm quanh năm. Độ ẩm
trung bình hằng năm từ 80 – 90 %. Thời tiết hai mùa mưa, nắng. Mùa mưa kéo dài từ
tháng tư đến tháng mười. Lượng mưa dồi dào, 90% lượng mưa tập trung vào mùa mưa.
ĐBSCL có mùa nước nổi (mỗi năm từ ba đến bốn tháng). Hằng năm cứ khoảng tháng
10 âm lịch có hiện tượng thuỷ triều lên cao nhất. Một tháng hai lần nước rong hay nước
lớn (thường vào ngày 15 và 30 âm lịch) và hai lần nước kém hay nước ròng (thường vào
ngày 9, 10 và 24, 25 âm lịch). Trong mỗi ngày đều có nước lớn, nước ròng…
Nam Bộ là vùng đất rất đa dạng sinh học. Khí hậu - thuỷ văn ở đây tạo điều kiện
cho động thực vật sinh sôi nảy nở, thích hợp cho việc phát triển nguồn sinh vật trên cạn
và dưới nước, thuận lợi cho canh tác nông nghiệp, cho phát triển thuỷ hải sản.
-11-
1.1.1.3. Sông rạch
Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch (cả kênh tự nhiên và kênh đào) ở Nam Bộ dày
đặc, chằng chịt. Hệ thống sông Cửu Long với hai nhánh lớn sông Tiền và sông Hậu.
Hệ thống sông này tạo ra chín cửa sông trước khi hoà vào biển Đông. Chín cửa đó là
(tính theo thứ tự từ Bắc vào Nam): Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung
Hầu (đúng ra là Cồn Ngao) thuộc sông Tiền và Định An, Ba Thắc, Trần Đề (sự thực là
Trấn Di) thuộc sông Hậu. [theo 66; 367]. Hệ thống sông Đồng Nai với mạng lưới sông
nhánh khá dày như sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn…
Các hệ thống sông ngòi, kênh rạch này hình thành nên những vùng châu thổ rộng
lớn. Những dòng sông, kênh rạch ấy không những mang phù sa bồi đắp cho đôi bờ mà
còn mang nước ngọt tưới mát cho những vườn cây ăn trái sum sê, những cánh đồng
thẳng cánh cò bay. Sông ngòi, kênh rạch Nam Bộ tạo nên một nền “văn minh sông
nước” phát triển, một mạng lưới giao thông thuận lợi và một tiềm năng thuỷ sản dồi dào
(sông Cửu Long hằng năm có thể cung cấp hơn chục nghìn tấn cá).
Vùng sông nước ấy đi vào tiếng nói, lời ca của con người nơi đây. Chúng ta có
thể bắt gặp rất nhiều những câu như: ”Nhà Bè nước chảy chia hai”, “Vàm nao sóng vỗ
lao xao”, “sông Cửa Đại hai chiều nước chảy”, “sông Tiền cá lội xoè vi”, “Sông dài

cá lội biệt tăm”, “Sông sâu nước chảy ngập kiều”, “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi, buôn
bán không lời chèo chống mải mê”… Theo Nguyễn Chí Bền thì hình ảnh sông nước
xuất hiện 85 lần trong 550 bài ca dao về tình yêu lứa đôi ở Nam Bộ [dẫn theo 52; 66].
1.1.1.4. Đảo, bờ biển và rừng
Nam Bộ còn có những vùng duyên hải và biển với khá nhiều đảo trải dài như đảo
Phú Quốc, đảo Thổ Chu, đảo Hòn Khoai, đảo Hòn Nghệ… Đảo không chỉ có tác dụng
chắn sóng, tạo ra các bãi bồi làm tăng diện tích đất nổi cho cả vùng, mà đảo còn cho con
người nhiều lâm sản quý khác.
Từ Vũng Tàu đến Hà Tiên bờ biển thấp, bằng phẳng, nhiều bãi triều bùn phủ kín
rừng ngập mặn, có tốc độ tiến ra biển lớn nhất cả nước.
Ven biển có rừng ngập mặn rộng lớn. Từ Cà Mau đến Kiên Giang có rừng
nguyên sinh U Minh Thượng, U Minh Hạ. Rừng ở đây có nhiều loài động thực vật quý
hiếm. Hình ảnh quen thuộc là những sân chim, kèo ong, sếu đầu đỏ; những mênh mông
rừng tràm, rừng đước với một trữ lượng than bùn khổng lồ… Có thể nói, rừng ngập
mặn Nam Bộ rộng lớn nhất, đa dạng và phong phú nhất trên bán đảo Đông Dương.
-12-
1.1.1.5. Do khí hậu, độ ẩm, lượng mưa… có nhiều thuận lợi cho nên Nam Bộ trở
thành một vùng đất trù phú, màu mỡ, phì nhiêu; có thảm thực vật, động vật hết sức đa
dạng phong phú: nhiều loài cây công nghiệp quý như cao su, tiêu, điều…; nhiều loài cây
ăn trái đặc sản nổi tiếng như: xoài cát Hoà Lộc, vú sữa Vĩnh Kim, sầu riêng Ngũ Hiệp,
bưởi Năm Roi, nhãn Vĩnh Long, Bạc Liêu, chôm chôm Chợ Lách, quýt Lai Vung, cam
Phong Điền, Tam Bình…; động vật có giá trị như chim, ong mật, cá, tôm và nhiều hải
sản quý khác.
Dấu ấn về một vùng đất “gạo trắng nước trong” in đậm trong những câu tục ngữ,
ca dao: “Cần Thơ gạo trắng nước trong”, “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”, “Cơm
Nai, Rịa; cá Rí, Rang” hay:
“Ai ơi về miệt Tháp Mười,
Cá tôm sẵn bắt, lúa trời sẵn ăn” (ca dao)
v.v.
Trong Gia Định thành thông chí (GĐTTC) có đoạn: “Huyện Kiến Hoà đất màu

ruộng tốt, trông bát ngát không cùng, dân đều lấy canh nông làm việc căn bản, nhà nào
cũng có kho chứa lúa lộ thiên, thóc gạo đầy ắp” [24; 51].
Nam Bộ có nhiều cảnh đẹp như: Vũng Tàu, Hà Tiên, Long Hải... “Trấn Biên
Hoà- núi đẹp, nước trong, tục hậu việc ít, sĩ phu chuộng thi thư, nhân dân chăm cày dệt,
đều có nghiệp thường cả. Văn vật, áo quần, nhà cửa cùng với người Kinh giống nhau”
[24;150]. Sông nước là cảnh quan nổi bật, chiếm ưu thế ở đây, tiện lợi cho việc phát
triển du lịch sinh thái. Nhiều di tích lịch sử: Bến cảng Nhà Rồng, địa đạo Củ Chi, nhà tù
Côn Đảo, Hội trường Thống Nhất… còn ghi dấu mãi một thời hào hùng của dân tộc.
Thiên nhiên hào phóng nhưng cũng vô cùng hiểm nguy và khắc nghiệt. Đó là cảnh
“hùm tha, sấu bắt”, ”Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tựa bánh canh”, vùng nước mặn, đất
phèn khó trồng cấy, gió mưa lũ lụt quanh năm v.v.
Có thể lấy nhận xét của nhà báo Phan Quang về ĐBSCL để nói về Nam Bộ nói
chung: “…hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn,
Đồng bằng sông Cửa Long hiện lên trước mắt ta ngồn ngộn sức sống” [68; 370].
1.1.2. Đặc điểm xã hội
1.1.2.1. Nguồn gốc dân cư
Những khám phá khảo cổ học trên đất Nam Bộ cho chúng ta biết rằng: từ thuở xa
xưa, ít nhất là cách ngày nay từ 2500 đến 4000 năm, con người đã có mặt trên vùng đất
-13-
mới này. Họ có mặt đầu tiên ở vùng phù sa cổ (ĐNB), sau đó mới tiếp tục hành trình
xuống phía tây nam – vùng phù sa mới (châu thổ sông Cửu Long).
Chủ nhân đầu tiên có mặt ở vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam, người Chân
Lạp: “Chủ nhân ban đầu của vùng đất Nam Bộ là người Phù Nam mà sách Tấn thư của
Trung Hoa mô tả là”đen và xấu xí, tóc quăn, ở trần, đi đất, tính tình mộc mạc, thẳng
thắn, không trộm cắp” với hoạt động nông nghiệp và giao thông đường thuỷ rất phát
triển. Rồi đến thế kỉ VI thì Phù Nam nông nghiệp đã bị người Chân Lạp dương tính hơn
thôn tính.” [89; 603].
Từ thế kỉ XVII trở đi, Nam Bộ xuất hiện người Khơme, người Việt. Người Việt
là những lưu dân từ miền Bắc và miền Trung vào. Đây là những người dân bần cùng
hoặc muốn tránh cuộc phân tranh Trịnh – Nguyễn đẫm máu kéo dài (thế kỉ XVII). Họ ra

đi để kiếm sống và cũng mong được an thân. Lớp nông dân nghèo khác cũng tiến vào
Nam theo chính sách đinh điền của nhà Nguyễn. “Trong sự nghiệp 300 năm mở mang,
khai phá vùng lãnh thổ phía Nam của đất nước, lớp lớp thế hệ người Việt từ vùng đất
sinh tụ lâu đời của mình là châu thổ sông Hồng, sông Mã và dải đất ven biển miền
Trung đã nối tiếp nhau đến lập nghiệp ngày càng đông tại địa bàn Nam Bộ ngày nay.”
[52; 3]
Những người dân nghèo này chinh phục vùng đất phía Nam bằng bàn tay khối óc
của mình, bằng sự cần cù, lam lũ: “Họ là những toán tiên phong vũ trang bằng óc phiêu
lưu mạo hiểm, bằng cán búa, lưỡi cày, tấm lưới” [59; 60]. Hoặc “Nam Kì được chinh
phục không phải bằng thanh gươm vó ngựa mỗi ngày đi hàng chục dặm mà bằng lưỡi
cày đôi trâu đi từng bước một” [59; 60].
Thời kì này, còn có lính tráng, các tội đồ bị triều đình bắt buộc vào Nam lập đồn
điền, bảo vệ biên cương một vùng đất nước.
Thế kỉ XVII, XVIII, người Hoa từ các tỉnh Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông,
Quảng Tây, Hải Nam (Trung Quốc) dắt díu nhau nhập cư vào ĐBSCL lập nghiệp. Một
số khác vốn là quan quân nhà Minh không chịu khuất phục triều Mãn Thanh đến đây tị
nạn, làm ăn. Giữa thế kỉ XVIII, người Chăm (ở Chân Lạp – cuối thế kỉ XVII) chuyển về
vùng núi Bà Đen. Cả người Pháp, Anh, Mã Lai, Ấn Độ… cũng có mặt ở Nam Bộ: “Gia
Định là đất miền Nam của nước Việt, khi bắt đầu khai thác, dân lưu tán của nước ta và
người Đường (tục xưng người Đại Thanh là người Đường, cũng như rợ Ri xưng người
Trung Quốc là người Hán, chứ không phải Hán của lưu Hán, Đường của Lí Đường.
-14-
Người Quảng Đông tự nhận là Đường của đời Đường Ngu không phải quá khoe).
Người Tây Dương (các nước Phú Lãng Sa, Hồng Mao, Mã Cao (Áo Môn), các nước
phương Tây gọi là Tây Dương), người Cao Miên, người Chà Và (phàm 36 cảng ở Mãn
Lạt Đa (Malucca) gọi là hải đảo. Người Sơn Nam theo đạo Bái Nhật (thờ mặt trời, tóm
gọi là Chà Là). Các nước Kiều ngụ phần nhiều ở xen lẫn nhau, mà áo mặc đồ dùng đều
nước nào theo lối nước ấy” [24; 143].
Thế kỉ XIX, lưu dân Việt có mặt ngày càng đông ở phía nam sông Hậu như Long
Xuyên, Rạch Giá… Họ đã chinh phục và biến cải cơ bản vùng đất mới và thu được

những kết quả to lớn. Họ đã biến một vùng hoang dại thành vùng đất trù phú, cây trái
sum sê.
Sau này vào phương Nam còn có lớp dân di cư từ các tỉnh phía Bắc năm 1954 và
những người đi xây dựng vùng kinh tế mới sau 1975.

1.1.2.2. Đời sống và tổ chức xã hội
Người mới đến tiến hành khai hoang, đào kênh, lập làng mới. Đặc trưng chung
của làng Nam Bộ mang tính mở, không khép kín như kiểu làng Bắc Bộ, Trung Bộ. Thôn
ấp của nông dân Việt ở Nam Bộ được triển khai tự do, thoáng đãng dọc theo các kênh
rạch, sông ngòi chằng chịt, lợi dụng những điều tự nhiên thuận lợi, tránh những điều bất
lợi. Vì sống trong một môi trường mênh mang sông nước nên người dân sinh hoạt “trên
bến dưới thuyền” tấp nập, đi lại chủ yếu bằng thuyền bằng ghe, thậm chí thuyền, ghe
được dùng như là ngôi nhà của người dân ở đây. “Ở Gia Định chỗ nào cũng có thuyền
ghe hoặc lấy thuyền làm nhà, hoặc lấy thuyền để đi chợ, thăm bà con, chở củi gạo, đi
buôn bán lại càng tiện lợi. Thuyền ghe đầy sông, đi lại đêm ngày, mũi thuyền đuôi
thuyền liền nhau” [24; 148].
Nam Bộ là nơi quần cư của nhiều dân tộc anh em: người Việt (Kinh), người Hoa,
người Chăm, người Ấn, người Khơme… Lớp dân cư mới đông nhất vẫn là người Việt.
Nơi tập trung đông nhất của họ là những vùng đất dễ làm, có nước ngọt, thuận lợi cho
việc trồng lúa nước. Đó là những vùng gần sông Vàm Cỏ, sông Tiền, là đất Bà Rịa,
Đồng Nai, Bến Nghé… Người Khơme là dân tộc đông thứ hai ở Nam Bộ. Họ thường
định cư, canh tác trên những nơi đất cao, màu mỡ như giồng, cù lao… thuộc các tỉnh
ven biển, nhiều nhất ở hai tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng. Các dân tộc lập làng, dựng nhà
cạnh nhau, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, phát huy truyền thống
-15-
tốt đẹp của dân tộc Việt từ thuở vua Hùng. Dân tộc nào theo phong tục dân tộc đó. Tuy
có ảnh hưởng nhau nhưng không nhiều.
Buổi đầu cuộc sống có phần thoải mái, “làm chơi ăn thật”. Con người tin cậy vào
sự hào phóng của thiên nhiên:
- “Hết gạo thì có Đồng Nai,

Hết củi thì có Tân Sài chở vô” (ca dao)
- “Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua” (ca dao)
Đời sống dân chúng dễ chịu, không phải lo cái ăn cái mặc: “Thành Gia Định Việt
Nam ta, đất rộng lương thực nhiều, không lo về đói rét, cho nên ít chứa sẵn, tục dân sa
hoa, kẻ sĩ đua nhau tài giỏi. Người bốn phương ở lẫn nhau, mỗi nhà tự có tục riêng”
[24; 141], “Người Gia Định ngày ăn ba bữa đều ăn cơm cả, cháo gạo cũng ít ăn, huống
chi là thứ khác, do thóc gạo thừa thãi, hằng năm không mất mùa đói kém nên như thế”
[24; 155].
Tuy nhiên, cuộc sống của họ buổi đầu không phải không có những khó khăn.
Khó khăn một phần do công cụ lao động còn thô sơ, chỉ có cái cày, cái cuốc, cây rựa,
cái leng… Phần nữa, do thiên nhiên gây không ít khó khăn và ẩn chứa nhiều hiểm nguy.
Việc khai phá vùng đất hoang, ban đầu thường là khoảnh đất nằm lọt giữa một vùng
rậm rạp, lầy trũng, con người luôn phải đương đầu với những mối nguy hiểm như hùm
beo, cá sấu, rắn rết… Mặt khác, mùa nước nổi thì “cá nhiều gạo thiếu”. Công tác thuỷ
lợi luôn đặt ra để khắc phục tình trạng ngập úng. Mùa khô (nắng) người nông dân sống
bằng nghề “đổi nước”, chăn vịt ngoài đồng. Những nơi đất phèn mặn năng xuất lúa
thấp, làm mỗi năm chỉ được một vụ. Sự xâm nhập của nước mặn và sự khan hiếm nước
ngọt thường xuyên xảy ra ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và sinh hoạt của con người.
Đời sống người nông dân khoảng đầu thế kỉ này thật cực khổ mà nguyên nhân
còn là sự bóc lột của bọn phong kiến, thực dân: “Hàng ngày sáng ra lót lòng sơ với
muối mè (vừng), trưa và chiều hai bữa đạm bạc cá mắm canh rau, quần bố áo vải, no
bụng ấm thân thì thôi… Con nít bảy tám tuổi chỉ mặc một cái áo phủ đến trôn, chưa cho
mặc quần, chín tuổi mới mặc quần cụt, mười tuổi đủ trí nhớ, con nhà giàu cho đến ở
nhà thầy mà học tập, con nhà nghèo thì chịu dốt, cho nên thuở xưa ít có người biết chữ”
[68; 481].
-16-
Sau này, chính con người đã làm cho thiên nhiên nổi giận. Nạn cháy rừng, săn
bắt động vật quý hiếm, khai thác tài nguyên theo kiểu huỷ diệt, làm ô nhiễm môi
trường… khiến cho tài nguyên ngày càng cạn kiệt, đời sống dân chúng ngày càng khó

khăn.
Nam Bộ có lực lượng lao động dồi dào, người dân kiên cường bất khuất, cần cù,
năng động sáng tạo, linh hoạt trong sản xuất hàng hóa, thích ứng với lũ hằng năm, luôn
tìm cách để làm cuộc sống của mình ngày một tốt hơn.
ĐNB là vùng phát triển kinh tế – xã hội rất năng động. Đó là kết quả khai thác
tổng hợp lợi thế của vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên trên đất
liền, trên biển. Đây là vùng có cơ cấu kinh tế phát triển nhất so với các vùng khác trong
nước. Công nghiệp (khai thác dầu khí, hoá dầu, cơ khí, điện tử, công nghệ cao, chế biến
nông sản, hải sản xuất khẩu, hàng tiêu dùng…) và dịch vụ (thương mại, du lịch, xuất
nhập khẩu, vận tải, bưu chính viễn thông…) chiếm tỉ trọng cao nhất trong GDP, tập
trung ở thành phố ở Chí Minh, Biên Hoà, Vũng Tàu. Sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ
trọng nhỏ nhưng giữ vai trò quan trọng. ĐNB lấy nghề trồng lúa khô (lúa rẫy) làm hoạt
động sản xuất chính trong nông nghiệp.
ĐBSCL là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm lớn nhất cả nước.
Vùng dân cư hai bên bờ sông Tiền và sông Hậu (miệt vườn) chủ yếu làm nghề trồng lúa,
làm vườn. Vùng dân cư ven biển (miệt biển): trồng lúa nước, đánh bắt hải sản, “bán
vàm”, làm nghề “ăn ong”... Làng xóm ở đây thưa thớt, cuộc sống lệ thuộc nhiều vào
thiên nhiên. Vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười mỗi năm chịu ngập lụt 3 - 4
tháng, đồng ruộng mênh mông cỏ lác. Cuộc sống người dân vất vả, lệ thuộc vào môi
trường tự nhiên. Đánh bắt cá, làm thuê, làm mướn là nghề chính ở đây.
Điều kiện tự nhiên đã tạo cho người dân Nam Bộ sống bằng nhiều nghề khác
nhau. Nghề thủ công được tổ chức thành phường thợ, có hàng trăm phường thợ như:
chiếu, tiện, đinh, dầu, vạn đò, chỉ, gốm, vôi, sồi, buồm, bột… Nếu trước đây “9 người
làm ruộng mới có một người buôn bán” [24; 151] thì sau này nghề buôn bán ở đây lại
rất phát triển. “Trong khi người nông dân Bắc Bộ coi buôn bán là nghề xấu thì người
Việt ở Nam Bộ không những đã chấp nhận mà còn coi buôn là một “đạo”, còn là một
đạo “vui” (…) Biểu tượng của của Sài Gòn là chợ Bến Thành; Sài Gòn –Tp Hồ Chí
Minh nói riêng và Nam Bộ nói chung là nơi có nhiều chợ nhất trong cả nước” [89; 199].
1.1.3. Đặc trưng văn hóa Nam Bộ
-17-

1.1.3.1. Văn hoá và các thành tố văn hoá
- Khái niệm văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội của mình” [89;
25].
- Theo Trần Ngọc Thêm, văn hoá gồm bốn thành tố sau đây: văn hoá nhận thức,
văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên (tận dụng và đối
phó với môi trường) và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội [theo 89; 28, 29].
“Văn hoá vùng là một phạm vi, một khu vực địa lí – văn hoá có đặc điểm và bản
sắc riêng” [76; 5]. Nam Bộ là một vùng văn hoá.
Chúng ta sẽ tìm nét đặc trưng của văn hoá Nam Bộ theo góc nhìn từ các thành tố
văn hoá trên.
1.1.3.2. Đặc trưng văn hoá Nam Bộ
Trên con đường Nam tiến, người Việt đã mang theo mình một nền văn hóa Việt.
Trước điều kiện sống khắc nghiệt, con người đã có cách ứng xử thích ứng với môi
trường mới, hoàn cảnh sống mới, nhanh chóng nắm bắt được quy luật tự nhiên, thích
nghi với nó và bắt nó phải phục vụ con người.
Nền văn hoá Việt được người Việt ở Nam Bộ vận dụng, mang tính động hơn, và
đã hình thành nên một vùng văn hóa đặc sắc Nam Bộ, làm phong phú và tô đậm thêm
nền văn hóa Việt Nam nói chung.
Có thể phác thảo vài nét đặc trưng về văn hoá Nam Bộ như sau: “Vùng văn hoá
Nam Bộ có hai tiểu vùng: Đông Nam Bộ (lưu vực sông Đồng Nai và sông Sài Gòn) và
Tây Nam Bộ (lưu vực sông Cửu Long), với khí hậu hai mùa (khô – mưa), với mênh
mông sông nước và kênh rạch. Các cư dân Việt, Chăm, Hoa, tới khai phá đã nhanh
chóng hoà nhập với thiên nhiên và cuộc sống của cư dân bản địa (Khmer, Ma, Xtiêng,
Chơro, Mnông). Nhà ở có khuynh hướng trải dài ven kênh, ven lộ; bữa ăn giàu thuỷ
sản; tính cách con người ưa phóng khoáng; tín ngưỡng, tôn giáo hết sức phong phú và
đa dạng; sớm tiếp cận và đi đầu trong trong quá trình giao lưu hội nhập với văn hoá
phưong Tây…” [89; 63]
Trong cách ứng xử với tự nhiên, người Việt ở Nam Bộ vẫn giữ được nếp sống

hoà hợp và tôn trọng. Tuy nhiên, dưới một khung trời khác, mưa nắng khác, sông núi cỏ
cây khác, những lưu dân Việt đã chọn cho mình một cách sống phù hợp với điều kiện
-18-
của mình, phù hợp với môi trường hoàn toàn mới. Sinh hoạt và sản xuất ở Nam Bộ luôn
gắn bó với những đổi thay, biến động của con nước, của dòng sông và của thủy triều.
Những biểu hiện của văn minh sông nước thể hiện rõ trong phương thức lao động, trong
nhịp sống sinh hoạt, trong tín ngưỡng, trong phong tục và ngôn ngữ…
Trong lối ứng xử xã hội, người Việt phương nam vẫn giữ được sự mềm dẻo, hiền
hoà của con người gốc nông nghiệp. Họ thích ứng với môi trường linh hoạt hơn, ít câu
nệ và đa dạng trong sinh hoạt hằng ngày, thiết lập những quan hệ được quy định bởi
điều kiện sống. Chợ thường được đặt nơi bến sông. Xóm làng thường được lập trên đất
khai hoang, nằm trên các gò đồi hay những giồng đất cao. Làng Nam Bộ “ở tản ra dọc
theo những con kênh, con lộ để tiện làm ăn”, một thiết chế xã hội cũng đã thoáng hơn.
“Làng xã Nam Bộ không có những thiết chế quá chặt chẽ (nhiều làng không có hương
ước, thần tích, thần phả) thần thành hoàng chỉ là một khái niệm “thần hoàng bổn
cảnh” chung chung” [89; 198]. Thôn ấp thuở ban đầu có một đặc điểm là “dễ hợp dễ
tan”. Những người tứ phương đến lập làng lập ấp, thấy làm ăn khó thì lại ra đi kiếm chỗ
“đất lành” khác. “Thành phần dân cư của Nam Bộ thường hay biến động, người dân
không bị gắn chặt với quê hương như ở làng Bắc Bộ” [89; 198].
Nhà ở miền ĐNB, cột kèo thường được làm bằng gỗ tốt. Ngược lại, ĐBSCL kèo
cột là những loại cây nhỏ như tràm, đước, chà là; lợp bằng lá dừa nước. Thậm chí ở đây
có cả loại “nhà đạp, nhà đá” – một loại nhà tồi tàn, tạm bợ. Hướng nhà cũng không cần
phải “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam” như ngoài Bắc, ngoài Trung mà thường quay
mặt ra sông, chỉ cốt thuận tiện. Tính cách con người Nam Bộ là sự biểu hiện của bản
chất con người Việt Nam trong những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội nhất định. Đó là
đức cần cù, là sự đoàn kết giúp đỡ, thương yêu nhau. “Dù làm ăn dễ dãi, người nông
dân Nam Bộ vẫn giữ nếp cần cù. Dù kinh tế hàng hoá phát triển, người Việt Nam Bộ
vẫn coi trọng tính cộng đồng” [89; 199]. Đặt chân đến vùng đất mới, những lưu dân đã
nhanh chóng kết thành chòm xóm. Họ dựa vào nhau làm ăn, sinh sống, chống lại thú dữ,
trộm cướp, chống lại cường hào ác bá, giúp nhau trong những lúc khó khăn, bệnh

hoạn… Họ vẫn còn mang trong mình lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất. Biết
bao gương anh hùng như Trương Định, Nguyễn Trung Trực… đã không hổ danh với
những danh nhân vùng đất khác của đất nước.
Chủ nhân ở Nam Bộ từng là những lưu dân nghèo khổ, từng bị áp bức bóc lột và
chính trong gian khó, hiểm nguy của quá trình mở mang miền đất mới đã tạo nên tính
-19-
cách can trường, gan góc, không lùi bước trước bất kì trở ngại nào của tự nhiên cũng
như những bất công, vô lí của xã hội. Bởi vì “Đến đây là sơn cùng thuỷ tận rồi. Đến
đây là đến trên bờ Thái Bình Dương, vịnh Xiêm La mịt mù rồi. Đến đây chỉ còn có hai
con đường, một là không đủ nghị lực sống nữa thì thì đâm đầu xuống biển mà chết, hai
là cố bám lại đấu tranh để sống” (Nguyễn Văn Bổng) [theo 68; 613]. Ông cha ta đã
chọn con đường thứ hai: đấu tranh để sống.
Trong giao tiếp, người Nam Bộ bộc trực, chất phác, thẳng thắn, ít nói văn hoa,
rào đón. Tác giả Trần Văn Giàu viết: “Người dân đồng bằng sông Cửu Long – Đồng
Nai vẫn chân thật trung tín, cởi mở bộc trực, tình cảm (lắm khi có tính chất nguyên
thuỷ), xử sự với người ngay một cách không suy tính thiệt hơn. Họ cũng đòi hỏi kẻ khác
cũng như vậy đối với họ” [59; 161, 162].
Người Nam Bộ ít chịu sự ràng buộc của của đạo đức Khổng Mạnh, ít thuần phục
quyền uy phong kiến. Một quá khứ với bao khuôn phép gò bó, cứng nhắc, những quan
niệm cổ hủ đã được “họ cởi bỏ lại đằng sau để sáng tạo ra một phong cách sống tự do,
phóng khoáng hơn và làm cho nền đạo lí giàu tính nhân ái của dân tộc ánh lên những
sắc màu độc đáo. Họ không khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng cứu khốn, phò
nguy, sống cái đạo làm người “Kiến ngãi bất vô vi dũng dã” [52; 68].
Người Nam Bộ rất hiếu khách. Sự hiếu khách vốn là bản chất con người Việt
Nam, khi điều kiện sống có phần dễ chịu hơn thì nó mới được thể hiện một cách rõ nét
nhất. “Ở Gia Định, khách đến thì mời ăn trầu trước, thết nước chè rồi đến ăn cơm ăn
bánh, cốt phải phong hậu. Không kể người thân hay sơ, lạ hay quen, tung tích thế nào,
đã đến tất phải tiếp nhận thết đãi. Cho nên người đi chơi phần nhiều không mang lương
thực, mà người lậu sổ, người trốn tránh khá nhiều vì có chỗ nuôi khách” [24; 146].
Người Việt Nam Bộ ít nhiều có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm. Họ dám chấp nhận hiểm

nguy, coi nhẹ tính mạng, trọng nghĩa khinh tài, giàu nghĩa khí. Tác giả GĐTTC lí
giải:“Đất thuộc về Dương Châu, gần mặt trời, khí trời phát dương, ở nơi chính khí, bao
ngậm văn minh, cho nên người chuộng tiết nghĩa” [24; 141].
Họ cũng sống rất thực tế, linh hoạt, thông minh và sáng tạo. Đánh giá khái quát
về người Việt phương nam, Trần Bạch Đằng viết: “Thực tế lịch sử hoạt động mấy trăm
năm qua, thời cận đại cũng như hiện đại trên đất phương Nam đã chứng minh rất rõ
tính năng động, sáng tạo là nét đặc thù nổi bật trong tư duy và phương thức xử lí các
-20-
vấn đề trong cuộc sống của con người Nam Bộ nói riêng và miền Nam nói chung” [60;
7].
Mặc dù sống ở miền quê mới, xa cách đất tổ, người Nam Bộ vẫn theo tục cũ của
Giao Chỉ: “… dân thường thì húi tóc, đi chân không. Nam nữ đều mặc áo cổ cứng, tay
áo ngắn, áo đều may liền ở hai nách; không có quần dài, quần đùi, đàn ông dùng một
loại vải quấn từ lưng xuống đến đít, buộc thắt ở rốn, gọi là cái khố; con gái mặc váy
không có lót, đội cái nón to; hút thuốc bằng cái điếu; làm nhà thấp, trải chiếu xuống
đất, ngồi không có ghế bàn” [24; 143]. Ngày thường, họ chăm chỉ làm ăn. Cuối năm,
sửa sang đắp lại phần mộ tổ tiên, dọn dẹp bàn thờ ông bà. Ngày tết, mặc quần áo mới, lễ
bái tổ tiên, chúc tụng nhau, mở hội, ăn uống, chơi bời…
Môi trường sông nước đã tạo nên cho Nam Bộ một vùng văn hoá đặc trưng
không giống vùng khác. Không giống cả về ăn uống. Người Nam Bộ khoái món cá lóc
nướng trui, cá nấu ám, thích canh chua, ưa ăn mắm, dùng nước cốt dừa để chế biến món
ăn… Họ quen đi lại, di chuyển theo cách sống trong môi trường sông nước: “Đất ở Gia
Định có nhiều sông ngòi, bãi biển, 10 người thì 9 người giỏi bơi lội, quen chở thuyền”
[24; 147]…
Họ rất lạc quan. Đây cũng là đức tính của người Việt nói chung. Nhưng nó được
phát triển thêm lên khi trong cuộc sống vốn ít niềm vui. Họ cố vui trong cả những lúc
buồn nhất. “Tục ở Gia Định, phàm có cầu đảo hay việc vui, đều bày diễn tuồng” [24;
146].
1.1.3.3. Sự biến đổi và giao thoa văn hoá ở Nam Bộ
Văn hóa Việt được con người mang theo từ buổi đầu mở đất vào phương nam,

do trải qua các biến cố lịch sử xã hội nên đã có những thay đổi phù hợp với hoàn cảnh
mới. Theo hướng đồng đại, ngoài yếu tố ổn định, văn hoá Nam Bộ cũng có những thích
nghi, biến đổi riêng cho phù hợp với môi trường sống. Mặc dù vậy, văn hoá Việt ở Nam
Bộ một mặt vẫn giữ được bản sắc cội nguồn, mặt khác vẫn có những nét độc đáo riêng.
Ví dụ: “Nếu như ở người Hán, trời quan hệ với đất thông qua con người, thì có lẽ ở
người Việt mối quan hệ cơ bản, đầu tiên phải là Đất, Nước và Con người, trong đó
Nước và Con người là quan hệ số một. Chúng tôi cho rằng chính người Việt phương
Nam mới là dân tộc hiểu biết sâu sắc về Nước – như một trong số những thành phần cơ
bản của vũ trụ vật chất. Nếu như ở người Trung Hoa có thầy địa lí thì thầy “thuỷ lí”
-21-
trong dân gian Việt Nam có lẽ là hình ảnh cô đọng nhất về tri thức Việt, hay nói chính
xác là “tri thức văn hoá dân gian Việt” [13; 118].
Sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc trên miền đất phương nam diễn ra trên
nhiều lĩnh vực: cách làm lụng, ăn mặc, đi lại, lễ tết, học hành… và văn hoá Nam Bộ vẫn
giữ được bản sắc riêng. Sự giao lưu này càng làm phong phú thêm văn hoá Việt.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ khăng khít với nhau. Điều này đã được thừa
nhận. Ngôn ngữ với văn hoá cũng có mối quan hệ tương tự:”ngôn ngữ không tồn tại
ngoài văn hoá” (E. Sapir) [115; 255]. “Ngôn ngữ là sản phẩm của văn hoá, đồng thời
nó cũng là hợp phần, thậm chí là hợp phần quan trọng nhất của văn hoá” [11; 5]. Ngôn
ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp, phương tiện tư duy của con người mà nó “còn
là quan niệm của chính con người với tư cách là chủ thể tri nhận và phân cắt hiện thực
bằng cái mã của mỗi ngôn ngữ.” [72; 32]. Quan niệm ấy chính là đặc trưng văn hoá
trong định danh.
Bằng vốn từ ngữ của mình, ngôn ngữ đã phản ánh văn hoá của một dân tộc, của
một vùng dân tộc. “Vốn từ vựng văn hoá của một ngôn ngữ trước hết thuộc vào vốn từ
vựng chung, cơ bản của một ngôn ngữ, các đơn vị của nó phản ánh cái cấu trúc văn
hoá của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ ấy. Vốn từ vựng như vậy phải được tổ chức, sắp
xếp và được cấu trúc hoá theo các đặc trưng văn hoá cộng đồng nhất định” [13; 69].
1.1.4. Phương ngữ và phương ngữ Nam Bộ
1.1.4.1. Khái niệm về phương ngữ, từ địa phương, vấn đề phân vùng phương

ngữ và xác định vùng phương ngữ Nam Bộ
1.1.4.1.1. Phương ngữ
Theo Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn: “Phương
ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt được sử
dụng ở một phạm vi lãnh thổ hay xã hội hẹp hơn là ngôn ngữ. Là hệ thống kí hiệu và
quy tắc kết hợp có nguồn gốc chung với hệ thống khác được coi là ngôn ngữ (cho toàn
dân tộc) các phương ngữ (có người gọi là tiếng địa phương, phương ngôn) khác nhau
trước hết là ở cách phát âm, sau đó là vốn từ vựng” [theo 118; 232]. Hay ngắn gọn hơn
như định nghĩa của Hoàng Thị Châu: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để
chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác
biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác“[8; 24].
-22-
Ở đây, chúng tôi thấy cũng cần phân biệt ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ.
Phương ngữ chỉ là biến thể của ngôn ngữ toàn dân. Tuy nhiên, phương ngữ là một hệ
thống hoàn chỉnh riêng của nó chứ không phải là “một cái nhánh được tách ra từ thân
cây” [8; 54] ngôn ngữ toàn dân. Ngôn ngữ toàn dân cũng không phải là cái trừu tượng
còn phương ngữ là cái cụ thể. “Phương ngữ cũng như ngôn ngữ toàn dân đều có mặt
trừu tượng và mặt cụ thể” [8; 54].
1.1.4.1.2. Từ địa phương
Trong Từ vựng học tiếng Việt, Nguyễn Thiện Giáp viết: “Từ địa phương là
những từ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương, từ địa phương là một
dạng biến thể của vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc” [26; 292].
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học cũng giải thích: “Từ của một phương
ngữ thuộc một ngôn ngữ dân tộc nào đó và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của địa
phương đó” [118; 339].
Từ địa phương phát sinh do khoảng cách địa lí, điều kiện tự nhiên, sự kiện lịch
sử, phong tục, tập quán xưa của một cộng đồng người.
1.1.4.1.3. Phân vùng phương ngữ của tiếng Việt
Về phân vùng phương ngữ của tiếng Việt, có rất nhiều quan điểm khác nhau và
cũng hết sức phức tạp. Có quan điểm cho rằng tiếng Việt không có vùng phương ngữ

nào cả mà chỉ có một ngôn ngữ tiếng Việt mà thôi. Nhưng cũng có quan điểm cho là
hai, là ba, là bốn, hoặc thậm chí là năm vùng phương ngữ (theo 8; 85-88]. Cụ thể:
+ S.C. Thomson là người đưa ra quan điểm không chia vùng phương ngữ của
tiếng Việt.
+ H. Maspero, M.V. Gordina và I. S. Bustrov có cùng quan điểm chia hai vùng
phương ngữ: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung (tiếng miền Nam giống phương
ngữ Bắc). Hoàng Phê cũng chia làm hai vùng nhưng ranh giới có khác: tiếng miền Bắc
(Hà Nội), tiếng miền Nam (có thành phố Hồ Chí Minh), ở khu vực giữa là vùng chuyển
tiếp.
+ Quan điểm chia ba vùng phương ngữ: phương ngữ Bắc (Thanh Hoá và Bắc
Bộ), phương ngữ Trung (từ Nghệ An đến Đà Nẵng) và phương ngữ Nam (từ Đà Nẵng
trở vào). Đây là quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu mà tiêu biểu là Hoàng Thị Châu.
+ Các đại diện cho quan điểm chia làm bốn vùng phương ngữ có Nguyễn Kim
Thản: phương ngữ Bắc (Bắc Bộ và một phần Thanh Hoá), phương ngữ Trung Bắc (phía
-23-
nam Thanh Hoá đến Bình Trị Thiên), phương ngữ Trung Nam (từ Quảng Nam đến Phú
Khánh), phương ngữ Nam (từ Thuận Hải trở vào); Nguyễn Văn Ái: phương ngữ Bắc Bộ
(từ các tỉnh biên giới phía Bắc đến Thanh Hoá), phương ngữ Bắc Trung Bộ (từ Nghệ
Tĩnh đến Bình Trị Thiên), phương ngữ Nam Trung Bộ (từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến
Thuận Hải), phương ngữ Nam Bộ (từ Đồng Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau).
+ Chia làm năm vùng phương ngữ: phương ngữ miền Bắc (Bắc Bộ và Thanh
Hoá), phương ngữ Trung trên (từ Nghệ An đến Quảng Trị), phương ngữ Trung giữa (từ
Thừa Thiên đến Quảng Ngãi), phương ngữ Trung dưới (từ Bình Định đến Bình Tuy),
phương ngữ Nam (từ Bình Tuy trở vào) là quan điểm của Nguyễn Bạt Tụy.
Các ý kiến, quan điểm trên đều lấy trước hết ngữ âm làm tiêu chí chính để phân
chia các vùng phương ngữ. Nếu lấy thêm tiêu chí từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp thì
cũng chỉ dừng ở những vùng phương ngữ lớn mà thôi.
1.1.4.1.4. Xác định vùng phương ngữ Nam Bộ
Tiếng Việt xuất hiện ở vùng địa lí từ Thuận Hải trở vào, Hoàng Phê gọi là tiếng
miền Nam, nơi có Sài Gòn (tp HCM) là trung tâm (trong bài “Ý kiến về một vấn đề nhỏ:

ưu hay iu?”, Ngôn ngữ số 4/ 1973). Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn
Văn Tu gọi là phương ngữ Nam [84; 51-69]. Tiếng Việt ở vùng địa lí từ Bình Tuy trở
vào, Nguyễn Bạt Tuỵ cũng gọi là phương ngữ Nam (trong bài “Ngữ Việt trên đất Việt”,
Văn hoá nguyệt san, Sài gòn 1961, số 64). Tiếng Việt ở vùng địa lí trải dài từ đèo Hải
Vân đến cực nam Tổ quốc, Hoàng Thị Châu gọi là phương ngữ Nam [8; 90]. Tiếng Việt
ở vùng địa lí từ Quảng Nam trở vào, Cao Xuân Hạo cho là phương ngữ miền Nam [29;
120, 121)].v.v
Từ thế kỉ XVII, xuất hiện tiếng Việt ở địa phương Nam Bộ - vùng địa lí từ Đồng
Nai, Sông Bé đến mũi Cà Mau. Tiếng Việt ở vùng này được Nguyễn Văn Ái [2; 10],
Trần Thị Ngọc Lang [48; 7], Hồ Lê [52; 229, 230], Bùi Khánh Thế [87; 77], Cao Xuân
Hạo [29; 120] v.v. gọi là phương ngữ Nam Bộ.
Như vậy, không gian địa lí của tiếng miền Nam, phương ngữ miền Nam hay
phương ngữ Nam được các tác giả xác định khá rộng. Không gian địa lí của phương
ngữ Nam Bộ được xác định hẹp hơn. Ranh giới PNNB trùng với ranh giới địa lí tự nhiên
Nam Bộ mà chúng ta đang quan niệm hiện nay. Đây cũng là quan điểm trong việc xác
định vùng PNNB của chúng tôi ở đề tài này.
1.1.4.2. Đặc điểm phương ngữ Nam Bộ
-24-
Bất cứ một phương ngữ nào cũng đều có những nét đặc trưng về ngữ âm, từ
vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp so với các phương ngữ khác. PNNB cũng không nằm ngoài
quy luật trên. Chúng tôi thống nhất với ý kiến sau đây của Hoàng Thị Châu: “… một
phương ngữ được xác định bằng một tập hợp những đặc trưng ở nhiều mặt: ngữ âm,
ngữ pháp, từ vựng ngữ nghĩa đối lập với phương ngữ khác.” [8; 90].
Vì Nam Bộ có điều kiện giao thông thuận tiện và là mảnh đất sớm có nền kinh tế
hàng hoá so với vùng khác của đất nước cho nên PNNB đã có sự ảnh hưởng trên một
vùng dân cư rộng lớn. “Một đặc điểm nổi bật của phương ngữ Nam Bộ là tính thống
nhất cao của nó trên một vùng lãnh thổ rộng lớn” [87; 77].
Về đặc điểm của PNNB, chúng tôi có cùng nhận xét như các tài liệu: [2], [8],
[49], [52] và [87].
1.1.4.2.1. Đặc điểm về ngữ âm

-Thanh điệu: Tiếng Nam Bộ chỉ sử dụng năm thanh điệu: ngang, huyền,
hỏi (phát âm nhẹ nhàng), sắc, nặng (theo cảm nhận của chúng tôi, thanh này cũng nhẹ
hơn tiếng toàn dân).
- Phụ âm đầu: Chỉ có 19 phụ âm. So với 23 phụ âm trong hệ thống phụ âm chuẩn
thì PNNB không có 3 phụ âm cong lưỡi /ş, z
c,
ţ/ (giống phương ngữ Bắc), không có phụ
âm môi – răng /v/ (phụ âm đầu /v, z/ đều phát âm là /z/ (tuy nhiên, /z/ không phát âm
giống tiếng Việt toàn dân mà phát âm giống “j”). Cá biệt có một số nơi thuộc vùng
ĐNB phát âm phụ âm đầu /t’/ thành /x/ (thịt

khịt), một số nơi thuộc vùng miền Tây
Nam Bộ phát âm /z
c
/ thành /γ/ (cá rô

cá gô), / ţ / thành /t/ (cá trê

cá tê)…
Các phụ âm /k-, h-,?-/ khi đứng trước uy, ua, uơ thì phát âm giống nhau (ví dụ,
“qua”, “hoa” đều thành “wa”).
- Vần: Âm đệm /-w-/ hoặc bị lược bỏ (loan

lan, luyến

liến…), hoặc được
nhấn mạnh thành âm chính (loan

lon). Các nguyên âm đôi /ie,  ɤ , uo/ khi đi với /-m,
-p/ cuối thì mất yếu tố sau (tiêm


tim, lượm

lựm, luộm thuộm

lụm thụm…). Các
âm đơn /Χ, ɤ / đứng trước phụ âm cuối /-p, -m/ đều thành /o/ (nom, nơm

nôm). Âm
chính /ă/ trong vần “ay” đọc thành /a/ (ví dụ, tay

tai). Một số nơi thuộc vùng ĐNB
phát âm vần “êm êp” thành”im ip” (đêm

đim).
- Phụ âm cuối: Phát âm không phân biệt /-n / với /-ŋ / (tan – tang), /-t/ với /-k/
(tắc – tắt).
-25-

×