Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.51 KB, 21 trang )

Vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp
ở Việt Nam hiện nay


Nguyễn Thị Xuân


Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận án TS. ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Mã số: 60 22 80 05
Người hướng dẫn: GS.TS. Trần Phúc Thằng, TS. Dương Văn Duyên
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Làm rõ khỏi niệm người lao động công nghiệp Việt Nam, tính tích cực
của người lao động công nghiệp Việt Nam, vai trò của Nhà nước đối với việc phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam. Phân tích thực trạng
vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp ở Việt Nam trong những năm đổi mới và những vấn đề đặt ra. Đề xuất một
số quan điểm và giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay.

Keywords. Quản lý nhà nước; Người lao động; Việt Nam; Chủ nghĩa duy vật biện
chứng; Lao động công nghiệp; Triết học

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập quốc tế
và chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đã giải phóng, khơi dậy và


phát huy biết bao tiềm năng, trong đó có tiềm năng con người cho phát triển đất nước. Cùng với
việc chủ động, tích cực, sáng tạo của người lao động vươn lên thích ứng với cơ chế thị trường,
mở cửa, hội nhập, vai trò của Nhà nước cũng được khẳng định và phát huy, nhất là trong việc
khơi dậy và phát huy tính tích cực của con người Việt Nam, trong đó có người lao động công
nghiệp. Chính vì vậy, công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
đã luôn tạo ra động lực mạnh mẽ và thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, công nghiệp có vai trò quan trọng trong
giai đoạn thực hiện CNH, HĐH. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010
nhằm: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”[28, tr.89]. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 nêu quan điểm “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[23, tr.2]. Công nghiệp hiện đại có yêu cầu cao về tổ
chức, kỉ luật, thái độ, tác phong làm việc của chủ thể trực tiếp vận hành. Lợi thế cạnh tranh
của một ngành công nghiệp là “khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó”[24, tr.408]. Theo
quan niệm này, ngành nào có khả năng đổi mới và sáng tạo lớn thì ngành đó có khả năng
cạnh tranh cao. Hơn nữa, để có khả năng cạnh tranh cao, các ngành không chỉ cần những
nguồn lực phát triển có tính chất truyền thống như nguồn đất đai sẵn có, NNL mà phải là
những nguồn lực tiên tiến và tinh hoa như đội ngũ các nhà khoa học và công nhân có tay
nghề kĩ thuật cao…cũng như sự phân bố hợp lý các nguồn lực vào các ngành. Nguồn lao
động tinh hoa không phải có sẵn mà phải được xây dựng thông qua hệ thống đào tạo đạt trình
độ phát triển và có chất lượng cao.
Thực tiễn CNH, HĐH trong những năm vừa qua, có hàng loạt những vấn đề xã hội
đang nảy sinh. Tại sao sau bao nhiêu năm công nghiệp hóa mà lượng lao động công nghiệp
của nước ta vẫn chiếm một tỉ lệ nhỏ bé trong cơ cấu lao động của cả nước? Tại sao khi làn
sóng đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam thì vấn đề nổi bật lại là hiện tượng thiếu lao
động trầm trọng, kể cả nhóm lao động kỹ thuật phổ thông? Tại sao hàng vạn công nhân đã rời

bỏ lao động công nghiệp sang những lĩnh vực khác mà phần nhiều là trở lại lao động nông
nghiệp có trình độ thấp hơn trình độ lao động công nghiệp? Hiện tượng đình công của công
nhân có xu hướng gia tăng. Những bức xúc về lao động, việc làm chậm được giải quyết.
Năng lực làm chủ, ý thức giác ngộ chính trị, kỷ luật lao động của công nhân có dấu hiệu suy
giảm…Điều này thể hiện tính tích cực của người lao động bị hạn chế, làm triệt tiêu động lực
phát triển kinh tế - xã hội.Trong điều kiện KTTT, nhu cầu của con người không ngừng tăng
lên, nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh từ sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải có sự can thiệp
của nhà nước. Nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế phải được giải quyết trong tương quan với
các nhu cầu của công bằng xã hội. Phát triển kinh tế phải gắn với phát triển con người, nhà
nước có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình gắn kết đào tạo, sử dụng, việc làm tạo điều
kiện để người lao động phát triển năng lực của mình…
Trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, để tiếp tục khơi dậy và phát huy vai trò tích cực của người
lao động công nghiệp, đòi hỏi vai trò của Nhà nước phải được đề cao hơn nữa không chỉ
trong việc quản lý nguồn nhân lực theo pháp luật, mà quan trọng hơn là tạo cơ chế, chính
sách để phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại hoá và chăm lo ngày một tốt hơn đời sống
vật chất, tinh thần cho người lao động.
CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân tất yếu
phải phát huy hơn nữa vai trò của Nhà nước, vai trò của công dân trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp của nước ta
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên cơ sở tư duy mới, cần thiết nghiên cứu một cách có hệ
thống về vai trò của Nhà nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp ở nước ta để từ đó hình thành những chủ trương, chính sách đúng, hợp lòng người góp
phần tạo động lực cho công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế. Do vậy, tôi chọn: “Vai
trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài

Thời gian qua, vấn đề vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế và phát huy tính
tích cực của con người đã được rất nhiều người quan tâm, nhiều bài viết trong và ngoài nước
bàn đến. Các bài viết có thể đề cập các cơ chế, chính sách của Nhà nước trong việc tạo động
lực cho người lao động như: Đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động, vai trò của đào
tạo nghề, vai trò của chính sách kinh tế và chính sách xã hội…
Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), “Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồ Văn Thông: “Hệ thống chính trị ở các nước tư bản
phát triển hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nol Wen Henaff Jean, Yves Martin
(2001), “Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới”, NXB Thế giới,
Hà Nội. Lê Minh Quân (2003), “Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Trung Hải (2006), “Ngành công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới”, Việt Nam 20 năm
đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Thanh Hà ( 2009), “Phát triển nguồn nhân lực
công nghiệp Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa đất nước và vai trò của công đoàn”,
NXB Lao động, Hà Nội.
Nguyễn Thị Phi Yến (2000), “Vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố
con người trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học,
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Lê Thị Hồng
(2001), “Vai trò của định hướng XHCN của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội. Trần Thị Anh (2005), “Nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố
Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hoàng Chí Bảo (2003), “Chính sách xã hội - những định hướng và chuẩn mực trong
phát triển”, Thông tin chuyên đề, số 2, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đỗ Văn
Quân (2007), “Tính năng động xã hội của người dân trong bối cảnh đổi mới đất nước và hội
nhập kinh tế quốc tế”, Lý luận chính trị, số 4. Nguyễn Hữu Dũng (2007), “Phát triển khu
công nghiệp với vấn đề lao động - việc làm ở Việt Nam”, Lý luận chính trị, số 6. Lưu Bình
Nhưỡng (2009), “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và trách nhiệm của nhà nước trong
lĩnh vực đào tạo nghề”, Thông tin tư liệu chuyên đề, số 4, Trung tâm thông tin khoa học, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Phạm Ngọc Quang (2009), “Vai trò của

nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số4.
Đáng chú ý là một số công trình đề cập trực tiếp đến tính tích cực xã hội của con
người như: Trịnh Trí Thức (1994), “Một số nhân tố khách quan tác động đến tích cực xã hội
của sinh viên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Luận án Tiến sĩ Triết học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hồ Anh Dũng (2002), “Phát huy
yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”, NXB Khoa học Xã hội.
Nguyễn Văn Hoà (2007), “Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ giảng viên trong các
trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quân sự, Hà Nội.
Cũng có nhiều sách chuyên khảo, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên các tạp
chí… đề cập đến giai cấp công nhân, các nhân tố ảnh hưởng tới tính tích cực của giai cấp
công nhân và xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH như:
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Viện công nhân và công đoàn (1999), “Xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước”, NXB Lao động, Hà
Nội. Cao Văn Lượng (Chủ biên) (2001), “CNH, HĐH và sự phát triển giai cấp công nhân”,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Góp phần xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân thành phố Hồ Chí Minh” NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Nguyễn An Ninh (2008), “Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Văn Tạo (2008), “Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân -
kinh tế tri thức và công nhân tri thức”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo,
Bùi Đình Bôn, Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên) (2010), “Một số vấn đề phát triển lý luận
về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện KTTT đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế”, NXB Lao động, Hà Nội. Đặng Ngọc Tùng (Chủ biên) (2010), “Xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”, NXB Lao động, Hà Nội.
Trần Thị Bích Liên (2001), “Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân
Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Dương Xuân Ngọc (Chủ nhiệm đề tài) (2005),
“Xu hướng biến đổi giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước”, Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Hữu Tiến (2007), “Một số quan điểm về xây dựng, phát huy vai trò giai cấp
công nhân giai đoạn hiện nay”, Lý luận chính trị, số 4. Nguyễn Đức Bách, “Học thuyết Mác
Lê-nin về nền sản xuất công nghiệp hiện đại và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân”.
Nguyễn Văn Huyên (2007), “Suy nghĩ về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam”, Lý luận chính trị, số 11. Đặng Ngọc Tùng - Uỷ viên TW Đảng, chủ tịch tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam (2008), “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản, số 2.
Các công trình và bài viết trên đều có những ý kiến, những lý giải về vai trò của Nhà
nước đối với việc phát huy tính tích cực của con người, về phát huy vai trò của giai cấp công
nhân, về tính tích cực xã hội của con người từ phương diện này hay phương diện khác. Trong
quá trình nghiên cứu, tác giả kế thừa các giá trị khoa học trong các đề tài đó làm cơ sở nghiên
cứu của mình. Tuy nhiên, chưa có một công trình chuyên biệt trình bày tập trung có hệ thống
vấn đề vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Luận án này là một nỗ lực nhằm góp phần khắc phục khoảng
trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước Việt Nam trong việc phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp những năm đổi mới, luận án đề xuất một số
quan điểm và giải pháp để nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Nhiệm vụ của luận án
- Làm rõ khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam, tính tích cực của người lao
động công nghiệp Việt Nam, vai trò của Nhà nước đối với phát huy tính tích cực của người
lao động công nghiệp Việt Nam.
- Phân tích thực trạng vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của
người lao động công nghiệp ở Việt Nam trong những năm đổi mới và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò của Nhà nước
trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu vai trò của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp ở nước ta những năm đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án chỉ giới hạn ở việc làm rõ vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính
tích cực của người lao động ngành công nghiệp trong phát triển kinh tế của đất nước thời kỳ
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay, những giải pháp để nâng cao vai trò
của Nhà nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động ngành công nghiệp từ nay
đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về vai trò của Nhà
nước trong quản lý xã hội nói chung, trong phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp nói riêng.
Luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và những công trình
nghiên cứu có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án này vận dụng những quan điểm phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó đặc biệt chú ý phương pháp phân tích và
tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá, phương pháp thống kê…
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án góp phần làm rõ khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam, tính tích
cực của người lao động công nghiệp Việt Nam.
Luận án làm rõ vai trò và thực trạng vai trò của nhà nước Việt Nam đối với việc phát
huy tính tích cực của lao động công nghiệpViệt Nam, tạo cơ sở lý luận để Nhà nước nâng cao
vai trò của mình trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
ý nghĩa lý luận của luận án

Luận án góp phần nghiên cứu vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp ở Việt Nam trong những năm đổi mới và những vấn đề đặt
ra, qua đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu để nâng cao vai trò của Nhà nước
trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay.
ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
giảng dạy nghiên cứu vấn đề vai trò của Nhà nước trong việc phát triển kinh tế và phát huy
vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận án gồm 3 chương 7
tiết.

Chương 1
Lý luận chung về Vai trò của nhà nước đối với việc phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp
1.1. Người lao động công nghiệp và tính tích cực của người lao động công nghiệp
Khái niệm người lao động công nghiệp Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã luận giải toàn bộ quá trình phát triển của xã hội loài người
như một quá trình lịch sử tự nhiên. Quá trình đó cũng là quá trình phát triển của LLSX từ
thấp đến cao, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của các lực lượng lao động xã
hội. Nhu cầu khách quan của nền sản xuất xã hội hoá, của quá trình công nghiệp hóa là
những nhân tố chủ đạo thúc đẩy và tạo ra đội ngũ lao động công nghiệp.
ở Việt Nam hiện nay, người lao động công nghiệp là người lao động trong lĩnh vực
công nghiệp ở thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Trong phạm vi của luận án, người lao động công nghiệp Việt Nam là sản phẩm và là
chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Đó là lực lượng lao động trên lĩnh vực sản xuất ra các sản
phẩm công nghiệp dưới hình thức tư liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng, các hoạt động dịch
vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp ở tất cả các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước,
ngoài nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở nêu rõ thành phần của lực lượng lao động công nghiệp và so sánh với giai

cấp công nhân, tác giả làm rõ mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và người lao động công
nghiệp. Người lao động công nghiệp và giai cấp công nhân là hai khái niệm giao nhau.
Người lao động công nghiệp gắn với sản xuất công nghiệp và dịch vụ trực tiếp cho sản xuất
công nghiệp. Người lao động công nghiệp bao hàm trong nó công nhân công nghiệp và công
nhân dịch vụ cho công nghiệp. Giai cấp công nhân ngoài việc gắn với sản xuất công nghiệp
và dịch vụ trực tiếp cho sản xuất công nghiệp còn gắn với các dịch vụ khác. Lao động sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp là công nhân không là người lao động
công nghiệp. Lao động thời vụ là người lao động công nghiệp, không là công nhân. Giai cấp
công nhân với tư cách là một giai cấp xã hội theo định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin phải được
xác định trên các tiêu chí gắn liền với các yếu tố của QHSX như: quan hệ sở hữu tư liệu sản
xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, cách thức hưởng thụ và về phần của cải mà họ được
hưởng. Người lao động công nghiệp chủ yếu căn cứ vào hoạt động của họ dựa trên cơ sở
chính là công cụ lao động gắn với đại công nghiệp
ở đây tác giả cũng phân biệt rõ người lao động trong lĩnh vực công nghiệp với người
lao động công nghiệp và đề cập đến vai trò của người lao động công nghiệp với tư cách là
LLSX của xã hội.
Tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam
Trên cơ sở xem xét tính tích cực xã hội của con người nói chung biểu hiện qua việc
con người cải biến tự nhiên, cải biến xã hội, cải biến bản thân con người, tác giả khái quát lại:
Tính tích cực xã hội của con người là sự phát huy mọi khả năng tiềm tàng của họ để phục vụ
cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Từ đó có thể thấy tính tích cực của người lao động công
nghiệp theo nghĩa hẹp là sự cố gắng, nỗ lực trong hoạt động để chuyển tiềm năng của họ
thành hiện thực, nâng cao hiệu quả sản xuất đảm bảo lợi ích cho mình và góp phần vào sự
phát triển xã hội. Từ quan niệm về tính tích cực xã hội của người lao động, tác giả xem xét
tính tích cực xã hội của người lao động công nghiệp thông qua việc phân tích để chỉ ra những
đặc tính cơ bản của nó:
Thứ nhất là tính tích cực lao động, thể hiện ở việc vận dụng các tố chất vật chất và
tinh thần trong quá trình lao động công nghiệp để tạo ra năng suất lao động cao, là tinh thần
học tập vươn lên không ngừng để làm chủ khoa học - công nghệ. Thứ hai là tính tích cực
chính trị- xã hội thể hiện ở phương diện đạo đức và các giá trị tinh thần, sự tự chủ của cá

nhân. Thứ ba là tính tích cực của người lao động công nghiệp không phải chỉ thể hiện ở cá
nhân mà là ở cả tập đoàn, giai cấp, tập thể bộc lộ bằng tinh thần lao động hợp tác, tương trợ
để nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả sản xuất.
ở đây tác giả so sánh tính tích cực của người lao động công nghiệp, người lao động
nông nghiệp và rút ra những đặc thù của người lao động công nghiệp là lao động sáng tạo, kỷ
luật lao động cao, trình độ kỹ thuật tốt và tinh thần đoàn kết, hợp tác trong lao động .
Sau đó tác giả phân tích những yếu tố tác động đến tính tích cực của người lao động
công nghiệp Việt Nam:
Thứ nhất là lợi ích mà trước hết là lợi ích cá nhân. Thứ hai là công bằng xã hội. Đây
là điều kiện để thực hiện lợi ích và đảm bảo lợi ích. Thứ ba là dân chủ. Dân chủ là một động
lực đặc biệt quan trọng đối với hoạt động và sáng tạo của con người, cũng là nhân tố hết sức
quan trọng để phát huy tinh thần làm chủ và sự sáng tạo của người lao động công nghiệp. Thứ
tư là điều kiện làm việc của người lao động công nghiệp trong doanh nghiệp. Thứ năm là tính
tích cực của người lao động công nghiệp còn phụ thuộc vào tố chất vật chất và tố chất tinh
thần của chính bản thân người lao động công nghiệp. Chỉ trên cơ sở những tiền đề cơ bản
này, người lao động công nghiệp mới có thể đóng góp nhiều nhất cho sản xuất, cho sự phát
triển kinh tế.
1.2. Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp
Tính tất yếu về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao
động công nghiệp
Nhà nước nào cũng có vai trò phát triển kinh tế, kinh tế càng phát triển thì vai trò của
nhà nước càng quan trọng. Muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nhà nước phải quan tâm đến
việc phát huy tính tích cực của người lao động. Các hình thức phát huy tính tích cực của
người lao động tùy thuộc vào trình độ phát triển của xã hội và đặc biệt phụ thuộc vào trình độ
của người lao động. Kinh tế càng phát triển, các biện pháp để phát huy tính tích cực của
người lao động càng đa dạng và tinh vi hơn. Do tính đặc thù của nền kinh tế TBCN, nên nhà
nước tư sản có nhiều hình thức để phát huy tính tích cực của người lao động hơn bất cứ một
giai đoạn nào trong lịch sử. Đến CNTB, việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp trở thành một nhiệm vụ của nhà nước, một nhân tố không thể thiếu của thời đại cách

mạng khoa học và công nghệ. Như vậy, việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp là tất yếu khách quan, xuất phát từ chức năng xã hội của nhà nước và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội.
Những biểu hiện về vai trò của nhà nước trong phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp
Vai trò của nhà nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp được thể hiện trước hết ở việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, hạn chế những
tiêu cực của cơ chế thị trường, động viên được sự sáng tạo, lòng nhiệt tình và tinh thần trách
nhiệm của người lao động công nghiệp; trong việc tổ chức, thực hiện các chính sách kinh tế
và chính sách xã hội tạo môi trường cho việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp. Nhà nước còn có vai trò chính trong phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho xã hội, nâng cao trình độ làm chủ quá trình sản xuất của người lao động
công nghiệp. Vai trò của Nhà nước còn được thể hiện trong việc xây dựng hệ thống pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi người lao động công nghiệp; trong việc
mở rộng quan hệ quốc tế, tạo điều kiện cho người lao động công nghiệp giao lưu trao đổi
chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm quản lý.
Tuy nhiên, việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp còn phụ
thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể, ở các quốc gia khác nhau, các phương thức để phát huy
tính tích cực của người lao động công nghiệp cũng khác nhau. Tác giả khảo sát kinh nghiệm
của Nhật Bản, Xinhgapo, Trung quốc và các quốc gia đi đầu ASEAN hiện nay, rút ra một số
kinh nghiệm cho Việt Nam như đào tạo đón trước của Xinhgapo; các yếu tố kích thích động
viên có hiệu quả tính tích cực sáng tạo của người lao động công nghiệp của Nhật Bản; điều
chỉnh cơ cấu việc làm cùng với cơ cấu ngành nghề, nâng cao trình độ văn hóa và kỹ năng cho
người lao động bằng tất cả các kênh đào tạo của Trung Quốc; quản lý, sử dụng, đãi ngộ lao
động bằng việc chú trọng chế độ trả lương cho người lao động có sự phân cấp rõ ràng để tạo
ra sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp của các quốc gia đi đầu ASEAN.

Chương 2
Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và những vấn

đề đặt ra

2.1. Những nhân tố tác động đến vai trò của nhà nước trong việc phát huy tính tích
cực của người lao động công nghiệp ở nước ta hiện nay
Việc thực hiện vai trò của nhà nước trong phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp ở nước ta hiện nay phụ thuộc vào các nhân tố khách quan và chủ quan. Trong
luận án này, chủ thể tác động đến tính tích cực xã hội của người lao động công nghiệp được
xác định là nhà nước, nên cái chủ quan là những yếu tố thuộc về nhà nước như: ý chí của nhà
nước, năng lực tổ chức, quản lý điều hành của nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ
cán bộ nhà nước. Điều kiện khách quan là những yếu tố nằm ngoài nhà nước, đó là điều kiện
quốc tế và trong nước. Điều kiện quốc tế và trong nước tác động đến vai trò của nhà nước đối
với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp có rất nhiều nhân tố, nhưng
có thể đề cập tới một số nhân tố cơ bản như: toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, trình độ phát triển
của nền công nghiệp, thực trạng của người lao động công nghiệp (thực chất là biểu hiện của
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mà cụ thể là quan hệ giữa kinh tế
và chính trị) và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (như là sự tác động qua lại
giữa các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng).
Trong các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước đối với việc phát
huy tính tích cực của người lao động công nghiệp thì thực trạng người lao động công nghiệp
có ảnh hưởng lớn nhất. Chính người lao động công nghiệp quyết định mục đích, phương thức
tác động của nhà nước đến việc phát huy tính tích cực của họ. Mối quan hệ giữa nhà nước và
người lao động công nghiệp về cơ bản là mối quan hệ giữa một thiết chế quan trọng nhất của
kiến trúc thượng tầng và một bộ phận quan trọng của LLSX là người lao động. Sự tác động
của nhà nước đối với người lao động công nghiệp phải thông qua cơ sở hạ tầng - các quan
hệ sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến tính tích cực của người lao động công nghiệp
Đi từ đặc điểm của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay, tác giả khái quát
các vấn đề nảy sinh đối với người lao động công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa: Đội
ngũ lao động công nghiệp có quy mô ngày càng lớn, tuy nhiên trình độ tay nghề thấp, hiện
tượng đình công có nhiều diễn biến phức tạp. Phân hóa khá rõ về điều kiện sống và thu nhập
của người lao động công nghiệp. Người lao động công nghiệp là LLSX chủ yếu của xã hội

nhưng đa phần có cuộc sống khó khăn. Các tổ chức bảo vệ người lao động công nghiệp còn
yếu kém và lúng túng trong quá trình hoạt động. Trong đội ngũ lao động công nghiệp đã xuất
hiện những biểu hiện tiêu cực như tâm lý “viên chức”, tuyệt đối hóa chuyên môn, thờ ơ với
chính trị Tất cả những hạn chế nêu trên sẽ làm suy giảm tính tích cực xã hội của người lao
động công nghiệp.
Nhân tố chủ quan là năng lực hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Nhân tố
này trực tiếp quyết định vai trò của nhà nước trong việc khai thác các điều kiện khách quan
để phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp. Nói đến nhân tố chủ quan của nhà
nước là nói tới năng lực đề ra chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng luật pháp bảo
vệ người lao động công nghiệp, hiệu quả quản lý điều hành như cơ cấu tổ chức và hoạt động
của nhà nước, trình độ năng lực và các phẩm chất cần thiết của đội ngũ cán bộ công chức.
Trong những năm gần đây, Nhà nước luôn đổi mới cơ chế chính sách, đổi mới tổ chức bộ
máy, nâng cao hiệu lực của các cơ quan điều hành từ trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên Nhà
nước pháp quyền của ta chưa phát triển kịp so với đòi hỏi trong tính đồng bộ với KTTT. Đây
là biểu hiện của sự bất cập của kiến trúc thượng tầng đối với sự phát triển kinh tế. Chính vì
thế mà có rất nhiều vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh (quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, vi
phạm dân chủ ), tạo nên lực cản mà chính Nhà nước chưa và không thể tự giải quyết được
nếu không có sự điều chỉnh về thể chế, cơ chế.
2.2. Những thành tựu và hạn chế của nhà nước trong việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp Việt Nam hiện nay
Vai trò của Nhà nước trong việc tạo động lực cho người lao động công nghiệp thông
qua pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
Nhà nước ban hành hàng loạt các bộ luật liên quan đến công nhân lao động như: Luật
Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Công đoàn, Luật Đầu tư nước ngoài cùng các quy định,
quy chế, hướng dẫn… Đây chính là những đạo luật quan trọng nhằm thể chế hóa đường lối
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, trong đó có những quy định về lao động, việc làm, tiền
lương,… tạo ra hành lang pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ lao động công nghiệp và chăm
lo đến đời sống vật chất và tinh thần của họ. Tuy nhiên các quy định trong luật, đặc biệt là
luật Lao động cũng bộc lộ những thiếu xót, lực lượng thanh tra của nhà nước tại các doanh
nghiệp còn quá mỏng, đây là nguyên nhân của các hiện tượng vi phạm pháp luật, tai nạn lao

động, đình công … liên tục gia tăng.
Các chính sách của nhà nước trong phát triển công nghiệp và dịch vụ cùng với thể chế
KTTT định hướng XHCN được xây dựng và dần hoàn thiện, đã tạo điều kiện cho mọi thành
viên trong xã hội tham gia tích cực và bình đẳng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu của nhà nước trong thời gian qua đã phần nào cải
thiện đời sống của người lao động, phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên,
lương tối thiểu ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập: Lương tối thiểu còn thấp hơn các nước
trong khu vực, còn phân biệt và không công bằng giữa các loại hình doanh nghiệp, nhà nước
buông lỏng quản lý tiền lương trong khu vực doanh nghiệp.
Việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Bộ luật Lao động đã bước
đầu đạt kết quả tốt nhưng trong việc thực hiện còn nhiều thiếu xót, các doanh nghiệp ngoài
khu vực nhà nước thường chiếm dụng, nợ đọng bảo hiểm xã hội, chế tài nhà nước chưa đủ
mạnh để buộc người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động.
Chính sách xây dựng nhà ở cho công nhân, lao động đã có thu nhập thấp theo Quyết
định 66, 67/2009/QĐ-TT của Thủ tướng Chính phủ đã tạo điều kiện thuận lợi trong quy
hoạch, xây dựng, thu hút doanh nghiệp và nhà đầu tư xây dựng nhà ở cho người lao động ở
các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đã có 24 dự án được khởi công với tổng vốn đầu tư
khoảng 2.600 tỷ đồng, tổng diện tích sàn 753.000 m
2
, giải quyết chỗ ở cho khoảng 125.000
công nhân, lao động. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ còn chậm. Các chính sách của Nhà nước cũng chưa quan tâm nhiều đến vấn đề
này mà dường như khoán trắng cho các doanh nghiệp tự giải quyết.
Vai trò của nhà nước trong đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người lao động công
nghiệp
Dưới góc độ quản lý nhà nước, Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội đã ban hành
quy định nguyên tắc xây dựng chương trình khung dạy nghề và đã ban hành 108 bộ chương
trình dạy nghề trình độ trung cấp và cao đẳng nghề. Ngân sách nhà nước cho đào tạo nghề đã
được nâng lên. Năm 2008 tỷ lệ chi từ ngân sách cho đào tạo nghề đạt gần 7,5% trong tổng chi
từ ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Quy mô đào tạo nghề được mở rộng, chất lượng cũng

được nâng cao. Tuy nhiên định hướng đào tạo nghề của nhà nước còn hạn chế, cơ cấu đào tạo
nghề mất cân đối, tỷ lệ đào tạo nghề thấp hơn rất nhiều so với cao đẳng, đại học.
Vai trò của Nhà nước trong việc mở rộng quan hệ quốc tế tạo điều kiện cho người lao
động công nghiệp giao lưu trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm quản lý
Nhà nước thu hút vốn đầu tư, khoa học - công nghệ từ bên ngoài để mở rộng phát
triển sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao cuộc sống cho người lao động
công nghiệp. Người lao động công nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với người lao động công
nghiệp khu vực và thế giới, tiếp thu được những giá trị dân chủ, khoa học - công nghệ hiện
đại, trình độ, năng lực của họ từng bước được nâng lên, đội ngũ cán bộ cũng qua hội nhập
kinh tế mà trưởng thành và vững vàng hơn. Nhà nước tăng cường hoạt động xuất khẩu lao
động. Tuy nhiên, quản lý nhà nước còn hạn chế, việc xuất khẩu lao động chủ yếu mới là giải
quyết việc làm, chưa chú ý nâng cao chất lượng người lao động để đưa lại hiệu quả cao hơn.
2.3. Những vấn đề đặt ra về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp.
Những vấn đề đặt ra về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của
người lao động công nghiệp chính là những mâu thuẫn nổi lên từ thực tế đất nước. Nó đòi hỏi
phải được giải quyết để nhà nước có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ này. Nhiều vấn đề xã hội
nảy sinh đối với người lao động công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH, thể hiện sự biến đổi
của LLSX tất yếu dẫn đến những thay đổi trong QHSX, PTSX và kéo theo sự biến đổi của
kiến trúc thượng tầng. Đây cũng là biểu hiện của mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế
quyết định chính trị và chính trị tác động trở lại kinh tế.
Thứ nhất là mâu thuẫn giữa yêu cầu cấp thiết phải phát huy tính tích cực của người
lao động công nghiệp hiện nay với việc nhận thức vấn đề này chưa thực sự rõ ràng trong quá
trình phát triển KTTT
Biểu hiện của mâu thuẫn này là những cơ chế chính sách đã được ban hành chưa đúng
hoặc chưa phù hợp với người lao động công nghiệp hiện nay. Nguyên nhân là do nhận thức
về vai trò của người lao động công nghiệp chưa đúng mức, đặc biệt là trong điều kiện KTTT,
hàng loạt người lao động nông thôn lên làm việc ở các khu công nghiệp thì các cơ quan quản
lý nhà nước hầu như chưa chú ý đến hoàn cảnh đặc thù của họ, để họ tự bươn chải trong cơ
chế thị trường.

Điều này thể hiện ở những hạn chế trong luật Lao động, luật Công đoàn… trong việc
đảm bảo lợi ích cho người lao động công nghiệp.
Các chính sách xã hội đã được ban hành thường nặng về động viên, nhẹ về đảm bảo
các lợi ích xã hội của người lao động công nghiệp; nặng về khai thác khả năng và sự cống
hiến sức lao động hơn là bồi dưỡng, tái tạo sức lao động, dẫn đến đời sống của người lao
động công nghiệp còn nhiều khó khăn bức xúc.
Thứ hai là mâu thuẫn giữa chủ trương đường lối và các chính sách đã được ban hành
về người lao động công nghiệp với việc thực hiện chính sách ở các cơ sở kinh doanh
Biểu hiện của mâu thuẫn này là ở việc tổ chức, thực hiện chính sách đối với người
lao động công nghiệp. Chính sách đúng nhưng quản lý, thực hiện chưa tốt, chưa hiệu quả.
Thực tế cho thấy, chúng ta mở cửa tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp vào đầu tư mà chưa
có yêu cầu cụ thể với chủ doanh nghiệp về tiền lương, nhà ở, đảm bảo môi trường… Nhiều
doanh nghiệp trả tiền lương thấp, chậm đổi mới, để xảy ra đình công rồi mới tăng lương cho
người lao động công nghiệp. Những chế độ quy định về tiền lương công nhân, về lao động
vượt giờ, chế độ bảo hiểm… các doanh nghiệp vi phạm nhiều. Nhiều doanh nghiệp không
đảm bảo điều kiện an toàn lao động, bảo vệ môi trường mà không được xử lý kịp thời dẫn
đến tai nạn lao động nghiêm trọng, bệnh nghề nghiệp Thậm chí cơ quan tổ chức để giải
quyết tranh chấp giữa người sử dụng lao động và người lao động vẫn còn hình thức, không có
sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của người lao động
công nghiệp. Nhà nước chưa có quy định nghiêm ngặt doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có tổ
chức công đoàn hoạt động, không có cơ chế để bảo vệ cán bộ công đoàn cơ sở nên cán bộ
công đoàn bị chi phối bởi chủ doanh nghiệp, trả lương cho cán bộ công doàn vẫn là biện pháp
mang tính đối phó và không gắn với lợi ích của cán bộ công đoàn.
Thứ ba là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có những phương thức phong phú linh hoạt
để phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp với hiện trạng yếu kém của bộ máy
nhà nước hiện nay
Biểu hiện của mâu thuẫn này là những hạn chế trong bộ máy nhà nước, trong đội ngũ
công chức của nhà nước trong việc xử lý những vấn đề liên quan đến lợi ích của người lao
động công nghiệp. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, phân công trách nhiệm không rõ ràng. Bộ
phận cán bộ phê duyệt kế hoạch, quy hoạch, giám sát, kiểm tra nhiều khi chưa thực sự đứng

về phía người lao động công nghiệp hoặc có thể đứng về phía người lao động công nghiệp
nhưng không có khả năng phát hiện và xử lý những thủ đoạn của người sử dụng lao động,
nhất là các chủ doanh nghiệp nước ngoài, khiến đời sống của người lao động không được
đảm bảo và không biết tìm chỗ dựa ở đâu. Đây là nguyên nhân cơ bản tạo ra các cuộc bãi
công, đình công, lãn công.
Những hạn chế trên chẳng những ảnh hưởng tới việc ban hành các chính sách để phát
huy tính tích cực xã hội của người lao động công nghiệp mà còn tạo ra những yếu kém trong
quản lý điều hành xử lý các vấn đề cụ thể liên quan trực tiếp đến người lao động công nghiệp,
ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần phấn đấu của họ.
Chương 3
Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước
đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp Việt nam

3.1. Quan điểm cơ bản về nâng cao vai trò của nhà nước trong việc phát huy tính
tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam
Quan điểm 1: Nhà nước cần nhận thức rõ việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp là một nhân tố cơ bản để đảm bảo cho sự nghiệp CNH, HĐH thành công
Trong điều kiện KTTT do yêu cầu thu hút đầu tư, khuyến khích sản xuất kinh doanh, chúng
ta chú ý tới vai trò của chủ doanh nghiệp mà chưa chú ý đúng mức đến vai trò của người lao động
công nghiệp, sợ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Do vậy phải coi người lao động công nghiệp là
một nhân tố cơ bản để đảm bảo cho sự nghiệp CNH, HĐH thành công. Vì vậy phải có sự đầu tư
đúng mức cho người lao động công nghiệp. Nhà nước và doanh nghiệp phải coi việc phát huy tính
tích cực của người lao động công nghiệp không phải chỉ vì lợi ích của người lao động công nghiệp
mà còn vì lợi ích của chính các doanh nghiệp và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Điều này làm cho
vị trí của người lao động công nghiệp trong sự nghiệp CNH, HĐH ngày càng được khẳng định.
Người lao động công nghiệp đã và đang là đội quân chủ lực, LLSX cơ bản, chủ yếu
có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề và ngày càng có vai trò to lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Sự lớn mạnh toàn diện của người lao động công nghiệp sẽ là
nhân tố bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tiến trình CNH,

HĐH.
Quan điểm 2: Nhà nước phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện để phát huy tính
tích cực của người lao động công nghiệp
Các giải pháp để phát huy tính tích cực xã hội của người lao động công nghiệp không
chỉ là các giải pháp về kinh tế mà còn là các giải pháp về chính trị, xã hội. Vai trò của nhà
nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp phải được thể hiện
trên mọi phương diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa giáo dục. Bởi vì yêu cầu đối với người
lao động công nghiệp ngày càng cao và toàn diện, hơn nữa xét trên nhiều phương diện, người
lao động công nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó tính đồng bộ và toàn diện của các giải
pháp là yêu cầu rất cơ bản. Tất nhiên chúng ta không cào bằng mọi giải pháp, các giải pháp
trọng yếu trước mắt là kết hợp giữa kinh tế và chính trị, giữa giáo dục và pháp lý, giữa khen
thưởng và xử phạt.
Quan điểm 3: Trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp, Nhà
nước phải gắn với quá trình khắc phục những hạn chế của họ
Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tính tích cực xã hội của người lao động công
nghiệp là thể lực, trí lực và các phẩm chất khác của họ. Người lao động công nghiệp mặc dù
là sản phẩm của quá trình CNH, HĐH nhưng đó là lực lượng lao động mới hình thành, phần
lớn xuất thân từ nông thôn. Họ chẳng những hạn chế về thể lực về trình độ văn hóa và tay
nghề mà còn hạn chế cả về ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức chính trị, chưa có tác phong công
nghiệp… Điều này ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát huy tính tích cực xã hội của họ. Vì
vậy quá trình phát huy tính tích cực xã hội của người lao động công nghiệp gắn liền với quá
trình khắc phục những hạn chế trên.
Quan điểm 4: Nhà nước phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, người sử dụng
lao động trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN, do vậy phải huy động mọi lực lượng trong
việc phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của người lao động công nghiệp Việt Nam.
Bằng công tác đoàn thể giáo dục, thuyết phục để cho người lao động công nghiệp tự giác
hơn, ý thức của người lao động công nghiệp sẽ được nâng cao hơn. Nhà nước đảm bảo quyền
lao động để người lao động công nghiệp phát huy vai trò chủ thể trong quá trình sản xuất.
Đường lối của Đảng chỉ trở thành hiện thực khi đường lối đó được chuyển thành hiến

pháp, pháp luật, các văn bản pháp quy, thành chế độ chính sách và sự hiện thực hóa tất cả các
văn bản đó trong hiện thực. Nhà nước cụ thể hóa quan điểm của Đảng bằng cách ban hành,
sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với người lao động công
nghiệp. Các cơ quan nhà nước, các cán bộ công chức nhà nước cũng là người góp phần tích
cực nhất vào việc cung cấp những tư liệu quan trọng để Đảng có thể xây dựng đường lối phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng đội ngũ công nhân công nghiệp tốt hơn. Sau đó tác giả phân
tích vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho hoạt động của Công đoàn, của đoàn
Thanh niên, của chủ doanh nghiệp trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự tác động của nhà nước trong việc
phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam
Trên thực tế có nhiều phương tiện để khai thác tính tích cực của con người, trong đó
các cơ chế, chính sách là phương tiện quan trọng nhất vì nó trực tiếp chuyển nhu cầu của con
người thành hành động đem lại lợi ích cho bản thân và xã hội. Cơ chế, chính sách đúng đắn
có tác dụng như chất xúc tác kích thích ở con người lòng nhiệt tình và nảy nở tài năng sáng
tạo. Chính sách đúng đắn là động lực đối với người lao động công nghiệp vì nó phản ánh và
giải quyết tốt những nhu cầu hợp lý của con người.
Nhà nước ban hành và thực hiện các chính sách kinh tế và chính sách xã hội đảm bảo
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động công nghiệp
Phát triển kinh tế là cơ sở, là phương tiện, là tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội. Chính sách xã hội được thực hiện tốt không chỉ là động lực để phát triển kinh tế, mà còn
là một trong những yếu tố quyết định sự ổn định và phát triển đất nước bền vững. Chính sách
xã hội nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động công nghiệp, là điều
kiện cơ bản để động viên sự sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của người lao động công
nghiệp.
Trước hết tác giả làm rõ mối quan hệ giữa chính sách phát triển công nghiệp và giải
quyết việc làm cho người lao động công nghiệp gắn với phát triển thị trường lao động. Hiện
nay thu nhập của người lao động công nghiệp còn thấp trong khi đó thì giá cả luôn biến động,
do vậy phải thường xuyên đổi mới chính sách tiền lương cho người lao động công nghiệp.
Cùng với chính sách tiền lương, thuế là chính sách nhà ở và hệ thống an sinh xã hội nhằm ổn

định cuộc sống cho người lao động công nghiệp.
Nhà nước xây dựng, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng người lao
động công nghiệp phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay
Theo tác giả, chính sách này góp phần quan trọng vào việc nâng cao trình độ văn hóa,
tay nghề, tăng cường tố chất vật chất và tinh thần cho người lao động công nghiệp, điều kiện
chủ yếu để phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp. Nhà nước mở rộng hệ
thống trường dạy nghề và yêu cầu các doanh nghiệp cùng cộng tác đào tạo, kết hợp đào tạo và sử
dụng người lao động công nghiệp để phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ lao
động công nghiệp.
Nhà nước tăng cường hơn nữa việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, trong việc
xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật
Nhà nước nghiên cứu, điều chỉnh chiến lược tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hóa và
đô thị hóa để hướng tăng trưởng theo bề rộng, chuyển các khu công nghiệp và phát triển các
đô thị vệ tinh về nông thôn để tận dụng lao động tại chỗ và giảm lao động nhập cư về các
thành phố lớn.
Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra giám sát thực hiện chính sách, pháp luật nhất
là pháp luật về lao động, xử lý nghiêm các chủ doanh nghiệp vi phạm lợi ích hợp pháp của
người lao động công nghiệp, kiểm tra việc phối hợp của các doanh nghiệp với các cơ quan
chức năng trong việc tuyên truyền pháp luật lao động và việc chấp hành nội quy, quy định
pháp luật của người lao động công nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hoá - xã
hội nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần cho người lao động công nghiệp.
Sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng mềm dẻo để liềm chế lạm phát giảm
thiểu khó khăn cho người lao động công nghiệp.
Xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
nhà nước
Để có thể hoàn thành tốt vai trò của mình nhà nước cần phải được củng cố và tăng
cường thông qua việc xây dựng nhà nước pháp quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, xây
dựng bộ máy hành pháp, tư pháp hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Xây dựng các cơ chế bảo vệ lợi ích của người lao động và khuyến khích tinh thần

sáng tạo
Phát huy vai trò tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh nghiệp
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công đoàn cơ sở
Xây dựng cơ chế hoạt động ba bên giữa đại diện người lao động, đại diện người sử
dụng lao động và cơ quan chính quyền (nhà nước)
Hệ thống chính trị, đặc biệt là Nhà nước và Công đoàn quan tâm tạo điều kiện để phát
động phong trào thi đua lao động giỏi, phấn đấu đạt danh hiệu công nhân giỏi, lao động sáng
tạo trong đội ngũ lao động công nghiệp.

KẾT LUẬN
1. Vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp ở Việt nam hiện nay là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn rất cấp thiết nhằm
góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển KTTT và hội nhập quốc tế.
2. Tính tích cực của người lao động công nghiệp Việt Nam tích hợp tính tính tích cực
của người lao động nói chung đồng thời phản ánh thuộc tính lao động sáng tạo, kỷ luật lao
động cao, trình độ kỹ thuật tốt và tinh thần đoàn kết, hợp tác trong sản xuất của người lao
động công nghiệp nói riêng. Phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp là một
quá trình không ngừng phát hiện, bồi dưỡng, kích thích phát triển, định hướng và sử dụng có
hiệu quả toàn bộ những tố chất vật chất, tinh thần đặc trưng mang tính tiềm năng của người
lao động công nghiệp nhằm tạo động lực mạnh mẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp.
3. Nhà nước có vai trò to lớn đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp. Vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp phụ thuộc vào các điều kiện khách quan cũng như nhân tố chủ quan. Trong các
nhân tố khách quan ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực
của người lao động công nghiệp thì bản thân người lao động công nghiệp là nhân tố quyết
định nhất. Cùng với đẩy mạnh công nghiệp hóa là việc hình thành các vùng trọng điểm kinh
tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, quy mô lao động công nghiệp tăng không ngừng và
chất lượng cũng ngày càng nâng cao. Mặc dù có sự biến động trong cơ cấu, đang có sự phân
tầng giàu nghèo nhưng nhìn chung đội ngũ lao động công nghiệp nước ta vẫn là LLSX tiên

tiến nhất trong xã hội, có mặt trong mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, trên mọi lĩnh vực,
mọi địa bàn của đất nước và đang nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân. Thực tế chỉ ra rằng không có sự lớn mạnh đó thì sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước không thể thành công. Tuy nhiên, trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, bên cạnh
những mặt mạnh của người lao động công nghiệp, cũng bộc lộ nhiều yếu kém như: tay nghề
công nhân thấp, thiếu cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật … Cùng với những yếu kém
bất cập trên, một số vấn đề bức xúc được đặt ra: Việc làm, thu nhập, đời sống… của người
lao động công nghiệp. Những xung đột trong quan hệ lao động chưa được giải quyết thấu
đáo, ảnh hưởng tới vị thế, lòng nhiệt tình, tính tích cực của người lao động công nghiệp. Hiện
tượng đình công, lãn công trong những năm qua là dấu hiệu người lao động không tha thiết
với công việc nữa, điều này gây thiệt hại cho người lao động, cho doanh nghiệp và nhà nước.
Động lực thực sự của phát triển kinh tế - xã hội quy đến cùng là do nhu cầu, lợi ích, đó là cái
thúc đẩy con người hoạt động. Chính điều đó đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm giải quyết
những vấn đề bức xúc trước mắt và có cả chiến lược lâu dài để xây dựng đội ngũ lao động
công nghiệp.
4. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước Việt Nam đã có thay đổi nhất định trong việc giải
quyết vấn đề lợi ích và quan hệ lợi ích theo nguyên tắc công bằng xã hội, một đảm bảo quan
trọng để xã hội có sức sống thực tế, lôi cuốn đông đảo mọi người có thái độ tích cực và chủ
động trong xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên việc phát huy tính tích cực của người lao động
công nghiệp còn nhiều hạn chế, bất cập. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sự tác động của nhà
nước trong việc phát huy tính tích cực của người lao động công nghiệp, cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp. Trong đó, Nhà nước cần có một chiến lược và quy hoạch đào tạo, nâng
cao trình độ học vấn, tay nghề cho lao động công nghiệp gắn với chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. Công đoàn dựa vào Nhà nước để phát huy vai trò
của mình. Tổ chức công đoàn cần làm cho người lao động công nghiệp thấy rõ yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và sự đòi hỏi bức xúc về sản xuất, kinh doanh trong cơ chế
thị trường hiện nay phải nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, từ đó mà tự giác phấn đấu học
tập rèn luyện tay nghề, qua tổ chức công đoàn để phát huy quyền dân chủ của mình, một
động lực phát triển sản xuất, phát triển các doanh nghiệp. Công đoàn cùng với Nhà nước đẩy
mạnh tuyên truyền sâu rộng chính sách, pháp luật cho cả người sử dụng lao động và người

lao động công nghiệp; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao
động trong các loại hình doanh nghiệp và cùng với người sử dụng lao động giải quyết tốt các
yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của người lao động công nghiệp, xây dựng mối quan hệ hài
hoà giữa người sử dụng lao động và người lao động công nghiệp, coi trọng lợi ích của cả hai
phía. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước trong việc
tạo lập cơ chế, hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chính sách giáo dục và đào
tạo, chính sách kinh tế và xã hội, pháp luật
5. Vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy tính tích cực của người lao động công
nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang là một vấn đề khoa học có ý nghĩa quan trọng góp phần
luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn để khai thác nguồn lực con người trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vấn đề mà tác giả nghiên cứu
là vấn đề rộng, khó và phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Bước đầu tiếp cận ở một góc độ nhỏ của vấn đề với phạm vi và đối tượng nghiên cứu rất hẹp
nên luận án không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong được sự giúp đỡ của các nhà khoa
học.


References
1. Trần Thị Anh (2005), Nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
2. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của
Đảng, NXBCTQG, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu nghị quyết đại hội X
của Đảng, NXBCTQG, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Đảng
Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, NXB Lao động,
Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (2003), “Chính sách xã hội - những định hướng và chuẩn mực trong
phát triển”, Thông tin chuyên đề (2), tr. 3 - 8, Viện thông tin khoa học, Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
6. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, NXBCTQG, Hà Nội.
7. Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn, Nguyễn Viết Thông (Đồng chủ biên) (2010), Một số vấn
đề phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện KTTT đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội.
8. Liễu Khả Bạch (Chủ biên) (2008), Vị trí và vai trò của giai cấp công nhân đương đại,
NXB Lao động, Hà Nội.
9. Đặng Tiểu Bình (1995), Bàn về cải cách và mở cửa của Trung Quốc, NXBCTQG, Hà
Nội.
10. Nguyễn Tiến Bình (1990), Tự giác hoá quá trình hình thành đạo đức cộng sản trong
Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án PTS Khoa học quân sự, Học viện
Chính trị Quân sự, Hà Nội.
11. Bùi Đình Bôn (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt nam hiện nay,
NXBCTQG, Hà Nội.
12. Bộ giáo dục đào tạo (1996), Triết học tập 1- dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao
học không thuộc chuyên ngành triết học, NXB CTQG, Hà Nội.
13. Bộ giáo dục và đào tạo - Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương (2004), Tài liệu tham khảo
dùng cho giảng viên Mác Lênin Tư Tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học cao đẳng,
Hà Nội.
14. Bộ kế hoạch và đầu tư (2006), Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển các khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam.
15. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2007), Bộ luật Lao động được sửa đổi, bổ sung
năm 2006, NXB Lao động - Xã hội.
16. Quang Chính, Đặng Tiến (2008), “Phải hài hoà lợi ích giữa doanh nghiệp và người lao
động”, Báo Lao động (15), tr. 4.
17. Quang Chính, Đặng Tiến (2008), “Không để tồn tại các lý do dẫn đến đình công”, Báo
Lao động (32), tr. 4.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (Đồng chủ biên) (2002),
CNH, HĐH ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn, NXBCTQG, Hà Nội.

19. Trần Văn Chử (2007), “Đời sống vật chất và tinh thần của công nhân trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất”, Tạp chí Lý luận chính trị (9), tr. 53 - 55.
20. Nguyễn Sinh Cúc (2008), “Tổng quan kinh tế - xã hội 2007”, Tạp chí Lý luận chính trị (1), tr.
31- 35.
21. Hồ Anh Dũng (2002), Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay, NXB Khoa học Xã hội.
22. Nguyễn Hữu Dũng (2007), “Phát triển khu công nghiệp với vấn đề lao động việc làm ở
Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị (6), tr. 33 - 38.
23. Nguyễn Tấn Dũng (2011), “Nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011”, Báo Nhân dân (20213), tr. 2.
24. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Khoa quốc tế
học (2005), Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, NXB Thế giới.
25. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, NXB
CTQG, Hà Nội.
26. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VII, NXB
CTQG, Hà Nội.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khoá VII,
NXBCTQG, Hà Hội.
28. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, NXB
CTQG, Hà Nội.
29. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, NXB
CTQG, Hà Nội.
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện hội nghị trung ương III khoá IX, NXB
CTQG, Hà Nội.
31. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung
ương khoá IX, NXB CTQG, Hà Nội.
32. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần X, NXB
CTQG, Hà Nội.
33. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung
ương khoá X, NXB CTQG, Hà Nội.

34. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần XI, NXB
CTQG - Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng cộng sản Việt Nam, Thành ủy Hải Phòng (2005), Kỷ yếu kết quả chương trình
nghiên cứu khoa học phục vụ biên soạn văn kiện đại hội XIII Đảng bộ Thành phố,
NXB Hải Phòng.
36. Nguyễn Khoa Điềm (Chỉ đạo nội dung) và các cộng sự (2006), Việt Nam 20 năm đổi
mới, NXBCTQG, Hà Nội.
37. Dương Minh Đức (2008), “Một ngày 3 vụ đình công về lương thưởng”, Báo Lao động
(7), tr. 4.
38. Dương Minh Đức (2008), “Lương thưởng chưa xứng với công lao động”, Báo Lao động
(11), tr. 4.
39. Lê Thanh Hà (2009), Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp Việt Nam trong quá trình
công nghiệp hóa đất nước và vai trò của công đoàn, NXB Lao động, Hà Nội.
40. Việt Hà (2008), “Phát triển nguồn lực lao động Hải Phòng - xuất hiện nguy cơ mất cân
đối”, Báo An ninh Hải Phòng (1538), tr. 4.
41. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH,
NXB CTQG, Hà Nội.
42. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hoá và xây dựng con
người trong thời kỳ CNH, HĐH, NXBCTQG, Hà Nội .
43. Xuân Hoa (2010), “Đình công tăng cao: Có phải do luật”, Báo Pháp luật (119-122),
tr.16.
44. Nguyễn Văn Hoà (2007), Phát huy tính tích cực xã hội của đội ngũ giảng viên trong các
trường sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện chính trị quân sự, Hà Nội.
45. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Hỏi đáp về triết học Mác Lênin,
NXBCTQG, Hà Nội.
46. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện thông tin khoa học (2005), Thông tin tư
liệu (2).
47. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm thông tin khoa học
(2009), Thông tin tư liệu chuyên đề: Phát triển nguồn nhân lực- thách thức của thời kỳ

hội nhập kinh tế quốc tế (4).
48. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Thông tin những vấn đề
lý luận (1).
49. Đàm Hồng (2010), “Thuộc tính bản chất của quan hệ lao động XHCN trong điều kiện
kinh tế thị trường”, Thông tin những vấn đề lý luận (1), tr.1 - 10, Trung tâm thông tin
Khoa học Xã hội, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
50. Lê Thị Hồng (2001), Vai trò của định hướng XHCN của nhà nước đối với sự phát triển
kinh tế Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
51. Mã Hồng (Chủ biên) (1995), Kinh tế thị trường XHCN, NXB CTQG, Hà Nội.
52. Nguyễn Văn Huyên (2007), “Suy nghĩ về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công
nhân”, Tạp chí Lý luận chính trị (11), tr.72-76.
53. Nguyễn Đức Khang (2000), “Dân chủ ở cơ sở - động lực phát triển nhân tố con người”,
Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị (22), tr. 53 - 56.

54. Nguyễn Linh Khiếu(1996), Lợi ích với tư cách là động lực của sự phát triển xã hội,
Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
55. Vũ Trọng Lâm (Chủ biên) (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam, quan điểm và giải pháp
phát triển, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
56. V.I. Lênin (1895), “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy”, V.I.Lênin Toàn tập Tập 1,
NXB Tiến bộ Matxcơva, 1978, tr. 429 - 672.
57. V.I. Lênin (1915), “Khoa học lô - gic”, V.I.Lênin Toàn tập Tập 29, NXB Tiến bộ
Matxcơva, 1981, tr. 93 - 258.
58. V.I. Lênin (1918), “Một bài học gian khổ nhưng cần thiết”, V.I.Lênin Toàn tập Tập 35,
NXB Tiến bộ Matxcơva, 1976, tr. 478 - 483.
59. V.I. Lênin (1919), “Đại hội I toàn Nga của ngành giáo dục ngoài nhà trường”, V.I.Lênin
Toàn tập Tập 38, NXBCTQG, Hà Nội, 2006, tr. 391 - 446.
60. Võ Đại Lược (Chủ biên) (1993), Vai trò của nhà nước trong kinh tế - kinh nghiệm của
Nhật Bản, ASEAN và Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội - Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội.
61. Cao Văn Lượng (Chủ biên) (2006), CNH, HĐH và sự phát triển giai cấp công nhân,

NXBCTQG, Hà Nội.
62. C. Mác (1847), “Sự khốn cùng của triết học”, C.Mác và Ph.Ăngghen Tuyển tập Tập 1,
NXB Sự thật, Hà Nội, 1980.
63. C. Mác (1844), “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen - Lời nói đầu”,
C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 1, NXB CTQG, Sự thật, Hà Nội, 2004, tr. 569 -
590.
64. C. Mác (1843), “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê ghen”, C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 1, NXB CTQG, Sự thật, Hà Nội, 2004, tr.307 - 506.
65. C. Mác và Ph. Ăngghen (1844), “Gia đình thần thánh hay sự phê phán có tính chất phê
phán- chống Bruno- Bauơ và đồng bọn”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 2,
NXBCTQG, Hà Nội, 1995, tr. 13 - 316.
66. C. Mác (1845), “Luận cương về Phoi ơ bắc”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 3,
NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 9 - 12.
67. C. Mác và Ph. Ăngghen (1848), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 4, NXBCTQG, Sự thật, Hà Nội 2004, tr. 591 - 646.
68. C. Mác (1856), “Diễn văn đọc tại buổi lễ kỷ niệm báo “The peoples” ở Luân Đôn ngày
14 tháng tư 1856”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 12, NXBCTQG Hà Nội, Sự
thật, 2004, tr. 9 - 11.
69. C. Mác và Ph. Ăngghen (1859), “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác và
Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 13, NXBCTQG, Hà Nội, 1993, tr.13 - 225.
70. C. Mác và Ph. Ăngghen (1869), “Bài ghi lời phát biểu của Mác về giáo dục phổ thông
trong xã hội hiện nay”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 16, NXBCTQG, Hà Nội,
1994, tr. 771 - 774.
71. C. Mác và Ph. Ăngghen, Ph. Ăngghen (1894), “Chống Đuyrinh”, C.Mác và Ph.Ăngghen
Toàn tập Tập 20, NXB CTQG, Hà Nội, 2004, tr. 15 - 450.
72. C. Mác và Ph. Ăng ghen (1886), “Ph. Ăngghen. Lút vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung
của triết học cổ điển Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 21, NXBCTQG, Hà
Nội, 1995, tr. 387 - 451.
73. C. Mác và Ph. Ăngghen (1844), “Bản thảo kinh tế triết học 1844 - Lao động bị tha hóa”,
C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập Tập 42, NXBCTQG, Hà Nội, 2000, tr. 65 - 250.

74. Đỗ Hoài Nam (Chủ biên) (2003), Một số vấn đề về CNH, HĐH ở Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội .
75. Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược (Đồng chủ biên) (2005), Một số vấn đề phát triển kinh tế
của Việt Nam hiện nay, NXB Thế giới.
76. Nguyễn Văn Nam (Chủ biên) (2006), Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB CTQG, Hà Nội.
77. Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp, NXBCTQG,
Hà Nội.
78. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (2005), Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
79. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo cáo về
tình hình phát triển thế giới 1997, NXB CTQG, Hà Nội.
80. Ngân hàng thế giới (2002), Toàn cầu hoá, tăng trưởng và nghèo đói, NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
81. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (Đồng chủ biên) (2001), 55 năm xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB CTQG, Hà Nội.
82. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Yểu (Đồng chủ biên) (2006), Xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, Hà Nội.
83. Dương Xuân Ngọc (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Xu hướng biến đổi giai cấp công nhân
Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Tổng quan khoa học đề tài
cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
84. Linh Nguyên (2008), “Xây dựng đời sống văn hoá tinh thần cho công nhân lao động”,
Báo Lao động (33), tr. 4.
85. Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên) (2010), Xây dựng và phát triển đời sống văn hóa của giai
cấp công nhân Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội
86. Lưu Bình Nhưỡng (2009), “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực và trách nhiệm của
nhà nước trong lĩnh vực đào tạo nghề”, Thông tin tư liệu chuyên đề (4), tr.38 - 46,
Trung tâm thông tin khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.

87. Nguyễn Văn Niên (1996), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Một số vấn đề về
lý luận và thực tiễn. NXB CTQG, Hà Nội.
88. Nguyễn An Ninh (2008), Về xu hướng công nhân hoá ở nước ta hiện nay, NXBCTQG,
Hà Nội.
89. Nguyễn Đình Phan (Chủ biên) (1997), Kinh tế và quản lý công nghiệp, NXB Giáo dục
90. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên) (2008), Lịch sử chính phủ Việt Nam, tập 3, NXB
CTQG, Hà Nội.
91. Thang Văn Phúc (Chủ biên)(2001), Cải cách hành chính nhà nước. Thực trạng, nguyên
nhân và giải pháp, NXBCTQG, Hà Nội .
92. Thang Văn Phúc (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Tạp chí cộng sản (9), tr. 12 -
14.
93. Phạm Ngọc Quang (2004), Kiến trúc thượng tầng trong nền kinh tế tri thức, Tài liệu
tham khảo dùng cho giảng viên Mác Lê nin Tư tưởng Hồ Chí Minh các trường Đại học
và Cao đẳng.
94. Phạm Ngọc Quang (2009), “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản (789), tr.28 - 32.
95. Trần Hồng Quân (1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 1996 - 2000
và định hướng đến năm 2020 phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Tài liệu phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Hà Nội.
96. Lê Minh Quân (2003), Xây dựng nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, NXB CTQG, Hà Nội.
97. Lê Minh Quân (Chủ biên) (2009), Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện
nay, NXB CTQG, Hà Nội.
98. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB CTQG, Hà Nội.
99. Nguyễn Duy Quý (2007), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội.
100. Lê Văn Sang (Chủ biên) (1994), Các mô hình kinh tế thị trường trên thế giới, NXB
Thống kê, Hà Nội .

101. Dương Văn Sao (Chủ biên) (2003), Dự báo xu thế biến đổi và các giải pháp xây dựng
giai cấp công nhân trong những năm đầu thế kỷ XXI, Đề tài khoa học cấp bộ.
102. Trương Thị Minh Sâm (2003) (Chủ biên), Những luận cứ khoa học của việc phát triển
nguồn nhân lực công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, NXB Khoa học
Xã hội.
103. Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, NXB
CTQG, Hà Nội.
104. Văn Tạo (2001), Công nhân trí thức - nhân tố mới của giai cấp công nhân hiện đại. Xu
thế biến động của giai cấp công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Lao
động, Hà Nội.
105. Văn Tạo (2008), Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân - kinh tế tri thức và công nhân trí
thức, NXB CTQG, Hà Nội.
106. Đan Tâm (2006), “Công đoàn với lao động nhập cư”, Tạp chí Lao động và công đoàn
(364), tr. 4.
107. Nguyễn Đình Tấn (2010), “Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội (3), tr. 3 - 8, Viện thông tin khoa học xã hội, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam.
108. Nguyễn Thị Thanh (2008), “Việt Nam 2007: Một số chính sách xã hội nổi bật”, Tạp chí
Lý luận chính trị (1), tr. 42 - 45.
109. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình phát triển
giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Tạp chí Lý luận chính trị (2), tr.30-
35.
110. Nguyễn Đăng Thành (2007), Góp phần xây dựng công nhân Việt Nam từ thực trạng
công nhân thành phố Hồ Chí Minh, NXB CTQG, Hà Nội.
111. Nguyễn Đăng Thành (2007), “Từ thực tế công nhân thành phố Hồ Chí Minh suy nghĩ về
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị (12), tr. 20 - 25.
112. Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay,
NXBCTQG, Hà Nội.
113. Hồ Văn Thông (Chủ biên) (2000), Kinh nghiệm khai thác các nguồn lực trong CNH,
HĐH của Nhật Bản, NXBCTQG, Hà Nội.

114. Nguyễn Thị Thơm (Chủ biên) (2006), Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải
pháp, NXBCTQG, Hà Nội.
115. Trịnh Trí Thức (1994), Một số nhân tố khách quan tác động đến tính tích cực xã hội của sinh
viên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
116. Trần Hữu Tiến (2007), “Một số quan điểm về xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công
nhân giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr. 69 - 74.
117. Trần Hữu Tiến (2007), “Lý luận Mác - Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp với vấn
đề đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị (9), tr. 61- 66.
118. Tổng cục thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, NXB Thống kê, Hà Nội
119. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2004), Một số vấn đề cần biết về toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội.
120. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2011), Báo cáo kết quả công tác công đoàn 6
tháng đầu năm, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm, Hà Nội tháng 7.
121. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và Công đoàn (2011), Báo cáo về
nghiên cứu tiền lương tối thiểu và mức sống tối thiểu của người lao động khu vực
doanh nghiệp, Hà Nội ngày 22 tháng 6.
122. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và Công đoàn (2009), Công đoàn
Việt Nam, Truyền thống hiện tại và phát triển, NXB Lao động, Hà Nội.
123. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2010), Xây dựng quan hệ lao động thúc đẩy trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp, vai trò công đoàn Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
124. Đặng Ngọc Tùng (2008) (Chủ biên), Xây dựng phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Lao động, Hà
Nội.
125. Đặng Ngọc Tùng (2010) (Chủ biên), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020, NXB Lao động, Hà Nội.
126. Chí Tường - Trọng Đạt (2009), “Công dân mới ở Bình Dương”, Báo Nhân dân (19248),
tr. 3.
127. Đào Trí úc (Chủ biên) (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, NXB
CTQG, Hà Nội.

128. Nguyễn Khánh Vân (2000), Xu hướng biến đổi giai cấp công nhân thành phố Hồ Chí
Minh, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
129. Viện Chiến lược và phát triển (2002), Một số vấn đề về lý luận, phương pháp luận,
phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế Việt nam, NXB
CTQG, Hà Nội.
130. Viện Công nhân và Công đoàn (2001), Xu hướng biến động của giai cấp công nhân Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Lao động, Hà Nội.
131. Viện Công nhân và Công đoàn (2002), Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Lao động, Hà Nội.
132. Viện Công nhân và Công đoàn (2003), Nâng cao hiệu quả công đoàn trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, NXB Lao động, Hà Nội.
133. Viện Công nhân và Công đoàn (2004), Một số vấn đề về xây dựng, phát huy vai trò giai
cấp công nhân Việt nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, NXB Lao động, Hà Nội.
134. Viện Công nhân và Công đoàn, Viện Friedrich Ebert (2005), Những tác động tới việc
làm, đời sống của người lao động và các giải pháp hành động công đoàn khi Việt Nam
gia nhập WTO , NXB Lao động, Hà Nội.
135. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (1960), Lịch sử triết học - Triết học thời kỳ tiền tư bản
chủ nghĩa, NXB Sự thật, Hà Nội.
136. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (1962), Lịch sử triết học - Triết học Mác, Sự phát sinh
và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, NXB Sự
thật, Hà Nội.
137. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Trung tâm thông tin tư liệu (2001), Kinh
tế tri thức - Vấn đề và giải pháp - Kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát
triển, NXB Thống kê, Hà Nội.
138. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện kinh tế Việt Nam, Trung tâm phân tích và dự báo
(2007), Kinh tế Việt Nam 2006, Động thái và triển vọng, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
139. Nguyễn Cửu Việt (1993), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Khoa
Luật, Đại học Tổng hợp Hà Nội.
140. Đỗ Thị Vinh (Lược dịch và giới thiệu) (2009), “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của

Xingapo”, Thông tin tư liệu chuyên đề (4), tr.80 - 84, Trung tâm thông tin khoa học, Học
viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
141. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên) (1991), Lịch sử triết học tập I, NXB Tư tưởng văn hoá.
142. Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên) (1992), Lịch sử triết học tập II, NXB Tư tưởng văn hoá.
143. Vụ Mác Lênin, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp (1986), Giới thiệu tác phẩm của
Lênin “Nhà nước và cách mạng”, NXB Sự thật, Hà Nội.
144. Vũ Thiện Vương (1998), Vấn đề con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong
thời kỳ CNH, HĐH, NXB CTQG, Hà Nội.
145. Nguyễn Thị Phi Yến (2000), Vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con
người trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.



×