Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
I. LỜI MỞ ĐẦU
Thừa kế là sự truyền lại tài sản của người đã chết cho những người khác theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Quan hệ thừa kế xuất hiện cùng thời với quan hệ
sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Giữa quyền thừa kế và
quyền sở hữu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Pháp luật về quyền thừa kế là tổng hợp các quan hệ pháp luật điều chỉnh việc
chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự
nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các
quyền, nghĩa vụ của người thừa kế… Hiểu theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế chính là các
quyền và nghĩa vụ của người để lại thừa kế và người thừa kế.
Pháp luật về thừa kế của nước ta có quá trình hình thành như sau:
- Sắc lệnh ngày 10/10/1945: cho phép tạm thời áp dụng các luật lệ của chế độ cũ, trừ
những điều khoản trái với nền độc lập và dân chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
- Sắc lệnh 97 ngày 22/5/1950 quy định vợ chồng có quyền thừa kế của nhau, con
trai, và con gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; người thừa kế có quyền nhận
hay không nhận di sản thừa kế. Các chủ nợ của người chết không có quyền đòi người
thừa kế phải thanh toán nợ nần vượt quá phần di sản mà người đó được nhận.
- Luật hôn nhân gia đình năm 1980 quy định khi tái giá, quyền lợi của người đàn
bà goá được bảo đảm, các con đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình
và trong thừa kế, không phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú, con ngoài giá thú.
- Thông tư số 881/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp
về thừa kế.
- Văn bản ngày 30/8/1990 của Hội đồng Nhà nước thông qua pháp lệnh thừa kế.
Nghị quyết số 02 ngày 19/10/1990 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh Thừa kế.
- Bộ luật dân sự ngày 28/10/1995 có hiệu lực từ ngày 01/7/1996 là văn bản pháp luật
hiện hành quy định về thừa kế thay thế pháp lệnh thừa kế năm 1990 tại phần thứ tư (từ
điều 634 đến điều 689) và quy định thêm 7 điều liên quan đến thừa kế quyền sử dụng
đất (từ điều 738 đến điều 744).
- Bộ luật dân sự ngày 14/06/2005 là văn bản pháp luật hiện hành quy định về thừa
kế tại phần thứ tư (từ điều 631 đến điều 687) và quy định thêm 7 điều liên quan đến
thừa kế quyền sử dụng đất (từ điều 733 đến điều 735).
Tiểu luận Dân sự Trang -1- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
II. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬT SƯ CẦN NGHIÊN CỨU TRONG CÁC VỤ ÁN VỀ
THỪA KẾ
A-NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ
1. Quyền thừa kế của cá nhân – Đ 631, 632 BLDS
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của
mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và
quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
2. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế – Đ633 BLDS
Theo qui định tại Điều 633 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì thời điểm mở thừa kế là
thời điểm người có tài sản chết.Trong trường hợp Tòa tuyên bố một người đã chết,thì
thời điểm mở thừa kế là ngày mà Toà án xác định người đó đã chết.Nếu không xác định
được chính xác ngày chết của người đó thì ngày bản án tuyên bố một người đã chết có
hiệu lực pháp luật được coi là ngày mà người đó chết.
Việc xác định thời điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế. Tại
thời điểm sẽ xác định được người thừa kế của người chết cũng như di sản mà người
chết để lại.
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không
xác định được nơi cư trú cuối cùng, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần
lớn di sản.
3. Di sản – Đ 634 BLDS
Di sản thừa kế bao gồm tài sản và quyền về tài sản của người chết. Tài sản của
người chết bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác.
Quyền tài sản của người chết có thể là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ,
quyền tác giả…
Di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường
hợp người có tài sản để lại còn có nghĩa vụ về tài sản, thì thông thường phần nghĩa vụ
này sẽ được thanh toán bằng tài sản của người chết.
Phần còn lại sẽ được xác định là di sản của người chết và được chia theo qui định
của pháp luật. Việc thanh toán các nghĩa vụ của người chết có thể do những người thừa
kế của người chết thỏa thuận. Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vu về tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà
mình đã nhận.
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy
định tại Phần thứ năm, chương XXXIII của BLDS 2005.
Tiểu luận Dân sự Trang -2- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
4. Người thừa kế
Để xác định được người thừa kế của người chết vào thời điểm người này chết,
cần phải xác định người chết có để lại di chúc hay không. Nếu có di chúc thì người thừa
kế sẽ được xác định theo di chúc. Nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp
hoặc di chúc không phát sinh được hiệu lực pháp luật thì người thừa kế sẽ được xác
định theo qui định của pháp luật.
Trong cả hai trường hợp thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật, những người
sau đây không có quyền được hưởng thừa kế:
-Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự,
nhân phẩm của người đó.
-Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
-Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
-Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
di sản tráu với ý muốn của người để lại di sản.
Người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức.Trường hợp người thừa kế
là cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra
và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì cơ quan, tổ
chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế (Điều 635 Bộ luật dân sự).
4.1 Những người sau đây không được quyền hưởng di sản
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự,
nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
4.2 Những người nêu trên vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành
vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Tiểu luận Dân sự Trang -3- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
4.3 Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có
nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản không có
người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.
5. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại – Đ 637, 642 BLDS
Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại.
Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.
Trong trường hợp di sản đã được chia, thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo cho
những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng
hoặc Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối
nhận di sản.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế.
6. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế – Đ 645 BLD
Theo qui định tại điều 645 Bộ luật dân sự, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
là mười năm, kể từ ngày mở thừa kế. Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu
cầu Tòa án chia thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của
người khác. Hết thời hạn mười năm, người thừa kế không còn quyền khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.
Đối với những vụ án có thời điểm mở thừa kế từ trước ngày 10.09.1990 thì thời
hạn cuối cùng của thời hiệu khởi kiện là trước ngày 10.09.2000. Tuy nhiên do những
tranh chấp giao dịch về nhà ở được xác lập trước ngày 01.07.1991, trong đó có việc thừa
kế về nhà ở phải dừng lại đợi Nghị quyết của Quốc hội, nên thời hạn tạm ngừng từ ngày
01.07.1996 đến ngày 01.01.1999 không tính vào thời hiệu này. Do vậy những vụ án có
thời điểm mở thừa kế trước ngày 01.07.1991 (bao gồm cả những vụ án có thời điểm mở
thừa kế trước ngày 10.09.1990), sẽ có hạn cuối cùng của thời hiệu khởi kiện là trước
ngày 10.03.2003. Bắt đầu từ ngày 10.03.2003 các đương sự không còn quyền khởi kiện
các vụ án thừa kế (Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20.08.1998 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày
01.07.1991; Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNHTC ngày
25.001.1999 của Tòa án nhân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số qui định của Nghị quyết số 58 của Quốc hội).
B- THỪA KẾ THEO DI CHÚC VÀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
1. Thừa kế theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân chuyển giao tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. Như vậy thừa kế theo di chúc là việc hưởng tài sản của người chết
Tiểu luận Dân sự Trang -4- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
theo ý nguyện của người đó đã mong muốn và được thể hiện khi còn sống.Việc hưởng
tài sản theo phương thức này chủ yếu dựa trên ý chí của người có tài sản,nhưng mặt
khác cũng không được trái những qui định của pháp luật.
1.1 Người lập di chúc – Đ 647 - 652 BLDS
Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
1.1.1 Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có các quyền sau đây:
- Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
- Dành một phần di sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản.
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
1.1.2 Hình thức của di chúc.
Di chúc có thể được lập thành văn bản nhưng cũng có thể di chúc bằng miệng
Di chúc bằng văn bản
Hầu hết các trường hợp,di chúc đều phải được lập thành văn bản. Có các hình
thức văn bản sau đây:
-Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 655 BLDS), người lập
di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc
-Di chúc bằng văn bản có người làm chứng ( Điều 656 BLDS)
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền,
nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người chưa đủ mười tám tuổi hoặc
người không có năng lực hànmh vi dân sự.
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết di chúc, thì có thể
nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất hai người làm chứng. Người lập di chúc phải
ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; người làm chứng
xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Di chúc bằng miệng
Tiểu luận Dân sự Trang -5- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các
nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc bằng
miệng. Di chúc bằng miệng được coi là hợp pháp, nếu người lập di chúc bằng miệng thể
hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau ba tháng, kể từ
thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc
miệng bị hủy bỏ (Điều 651 BLDS).
1.1.3 Di chúc hợp pháp
Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều khoản sau đây:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối,
đe dọa hoặc cưỡng ép.
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc không
trái quy định của pháp luật.
1.1.4 Một số loại di chúc khác
- Di chúc của một người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải
được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng Nhà nước
hoặc chứng thực của Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị trấn.
1.2 Nội dung của di chúc bằng văn bản – Đ 653 - 659 BLDS
1.2.1 Di chúc phải ghi rõ
- Ngày, tháng, năm lập di chúc
- Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc.
- Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản.
- Di sản để lại và nơi có di sản.
- Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
1.2.2 Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang,
thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di
chúc.
1.2.3 Một số quy định khác
1.2.3.1 Người làm chứng cho việc lập di chúc.
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
Tiểu luận Dân sự Trang -6- Nguyễn Tiến Đức
Kỹ năng của luật sư trong các vụ án về thừa kế, lý luận và thực tiễn
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
1.2.3.2 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng:
Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.
1.2.3.3 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng:
Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có
thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di
chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, những
người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc.
1.2.3.4 Di chúc có chứng nhận của Công chứng Nhà nước hoặc chứng thực của Ủy Ban
Nhân Dân xã, phường, thị trấn.
Người lập di chúc có thể yêu cầu Công chứng Nhà nước chứng nhận hoặc Ủy
Ban Nhân Dân xã, phường thị trấn chứng thực bản di chúc.
1.3 Thủ tục lập di chúc tại Công chứng Nhà nước hoặc Ủy Ban Nhân Dân xã,
phường, thị trấn.
Việc lập di chúc tại Công chứng Nhà nước hoặc Ủy Ban Nhân Dân xã, phường,
thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước Công chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị trấn, Công
chứng viên hoặc người co thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người
lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác
nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công
chứng hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị
trấn ký vào bản di chúc.
Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản
di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải nhờ người làm chứng và người
này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền
chứng thực của Ủy Ban Nhân Dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước
mặt người lập di chúc và người làm chứng.
-Di chúc bằng văn bản có chứng thực của công chứng nhà nước: Người lập di
chúc có thể yêu cầu công chứng viên chứng nhận bản di chúc.Thủ tục chứng thực của
công chứng viên được tiến hành giống như đối với thủ tục chứng thực di chúc của Uy
ban nhân dân xã phường, thị trấn,được qui định tại Điều 657, 658 và Điều 659 BLDS.
Tiểu luận Dân sự Trang -7- Nguyễn Tiến Đức