Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Vai trò của gia đình đối với đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.96 KB, 17 trang )

Vai trò của gia đình đối với đời sống tình
cảm của học sinh trung học phổ thông

Phan Thị Thu Hà

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. Xã hội học: 60 31 30
Nghd: PGS.TS. Hoàng Bá Thịnh
Năm bảo vệ: 2014

Keywords: Xã hội học; Trường trung học phổ thông; Gia đình
Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình và đặc biệt là các bậc cha mẹ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
sự hình thành và phát triển toàn diện của con cái. Mặc dù vậy, không phải lúc nào, ở
đâu, gia đình và cha mẹ cũng nhận thức và thực hiện tốt được các chức năng này.
Trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện các chức năng của gia đình đối với con cái
chịu sự tác động khá lớn bởi nhiều yếu tố bên ngoài. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái đứng trước khá nhiều thách thức. Do bận rộn với hoạt động kinh tế để mưu sinh,
nhiều cha mẹ không có thời gian hoặc dành rất ít thời gian để quan tâm đến những
vấn đề của con. Một số người quá chú trọng đến việc chu cấp đầy đủ vật chất cho con
mà không để ý đến những tâm tư, tình cảm của chúng. Giữa cha mẹ và con cái ngày
càng tồn tại khoảng cách vô hình. Nhiều đứa con cảm thấy cô đơn ngay giữa ngôi nhà
của mình vì không có người để giãi bày tâm sự, để định hướng. Đó cũng chính là một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến một số vấn đề tiêu cực xảy ra đối với con cái,
đặc biệt ở lứa tuổi vị thành niên trong thời gian gần đây như: Quan hệ tình dục sớm,
nạo phá thai… Theo thống kê của Hội Kế hoạch hóa gia đình thì Việt Nam là một
trong ba nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới (1,2-1,6 triệu ca mỗi năm), trong đó
20% thuộc lứa tuổi vị thành niên[56]. Ngoài ra, hiện tượng nhiều vị thành niên tự tử
vì những lý do vụn vặt trong thời gian trở lại đây cũng rất đáng lo ngại. Tình trạng


trên không chỉ gây ra sự tốn kém về kinh tế mà còn đem lại những hậu quả nặng nề về
mặt sức khỏe, tinh thần cho trẻ vị thành niên. Nếu những lúc cảm thấy bế tắc, các em
được người lớn lắng nghe và chỉ dẫn chu đáo, sẽ hạn chế được hành động sai lầm. Có
thể thấy, vị thành niên là một lực lượng to lớn và nòng cốt của xã hội, là nguồn nhân
lực chủ yếu của đất nước trong tương lai. Trong mỗi gia đình, vị thành niên có vai trò
quan trọng là lực lượng lao động sẽ thay thế cha mẹ để bảo đảm đời sống cho các
thành viên trong gia đình và sự tồn tại, phát triển của mỗi gia đình, mỗi dòng tộc. Vì
vậy, nếu trẻ vị thành niên được bắt đầu cuộc sống một cách tốt đẹp, họ có thể có được
một sức sống và một ý chí để học tập, để lao động. Do đó, vai trò của gia đình với tư
cách là chỗ dựa, nâng đỡ con cái ở tuổi vị thành niên trong đời sống tình cảm là rất
quan trọng. Vì những lý do trên, tôi thực hiện đề tài nghiên cứu “Vai trò của gia đình
đối với đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông” (Nghiên cứu trường
hợp tại trường Trung học phổ thông Thường Tín, huyện Thường Tín và trường
Trung học phổ thông Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội) nhằm góp phần giúp gia đình
thực sự trở thành chỗ dựa tình cảm bền vững cho con cái nói chung và tuổi vị thành
niên nói riêng.
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Luận văn góp phần bổ sung cho những nghiên cứu về các mối quan hệ trong
gia đình, đặc biệt là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết quả nghiên cứu, ta có thể đánh giá được gia đình hiện nay đang
đóng vai trò như thế nào đối với đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông,
sự gắn kết giữa cha mẹ và con cái trong trường hợp này diễn ra như thế nào. Kết quả
nghiên cứu là tài liệu có giá trị tham khảo cho giảng dạy xã hội học gia đình, xã hội
học giáo dục, cũng như các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục đưa ra biện pháp cải thiện
tình hình thực tế.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Các chức năng của gia đình là một trong những chủ đề thu hút được sự quan

tâm của nhiều nhà nghiên cứu khoa học. Trong đó, chức năng giáo dục nhận được sự
chú ý từ các nghiên cứu hơn cả. Tác giả Nguyễn Linh Khiếu đề cập đến mục tiêu giáo
dục thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay[20]. Tác giả cho rằng, quan niệm giáo dục của
gia đình chưa thoát khỏi quan niệm truyền thống là gia giáo nhưng trong giai đoạn
hiện nay, việc giáo dục con cái nên hướng tới xây dựng con người phát triển toàn
diện, thống nhất giữa mặt tự nhiên và xã hội trong bản thân mỗi con người. Ngoài ra,
ông nhấn mạnh đến vấn đề giáo dục giới tính và giáo dục tình dục cho thế hệ trẻ trong
gia đình vẫn còn ít được quan tâm [20]. Theo Nguyễn Linh Khiếu giáo dục sức khỏe
sinh sản vị thành niên là một bộ phận của giáo dục gia đình nhưng ít được đề cập đến
[20, tr.443]. Bởi vì, nhiều người vẫn có quan niệm giáo dục sức khỏe sinh sản vị
thành niên là “vẽ đường cho hươu chạy”. Nghiên cứu của Nghiêm Sỹ Liêm “Vai trò
của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” đã đưa ra thực trạng và
những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ hiện nay. Thông qua
kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của gia đình đối với trẻ em [23]. Nghiên cứu của Đoàn Thị Thanh Huyền
tìm hiểu khía cạnh giáo dục đạo đức cho con cái trong các gia đình nông thôn hiện
nay. Tác giả đề cập đến thực trạng đạo đức của trẻ em, việc giáo dục đạo đức cho con
cái trong các gia đình nông thôn thể hiện ở các nội dung, phương pháp, thời gian dành
cho giáo dục, những khó khăn trong việc giáo dục con cái [18].Tác giả Phạm Thanh
Vân đã phân tích quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em ở Việt Nam và chỉ ra
quan điểm giáo dục không đúng đắn thường dẫn đến xung đột giữa phương pháp giáo
dục của gia đình với nhà trường, hoặc sự đối lập trong cách giáo dục giữa cha và mẹ,
hoặc sử dụng phương pháp giáo dục trẻ bằng việc đánh đập và hành hạ [49]. Nguyễn
Đức Mạnh cũng chỉ ra quy tắc đánh giá và cư xử theo những chuẩn mực phổ quát
trong giáo dục con cái. Cha mẹ cần chăm sóc và giáo dục con cái không chỉ theo đặc
thù gia đình mà cả những tiêu chuẩn phổ quát là điều kiện thuận lợi cho trẻ phát triển
các phẩm chất và nhân cách tốt [25]. Tác giả Lê Ngọc Văn nhấn mạnh tới yếu tố tác
động của bối cảnh toàn cầu hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa, việc chăm sóc, giáo
dục trẻ em hoàn toàn khác với trước đây. Môi trường và điều kiện sống cũng như
những kỳ vọng đối với trẻ em cũng thay đổi gắn liền với quyền trẻ em, đồng thời đòi

hỏi thế hệ trẻ cần có những phẩm chất, kỹ năng và năng lực khác với xã hội nông
nghiệp truyền thống [46]. Tác giả Lê Thi cũng đã bàn đến vai trò giáo dục con cái của
các bậc cha mẹ hiện nay. Phương pháp giáo dục con cái, trong đó có ứng xử của cha
mẹ khi con mắc lỗi đã có sự thay đổi theo hướng tích cực so với giai đoạn trước đây.
Tinh thần bình đẳng, dân chủ giữa cha mẹ và con cái đã được chú trọng. Cha mẹ chú
ý lắng nghe ý kiến của các con trình bày, dù có hợp lý hay không cũng không gạt bỏ
ngay từ đầu. Nếu con có điều gì sai, thì giảng giải, thuyết phục để chúng nhận thức
được cái phải, không dùng bạo lực áp đặt, bắt con phải làm theo. Bên cạnh đó, tác giả
cũng quan tâm đến những thuận lợi, khó khăn và mong muốn của cha mẹ trong việc
nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các bậc cha mẹ hiện nay
được sự hỗ trợ lớn từ các dịch vụ xã hội trong việc chăm sóc con. Còn khó khăn lớn
nhất là thiếu thời gian, các dịch vụ đắt đỏ… Một số mong muốn của cha mẹ đối với
con cái là có nghề nghiệp ổn định, cuộc sống gia đình hạnh phúc, tư cách đạo đức tốt,
sức khỏe tốt, có địa vị xã hội… [31]. Tuy nhiên, ở một nghiên cứu khác do Viện
Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện, ứng xử của cha mẹ khi con cái mắc lỗi
thường mang tính tiêu cực hơn là tích cực. Cha mẹ thường không kiềm chế được cảm
xúc cá nhân nên có những ứng xử không phù hợp như quát tháo và đánh đòn, thậm
chí là đuổi con ra khỏi nhà. Không có nhiều người ứng xử tích cực như lắng nghe, tìm
hiểu nguyên nhân, khuyên nhủ, động viên con bằng những lời nói nhẹ nhàng, tình
cảm hoặc sử dụng hình thức kỷ luật hợp lý với những khuyết điểm của con cái [29].
Trần Thị Kim Anh đã làm rõ vị trí, vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục trẻ em
trong các lĩnh vực giáo dục đạo đức, tri thức, định hướng nghề nghiệp và giới tính [2].
Cũng cùng chủ đề vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em, nghiên
cứu của Tăng Thị Tuyết Trinh đã làm sáng tỏ nội dung giáo dục đạo đức, phương
pháp giáo dục đạo đức, những nhân tố tác động đến việc cha, mẹ giáo dục đạo đức
cho con cái cũng như đưa ra một số giải pháp khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cho trẻ em trong giai đoạn hiện nay [42]. Tác giả Trần Thị Hồng
Chuyên cũng tìm hiểu về vai trò giáo dục con cái của cha mẹ nhưng tập trung vào
khía cạnh phòng tránh tệ nạn ma túy. Nghiên cứu này đã mô tả thực trạng giáo dục
con cái phòng tránh tệ nạn ma túy của các bậc cha mẹ tại một xã thuộc huyện Mộc

Châu, Sơn La. Đồng thời, nghiên cứu quan tâm đến nội dung, cách thức và thời điểm
cha mẹ giáo dục con cái phòng tránh tệ nạn ma túy cũng như các nhân tố tác động và
thuận lợi, khó khăn của việc này [6].
Nói chung, chức năng giáo dục của gia đình đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu khác nhau đã khẳng định được vai trò quan
trọng của gia đình đối với việc hình thành và xây dựng nhân cách thế hệ trẻ. Nội dung
giáo dục, phương pháp giáo dục, những nhân tố ảnh hưởng… được nhiều tác giả tập
trung làm rõ. Tuy nhiên, chức năng tâm lý – tình cảm của gia đình đối với các thành
viên, đặc biệt là con cái vẫn chưa được chú ý nhiều.
Bên cạnh vai trò giáo dục của gia đình, chủ đề quan hệ giữa cha mẹ và con cái
cũng được nhiều tác giả trong nước quan tâm. Trong những nghiên cứu này, các tác
giả tập trung vào một số nội dung như thực trạng mối quan hệ cha mẹ - con cái, sự
gắn kết giữa cha mẹ và con cái, mô hình ứng xử cha mẹ và con cái, xung đột và giải
quyết xung đột trong mối quan hệ cha mẹ - con cái [36] [14]. Các nghiên cứu đã chỉ
ra, mối quan hệ cha mẹ - con cái với sự gắn kết cao sẽ giúp cha mẹ và con cái hiểu
được nhau, thúc đẩy mối quan hệ tích cực, bảo vệ con cái khỏi các rủi ro và hành vi
nguy cơ. Một số tác giả còn quan tâm đến mối quan hệ cha mẹ - con cái và hành vi
lệch chuẩn của trẻ [10]. Một số mô hình ứng xử cha mẹ - con cái phổ biến được các
nghiên cứu chỉ ra là Tôn ti, thứ bậc trong quan hệ cha mẹ - con cái và những biểu hiện
của mô hình cha mẹ độc đoán; mô hình Dân chủ - cha mẹ là bạn của con và mô hình
cha mẹ làm gương [36]. Nghiên cứu của Lưu Song Hà nêu ra ba kiểu quan hệ cha mẹ
- con cái điển hình: Quan hệ tin tưởng – bình đẳng, Quan hệ bàng quan – xa cách và
Quan hệ nghiêm khắc – cứng nhắc [10]. Nhóm tác giả Lê Minh Thiện, Lê Thị Thu
Hiền đưa ra ba cách ứng xử của cha mẹ khi đề cập đến mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái: Lối ứng xử tin tưởng bình đẳng; Lối ứng xử bàng quan xa cách và Lối ứng xử
nghiêm khắc cứng nhắc. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra cách ứng xử của cha mẹ và con
cái trong gia đình ở những lĩnh vực khác nhau có sự khác nhau. Trong vấn đề học
hành của con cái, cha mẹ có lối ứng xử tin tưởng và bình đẳng. Lối ứng xử theo kiểu
bàng quan, xa cách hiện nay hầu như không còn phù hợp [34].
Một số nghiên cứu đã đề cập đến vai trò của gia đình, đặc biệt là bố mẹ đối với

tình cảm của con cái nhưng còn chưa sâu sắc. Tác giả Đặng Bích Thủy nhìn thấy thực
trạng các bậc cha mẹ rất quan tâm và dành nhiều thời gian cho con cái về vấn đề học
tập, sức khỏe và đời sống tình cảm, tinh thần của con. Tuy nhiên, giữa cha mẹ và con
cái vẫn tồn tại những vấn đề cha mẹ không hiểu và chia sẻ được những cảm xúc của
con, không biết đến các mối quan tâm và lo lắng của con mình [36]. Một nghiên cứu
trường hợp tại thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Ánh Hồng chỉ ra, cha mẹ học sinh
đã dành sự quan tâm nhiều đến đạo đức, lối sống, kết quả học tập, sức khỏe và định
hướng nghề nghiệp tương lai của các em. Tuy nhiên, những mối quan hệ trong đời
sống tình cảm của học sinh, sự tham gia của các em vào các hoạt động xã hội thì chưa
được cha mẹ quan tâm đúng mức [14]. Cũng tương tự như nghiên cứu của Đặng Bích
Thủy, nhóm tác giả Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh và Hà Thị Minh Khương
xem xét sự quan tâm của bố mẹ đối với con cái ở hai khía cạnh: việc học tập và quan
hệ bạn bè của con. Việc quan tâm đến học tập của con được xem xét từ các chỉ báo:
cha mẹ tham gia quyết định chọn trường lớp, thời gian học ở nhà, và việc học thêm
của trẻ; mức độ cha mẹ biết thời gian học ở trường, thời gian học tập ở nhà và kết quả
học tập của trẻ. Về quan hệ bạn bè của con, nghiên cứu chú ý đến hiểu biết các quan
hệ bạn bè của con như: biết bạn thân, biết nơi con thường đến. Bên cạnh đó, nhóm tác
giả cũng tìm hiểu quan hệ cha mẹ với con cái trong đời sống tình cảm, công việc gia
đình, xử lý khi con cái mắc lỗi và suy nghĩ của con về mối quan hệ với cha mẹ [2].
Trong đời sống tình cảm của con cái, nghiên cứu tập trung làm rõ người được con cái
lựa chọn để tâm sự khi có chuyện buồn. Có thể thấy, chỉ báo này chưa đủ để nói lên
toàn bộ đời sống tình cảm của con cái. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, khá nhiều
người được con cái để tâm sự khi có chuyện buồn, trong đó cha mẹ ở vị trí khác nhau.
Tuy nhiên, đối tượng đầu tiên mà con cái tìm đến để tâm sự khi buồn là bạn bè, rồi
đến mẹ và đến những người thân khác trong gia đình, cuối cùng mới là người cha [2].
Các tác giả cũng đã tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ cha mẹ - con
cái. Đó là trình độ học vấn, nghề nghiệp của cha mẹ; địa bàn sinh sống, mức sống,
quy mô hộ gia đình [2]. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, cha mẹ càng học vấn cao thì
tỷ lệ con cái tâm sự với cả cha lẫn mẹ cao hơn. Mức sống gia đình càng cao, cha mẹ
càng có xu hướng tham gia nhiều hơn vào việc quyết định bạn bè của con. Bên cạnh

việc học tập và mối quan hệ bạn bè, quan hệ yêu đương đóng vai trò khá quan trọng
trong đời sống tình cảm của con cái, đặc biệt trong lứa tuổi vị thành niên. Tuy nhiên,
ít nghiên cứu đề cập đến vai trò hỗ trợ của gia đình trong lĩnh vực này. Tác giả Trần
Thị Vân Anh, Hà Thị Minh Khương đã từng nói đến chủ đề này nhưng chưa phân tích
sâu. Con cái tâm sự về chuyện yêu đương với mẹ ở các gia đình thành thị cao hơn hẳn
so với nông thôn. Trong khi đó, người cha ở thành thị và nông thôn không được tin
tưởng trong vấn đề này [2]. Một nghiên cứu khác của Nguyễn Hữu Minh phân tích
phân tích mối quan hệ giữa các đặc điểm gia đình và một số mặt trong đời sống tinh
thần của thanh niên và vị thành niên để làm nổi bật vai trò hỗ trợ tình cảm của gia
đình với đối tượng này [27]. Trong đó, tác giả đã chỉ ra một số yếu tố tác động đến
đời sống tình cảm của vị thành niên và thanh niên thông qua nơi ở, điều kiện kinh tế
gia đình, cha mẹ còn sống/đã mất vào thời điểm các em 14 tuổi, cha mẹ li dị/không li
dị, Sự gắn kết gia đình, học vấn của người cha… Trạng thái sức khỏe tinh thần của vị
thành niên và thanh niên được xác định thông qua một số chỉ báo: Cảm giác bản thân có
giá trị đối với gia đình; Kỳ vọng về cuộc sống gia đình trong tương lai; Trải nghiệm
trầm cảm; đã từng bị thương do người trong gia đình; Có ý định tự tử… [27].
Nhìn chung, nghiên cứu về vai trò giáo dục của gia đình và mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái khá phong phú. Tuy nhiên, các nghiên cứu này còn chưa đề cập,
hoặc đề cập tương đối ít về đời sống tình cảm của con cái cũng như vai trò hỗ trợ của
gia đình đối với lĩnh vực này. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm khai thác
những khía cạnh còn chưa được bàn đến trong các nghiên cứu trước đây.
3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Mối quan hệ cha mẹ - con cái, đặc biệt ở lứa tuổi vị thành niên cũng là một
trong những chủ đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài.
Một số nhà nghiên cứu tập trung vào kiểu quan hệ và tương tác hàng ngày giữa cha
mẹ và vị thành niên (Amal Gamal Shehata, Fatma Hussein Ramadan, 2010), vai trò
của gia đình trong đó có bố mẹ đối với đời sống tinh thần của vị thành niên (Jami F.
Young, Kathuy Berenson, Patricia Cohen và Jesenia Garcia, 2005). Quan hệ cha mẹ
và con cái vị thành niên mang tính gắn kết cao là một yếu tố ảnh hưởng tích cực tới
thành tích học tập của vị thành niên (Hair et all, 2002). Sự tham gia, quan tâm của cha

mẹ đối với việc học tập của con cái khiến cho kết quả học tập của vị thành niên (14 –
18 tuổi) cũng cao hơn (Herman, Dornbusch, Herron và Herting, 1997. Dẫn theo
Moore et al, 2002). Tỷ lệ bỏ học ở trẻ bước vào giai đoạn đầu của lứa tuổi vị thành
niên giảm đáng kể khi cha mẹ quan tâm tới việc học tập của chúng (Garnier và Stein,
1998. Dẫn theo Hair et al). Một trong những hành vi lệch chuẩn như bỏ học, phạm
pháp, bạo lực hay tội phạm của vị thành niên bắt nguồn từ sự lệch lạc của mối quan hệ
gia đình, đặc biệt mối quan hệ giữa người bố và vị thành niên (Hair et al, 2002). Sự
quan tâm của người cha khiến vị thành niên ít tham gia vào các hành vi bạo lực (Blum
và Rinehart, 1997; Resnick et al, 1997. Dẫn theo Hair et al, 2002), sự gần gũi của
người mẹ giảm tỷ lệ vị thành niên có những hành vi lệch chuẩn hơn (Bahr, Marcos, và
Li, 1998. Dẫn theo Moor et al, 2004). Cha mẹ và con cái có mức độ gắn kết cao, hoặc
cha mẹ hiểu biết và thường xuyên chia sẻ các mối quan tâm, lo lắng và biết về tình
hình của con cái tuổi vị thành niên sẽ làm giảm nguy cơ con cái có các hành vi lệch
chuẩn, các hành vi bạo lực, bỏ học sớm, sử dụng các chất gây nghiện (Moore K.A &
Zaff J. 2002, Garcia DC, & Hasson DJ. 2004. Dẫn theo Ikramullah E.et al, 2009).
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự khác nhau trong cách thực hành vai trò
cha mẹ có ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh của sự phát triển về nhận thức, xã hội,
thể chất và tình cảm. Sự khác biệt trong các phong cách cha mẹ sẽ dẫn tới các kết quả
khác nhau như thành tựu về học thuật, lòng tự trọng, hành vi lệch chuẩn, tự chủ, sự
trưởng thành về tình cảm và khả năng lãnh đạo… Những người có thực hành cha mẹ
hạn chế có thể làm cho vị thành niên trải nghiệm các vấn đề phức tạp, thực hành cha
mẹ tốt dẫn đến vị thành niên điều chỉnh tốt và thành công. Theo Diana Baumrind, các
kiểu thực hành cha mẹ khác nhau gồm có 4 kiểu chung khác nhau ở 2 chiều cạnh: cha
mẹ đáp ứng (parental responsiveness) và cha mẹ yêu cầu (parental demandingness).
Cha mẹ đáp ứng có khả năng đáp ứng những nhu cầu đang thay đổi của một đứa trẻ
một cách ấm áp và linh hoạt. Cha mẹ yêu cầu có khả năng thiết lập những quy tắc và
chuẩn mức một đứa trẻ phải tôn trọng và làm theo. Cha mẹ vừa yêu cầu và đáp ứng
được nhận diện là cha mẹ quyền uy (authoritative). Những người đòi hỏi và chi
phối/hướng dẫn nhưng không đáp ứng được nhận diện là cha mẹ độc đoán
(authoritarian). Những người yêu đáp ứng nhưng không yêu cầu là cha mẹ dễ dãi

(permissive). Những cha mẹ không đáp ứng cũng không yêu cầu là kiểu cha mẹ thờ ơ
(rejectingneglecting). Những đứa trẻ có cha mẹ có thẩm quyền thường có hành động
tích cực, tự chủ cao, tự tin, trưởng thành, học vấn cao. Những đứa trẻ có cha mẹ độc
đoán trở nên rụt rè, ít khả năng xã hội, và phụ thuộc khi chúng lớn lên. Những đứa trẻ
trong gia đình có bố mẹ dễ dãi thiếu sự trưởng thành, tự giác kỷ luật, kỹ năng lãnh đạo
và thiếu khả năng đương đầu với những ảnh hưởng từ nhóm bạn xấu. Cuối cùng, nếu
sống với cha mẹ kiểu thờ ơ đứa trẻ sẽ chịu hầu hết các vấn đề nghiêm trọng, kỹ năng
học thuật hạn chế, hành vi lệch chuẩn, gồm lạm dụng rượu và cồn. Phong cách làm
cha mẹ khác nhau sẽ tạo nên các môi trường gia đình khác nhau. Gia đình có sự đối
thoại, giải quyết xung đột tốt, tôn trọng lẫn nhau, con cái sẽ có những thành tích tốt
hơn. Mô hình hành vi của cha mẹ bên trong và bên ngoài gia đình và các kiểu quan hệ
giữa cha mẹ là nhân tố khác có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của vị thành niên.
Như vậy, các nghiên cứu nước ngoài liên quan đến gia đình, cha mẹ, con cái
cũng thường tìm hiểu mô hình, cách thức tương tác giữa cha mẹ và con cái mà chưa
khai thác chủ đề vai trò của gia đình đối với đời sống tình cảm của con cái.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
 Đưa ra các biện pháp cụ thể nâng cao vai trò của gia đình đối với đời sống tình
cảm của học sinh trung học phổ thông
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Hệ thống hóa và thao tác hóa các khái niệm, lý thuyết sử dụng trong nghiên
cứu
 Tìm hiểu vai trò của gia đình đối với đời sống tình cảm của học sinh trung học
phổ thông
 Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của gia đình trong đời sống tình
cảm của học sinh trung học phổ thông.
 Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của gia đình đối với đời sống tình
cảm của học sinh trung học phổ thông
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu

Vai trò của gia đình đối với đời sống tình cảm của học sinh trung học phổ thông
5.2. Khách thể nghiên cứu
 Học sinh Trung học phổ thông được chọn là khách thể trung tâm của nghiên
cứu này do học sinh trung học phổ thông nằm trong giai đoạn muộn của tuổi
vị thành niên, có đầy đủ những đặc trưng tâm sinh lý của lứa tuổi
 Bố/mẹ có con học Trung học phổ thông
 Ông/ bà có cháu học Trung học phổ thông
 Anh/chị/em của học sinh Trung học phổ thông
5.3. Phạm vi nghiên cứu
5.3.1 Phạm vi nội dung
Do điều kiện thời gian và khả năng tiếp cận, đề tài chỉ đi sâu tìm hiểu một số vấn
đề trong đời sống tình cảm của học sinh Trung học phổ thông xoay quanh: việc học
hành, mối quan hệ tình bạn, tình yêu.
5.3.2 Phạm vi không gian
 Trường Trung học Phổ thông Thường Tín, huyện Thường Tín, Hà Nội
 Trường Trung học Phổ thông Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội
5.3.3 Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được tiến hành từ 1/6/2010 đến 1/11/2013
6. Câu hỏi, giả thuyết, khung phân tích và phương pháp nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
 Mức độ quan tâm của gia đình đối với việc học tập, mối quan hệ bạn bè và yêu
đương của con cái như thế nào?
 Sự hỗ trợ của người thân đối với học sinh THPT trong vấn đề học tập, quan hệ
bạn bè và yêu đương?
 Trong các nhóm học sinh, nhóm gia đình khác nhau, mức độ quan tâm, đối
tượng chia sẻ và sự hỗ trợ tình cảm đối với học sinh THPT về các vấn đề trên
có khác nhau không?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
 Các gia đình hiện nay mới quan tâm đến việc học tập của con cái, chưa quan
tâm đến mối quan hệ bạn bè, người yêu.

 Phần lớn sự hỗ trợ của người thân đối với học sinh THPT dừng lại ở việc lắng
nghe, chia sẻ các vấn đề mà các em gặp phải.
 Các nhóm gia đình khác nhau; nghề nghiệp, học vấn của bố mẹ ảnh hưởng đến
sự khác biệt trong quan tâm đến tình cảm của con cái
6.3. Khung phân tích
















Đặc điểm của gia đình
(địa bàn sinh sống, loại
hình, mức sống)
Đặc điểm của bố mẹ
(trình độ học vấn, nghề
nghiệp)


Vai trò của gia đình đối với tình cảm liên quan việc học

tập, bạn bè và tình yêu của học sinh trung học phổ thông
Điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội

6.4. Phương pháp nghiên cứu
6.4.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
6.4.1.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp bao gồm các công trình nghiên
cứu, bài tạp chí, sách, bài viết… về một số chủ đề như: học sinh trung học phổ thông, vị thành
niên, gia đình, các mối quan hệ trong gia đình, đặc biệt là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Phương pháp phân tích nghiên cứu tài liệu thứ cấp được tiến hành nhằm các mục đích sau: Có
những kiến thức cơ bản và khái quát về các chủ đề nghiên cứu; Hình dung ban đầu về lịch sử
nghiên cứu vấn đề và có cơ sở lý luận để so sánh, diễn giải và làm sâu sắc thêm kết quả nghiên
cứu
6.4.1.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân được sử dụng nhằm mục đích có được những thông
tin sâu hơn về vai trò của gia đình đối với đời sống tình cảm của con cái hiện nay, đồng thời lý
giải được một số yếu tố ảnh hưởng đến vai trò này, những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện
vai trò. Đối tượng thu thập thông tin của phương pháp phỏng vấn sâu bao gồm: 04 học sinh, 02
bố/mẹ, 02 ông/bà, 02 anh/chị/em. Thông tin của phương pháp này góp phần giải thích, làm
phong phú thêm các số liệu định lượng.
6. 4.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Phiếu trưng cầu ý kiến sẽ được sử dụng nhằm mục đích thu thập những thông tin định
lượng cho đề tài nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên, có
cân nhắc đến một số yếu tố như yếu tố địa bàn, thành phần gia đình Đề tài sử dụng các thông
tin định lượng thu được từ bảng hỏi đã xử lý bằng chương trình SPSS 13.0.
Chúng tôi đã tiến hành phát 300 phiếu trưng cầu ý kiến cho học sinh 3 khối lớp 10, lớp 11
và lớp 12 của 2 trường Trung học phổ thông Thường Tín và trường Trung học phổ thông Yên
Hòa. Sau đó, chúng tôi hướng dẫn các em cách điền vào từng câu hỏi trong phiếu đã được phát.
Nếu có bất cứ thắc mắc nào về nội dung, hình thức của câu hỏi, chúng tôi giải đáp ngay tại chỗ.
Học sinh điền phiếu xong nộp lại cho điều tra viên để kiểm tra lại tính hợp lý của các câu trả lời.

Cơ cấu mẫu của đề tài cụ thể như sau:
 Trường học: (đơn vị: %)
- Đại diện cho địa bàn nông thôn: Trường Trung học phổ thông Thường Tín, huyện
Thường Tín: 150 (chiếm 50%)
- Đại diện cho địa bàn thành thị: Trường Trung học phổ thông Yên Hòa, quận Cầu Giấy:
150 (chiếm 50%)
- Trong đề tài này, chúng tôi tìm hiểu sự khác biệt của những nội dung nghiên cứu giữa địa
bàn nông thôn và thành thị thông qua sự so sánh giữa hai trường THPT nói trên.
 Giới tính: (đơn vị: %)
- Học sinh nam: 139 (chiếm 46,3%)
- Học sinh nữ: 161 (chiếm 53,7%)
 Khối lớp: (đơn vị: %)
- Học sinh lớp 10: 100 (chiếm 33,3%)
- Học sinh lớp 11: 100 (chiếm 33,3%)
- Học sinh lớp 12: 100 (chiếm 33,3%)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]Trần Thị Kim Anh (2004), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái ở đô thị hiện nay,
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp
[2]Trần Thị Vân Anh, Hà Thị Minh Khương (2009), Quan hệ cha mẹ với con ở tuổi vị thành
niên, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, quyển 19, số 6.
[3]Mai Huy Bích (2010), Xã hội học gia đình, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
[4]Phạm Thanh Bình (2007), Stress trong học tập của học sinh THPT, Tạp chí Tâm lý học số 12
(105), 12 – 2007
[5]Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Unicef Việt Nam
(2011), Các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam: Một số kết quả phân tích sâu Điều tra Gia
đình Việt Nam 2006.
[6]Trần Thị Hồng Chuyên (2010), Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục con cái phòng tránh tệ
nạn ma túy, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp
[7]Dương Tự Đam (1999), Gia đình trẻ và việc hình thành nhân cách thanh niên, Nhà xuất bản
Thanh niên.

[8]Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2008), Xã hội học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[9]Lưu Song Hà (2007), Nhu cầu của học sinh trung học cơ sở về quan hệ của cha mẹ đối với
các em, Tạp chí Tâm lý học, số 4 (97), 4 – 2007]
[10]Lưu Song Hà (2008), Cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn của trẻ, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
[11]Lệ Đỗ Thị Lệ Hằng (2009), Các tác nhân gây stress và cách ứng phó với stress của trẻ vị
thành niên, Tạp chí Tâm lý học số 7 (124), 7 – 2009
[12]Dương Thị Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007), Khó khăn tâm lý và nhu cầu
tham vấn của học sinh trung học phổ thông, Tạp chí Tâm lý học, số 2 (95), 2 – 2007

[13]Dương Thị Diệu Hoa (2011), Giáo trình Tâm lý học phát triển, Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
[14]Nguyễn Ánh Hồng (2012), Mức độ hiểu biết và quan tâm của cha mẹ ở thành phố Hồ Chí
Minh đối với học sinh trung học phổ thông, Tạp chí Tâm lý học, số 5 (158), tr.88 – 99
[15]Trần Thị Hồng (2012), Hành vi tự tử của thanh thiếu niên Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Gia đình và Giới số 5.
[16]Lê Hương (2000), Một số nét tâm lý đặc trưng của lứa tuổi thanh niên, Tạp chí Tâm lý học
số 2.
[17]Vũ Tuấn Huy, 2002, Vai trò của người cha trong gia đình, Tạp chí Xã hội học, số 4 (80), tr.
29 – 39
[18]Đoàn Thị Thanh Huyền (2006), Giáo dục đạo đức cho con cái trong gia đình nông thôn hiện
nay, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Luận văn thạc sỹ
[19]Đỗ Ngọc Khanh (2010), Ứng xử của con qua cách nhìn của cha mẹ, Tạp chí Tâm lý học, số 6
(135), 6- 2010
[20]Nguyễn Linh Khiếu (2003), Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội
[21]Lê Ngọc Lân và cộng sự (2012), Mối quan hệ giữa người cao tuổi và con cháu trong gia
đình Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề cần quan tâm. Báo cáo đề tài cấp Bộ
[22]Nguyễn Thị Mai Lan (2010), Định hướng giá trị, nhân cách của học sinh trung học phổ
thông, Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, Hà Nội

[23]Nghiêm Sỹ Liêm (2001),Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ
[24]Maurice Porot (2004), Trẻ em và quan hệ gia đình, Nhà xuất bản Thế giới
[25]Nguyễn Đức Mạnh (2004), Gia đình và chăm sóc, giáo dục trẻ em tuổi mầm non trong gia
đình hiện nay, Tạp chí Khoa học phụ nữ (3), tr.21-26

[26]Đặng Hoàng Minh, Nguyễn Cao Minh, Victoria.K.Ngô và các cộng sự (2009), Lo lắng của
cha mẹ Việt Nam về các vấn đề phát triển tâm lý của con trẻ, Tạp chí Tâm lý học số 11 (128), 11
– 2009
[27]Nguyễn Hữu Minh (2006), Gia đình – nguồn hỗ trợ tình cảm cho thanh niên và vị thành
niên, Tạp chí Xã hội học số 3 (95).
[28]Nguyễn Hữu Minh và cộng sự (2008), Báo cáo thường niên về nghiên cứu gia đình và giới,
Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới
[29]Nguyễn Phương Thảo (2013), Ứng xử của cha mẹ đối với con cái vị thành niên – Qua cuộc
khảo sát tại thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, quyển 23,
số 5, tr.63 - 73
[30]Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nhà
xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.
[31]Lê Thi (2011), Mối quan hệ ứng xử giữa cha mẹ và con cái, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và
Giới, Quyển 21, số 1, tr.17
[32]Lê Thi (2011), Quan hệ cha mẹ - con cái trong gia đình nhìn từ góc độ giới, Tạp chí Nghiên
cứu Gia đình và Giới, số 5.
[33]Lê Minh Thiện, Đỗ Duy Hưng (2009), Nhận thức về “tình yêu tuổi học trò” của học sinh
trung học phổ thông, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Quyển 19, số 5.
[34]Lê Minh Thiện, Lê Thị Thu Hiền (2012), Cách ứng xử giữa cha mẹ với con cái trong các gia
đình vùng đồng bằng sông Hồng, Tài liệu Hội thảo khoa học Gia đình Việt Nam trong bối cảnh
công nghiệp hóa và hội nhập tại Hà Nội, ngày 26 tháng 3 năm 2012
[35]Lê Ý Thu (2000), Cuộc sống gia đình, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.
[36]Đặng Bích Thủy (2012), Quan hệ cha mẹ - con cái vị thành niên: Cơ sở lý luận và những vấn
đề đặt ra ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới số 2.

[37]Đặng Thị Bích Thủy (2012), Báo cáo tóm tắt đề tài: Quan hệ cha mẹ - con cái vị thành niên
ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề cần quan tâm.
[38]Lê Thị Thanh Thủy (2009), Stress trong học tập và cách ứng phó ở học sinh cuối cấp trung
học phổ thông, Tạp chí Tâm lý học, số 4 (121), 4 – 2009
[39]Lã Thị Thu Thủy (2010), Mức độ gắn kết giữa con đã trưởng thành và cha mẹ, Tạp chí Tâm
lý học, số 8 (137), 8 – 2010.
[40]Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình, Tổng cục Thống kê, ADB (2009), Điều tra Quốc gia
về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2
[41]Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm
1/4/2012, Các kết quả chủ yếu
[42]Tăng Thị Tuyết Trinh (2010), Vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em,
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp
[43]Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc Thành (2000), Tâm lý học đại cương, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
[44]Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (2004), Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia
đình Việt Nam hiện nay, Tài liệu lưu hành nội bộ
[45]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1987, tr. 95
[46]Lê Ngọc Văn (2003), Nghiên cứu gia đình Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay, Tạp chí
Khoa học về Phụ nữ, số 1/2003
[47]Lê Ngọc Văn (2010), Toàn cầu hóa và biến đổi gia đình, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và
Giới quyển 20, số 4.
[48]Lê Ngọc Văn (2011), Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội, Hà Nội
[49]Phạm Thanh Vân (1998), Quyền được chăm sóc, giáo dục trẻ em ở Việt Nam, Tạp chí Khoa
học về Phụ nữ, số 2
[50]Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Gia đình Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh
[51]Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng
[52]Amal Gamal Shehata, Fatma Hussein Ramadan (2010), Pattern of relationship and daily

interactions between parents and adolescents, Tạp chí Khoa học Hoa Kỳ, số 6 (9): Kiểu quan hệ
và tương tác hàng ngày giữa cha mẹ và vị thành niên
[53]David Cheal (2002), Sociology of family life, Palgrave Publishers
[54]Gerald R.Adams, Thomas P.Guilotta, Carol Markstrom-Adams (1994), Adolescent life
Experiences, Brooks/Cole Publishing, California
[55]Jami F. Young, Kathuy Berenson, Patricia Cohen và Jesenia Garcia (2005), Vai trò của hỗ
trợ từ cha mẹ và nhóm đồng đẳng trong việc dự đoán sự trầm cảm của vị thành niên, Tạp chí
Nghiên cứu Vị thành niên, số 15 (4)
[56] Bài viết “” />thanh-nien-chuyen-dau-long!.htm
[57] Bài viết “”
[58]Bài viết “Adolescent Peer Culture – Parents’ Role”, website:
/>ROLE.html



×